Quyết định 710/QĐ-UBND năm 2015 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Số hiệu: 710/QĐ-UBND Loại văn bản: Quyết định
Nơi ban hành: Tỉnh Điện Biên Người ký: Mùa A Sơn
Ngày ban hành: 14/08/2015 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Văn hóa , thể thao, du lịch, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 710/QĐ-UBND

Điện Biên, ngày 14 tháng 08 năm 2015

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP , ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT , ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Văn hóa Thông tin, Hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ;

Xét đề nghị của Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên, đường phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên (có Ngân hàng kèm theo).

Điều 2.

Giao Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng:

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến về giá trị, ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh.

- Định kỳ 02 năm một lần tổ chức sưu tầm, lựa chọn tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng.

Các Sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; các tổ chức, đơn vị và UBND các huyện, thị xã, thành phố được giao nhiệm vụ quản lý các tuyến đường, phố, công trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn dữ liệu trong Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng đã được UBND tỉnh phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi tên theo trình tự, thủ tục quy định.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh; Thành viên Hội đồng tư vấn đặt tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng tỉnh Điện Biên; Thủ trưởng các Sở, Ban, ngành tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố; các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH




Mùa A Sơn

 

NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN
(Ban hành kèm theo Quyết định: 710 /QĐ-UBND ngày 14/8/2015 của UBND tỉnh)

I. Căn cứ xây dựng Ngân hàng tên đường phố và công trình công cộng

Nghị định số 91/2005/NĐ-CP , ngày 11/7/2005 của Chính phủ ban hành quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT , ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn một số điều của quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Việc đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng nhằm góp phần thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính; tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tình hữu nghị đoàn kết quốc tế.

II. Mục đích

1. Sưu tầm, tập hợp có hệ thống, ngắn gọn, tương đối đầy đủ và khoa học về tiểu sử (quê hương, thân thế, sự nghiệp) của các danh nhân, tướng lĩnh, anh hùng là người con của Điện Biên hoặc đã sống và cống hiến cho tỉnh Điện Biên nói riêng và dân tộc nói chung.

2. Tạo sự thống nhất, khoa học trong công tác đặt và đổi tên đường phố, công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Góp phần phục vụ công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội.

3. Thông qua việc xây dựng và sử dụng Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trong công tác đặt và đổi tên đường phố, công trình công cộng góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên;

4. Đáp ứng nguyện vọng chung của nhân dân trong tỉnh, góp phần quan trọng xây dựng Điện Biên phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, ổn định về chính trị, vững mạnh về quốc phòng an ninh.

III. Yêu cầu

1. Đối với danh nhân

a) Là người có những đóng góp lớn, tiêu biểu trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam để lại cho thế hệ sau những tác phẩm, những công trình khảo cứu, những tư tưởng có giá trị khoa học và thực tiễn góp phần hình thành truyền thống tốt đẹp của Điện Biên và đất nước;

b) Là những người được nhân dân truyền tụng, tôn vinh, thờ phụng từ đời này đời sang đời khác với nhiều hình thức khác nhau.

c) Tôn vinh những người con ưu tú của vùng đất Điện Biên nói riêng và dân tộc nói chung được lịch sử, dân tộc, nhân dân ghi nhận và lưu danh.

2. Đối với địa danh

Là những địa danh lịch sử, những tên gọi đã trở thành truyền thống trong tiềm thức của nhân dân.

3. Đối với sự kiện

Các sự kiện tiêu biểu nổi bật của tỉnh Điện Biên và của cả nước.

IV. Nguồn tư liệu

- Lịch sử Việt Nam, tập I, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971;

- Những sự kiện lịch sử Đảng tập 1, 2, 3, Nhà Xuất bản Sự thật năm 1976;

- Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà Xuất bản Từ điển bách khoa, năm 2005;

- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu tập 1, 2 Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia tập 1 năm 1999, tập 2 năm 2004;

- Từ điển Văn hóa Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1993;

- Kỷ yếu phong trào Thi đua yêu nước thời kỳ đổi mới tỉnh Điện Biên lần thứ II (2001-2005), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy biên soạn tháng 6/2005;

- Kỷ yếu Hội thảo Thái học Việt Nam lần thứ V, năm 2009;

- Đề xuất của các Sở, ban, ngành đoàn thể tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố.

V. Nội dung của Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng chia làm hai phần

Phần A: Đường, phố và công trình công cộng đã được đặt tên trên địa bàn tỉnh Điện Biên

Phần B: Dữ liệu Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng tỉnh Điện Biên

I. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu và một số địa danh tiêu biểu của đất nước

II. Các sự kiện lịch sử, cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam

III. Các địa danh lịch sử, cách mạng, di tích, danh thắng, danh nhân, cán bộ tiền khởi nghĩa , lão thành cách mạng tỉnh Điện Biên

IV. Sự kiện, địa danh, các anh hùng trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

V. Các danh nhân, tướng lĩnh tiêu biểu và anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Điện Biên

PHẦN A

ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT TÊN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

I. Những công trình đã được đặt tên trên địa bàn thành phố Điện Biên Phủ (đô thị loại III)

1. Đường được đặt tên theo quyết định số 87/QĐ-UB ngày 26/2/1997 của UBND tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên)

1.1. Đường Nguyễn Hữu Thọ

Địa phận thuộc liên phường, điểm đầu từ ngã tư cầu Mường Thanh cũ đến điểm cuối là Cảng hàng không Điện Biên Phủ.

1.2. Đường Tô Vĩnh Diện

Địa phận thuộc phường Him Lam, chiều dài: 524m, chiều rộng 10,5m từ đường Võ Nguyên Giáp đến đường số 33 (110m đến điểm cuối đường Tô Vĩnh Diện).

1.3. Đường Hoàng Văn Thái

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu kéo dài từ ngã tư đường Võ Nguyên Giáp cạnh đồi A1 đến ngã tư Sân vận động tỉnh.

1.4. Đường Trường Chinh

Địa phận thuộc liên phường, điểm đầu nối từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối ngã tư Sân vận động tỉnh.

1.5. Đường Bế Văn Đàn

Địa phận thuộc phường Mường Thanh và Tân Thanh, điểm đầu kéo dài từ Đường Võ nguyên Giáp đến điểm cuối cầu Mường Thanh cũ.

1.6. Đường Tôn Thất Tùng

Kéo dài từ đường Hoàng Văn Thái đến điểm cuối bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh.

1.7. Đường Lò Văn Hặc

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, Thanh Bình, kéo dài từ đường Trần Đăng Ninh đến ngã tư thuộc tổ dân phố 5,6,7 phường Thanh Bình và đến điểm cuối trụ sở UBND phường Thanh Bình.

1.8. Đường 13/3

Địa phận thuộc phường Him Lam, kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp (đường vào bản Him Lam 1, cạnh sân quảng trường thành phố) đến điểm cuối hết khu dân cư Biên Phòng.

1.9. Đường Trần Văn Thọ

Địa phận thuộc phường Him Lam, kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến quốc lộ 12.

1.10. Đường Sùng Phái Sinh

Địa phận thuộc phường Tân Thanh, điểm đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối đường 27m.

1.11. Đường Lê Trọng Tấn

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối đường Trần Văn Thọ.

1.12. Đường Hoàng Công Chất

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối ngã tư trường tiểu học Hà Nội - Điện Biên Phủ.

1.13. Đường Trần Can

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu từ Sở Xây dựng đến điểm cuối ngã ba nối vào Sân vận động.

1.14. Đường Phan Đình Giót

Địa phận thuộc phường Mường Thanh, điểm đầu kéo dài từ UBND tỉnh đến điểm cuối chợ trung tâm 3.

1.15. Đường Trần Đăng Ninh

Địa phận thuộc phường Tân Thanh và Thanh Bình điểm đầu kéo dài từ đường Võ Nguyên Giáp đến điểm cuối Bến xe khách tỉnh.

1.16. Đường Nguyễn Chí Thanh

Địa phận thuộc phường Mường Thanh và Tân Thanh, điểm đầu kéo dài từ đường Trần Đăng Ninh đến điểm cuối Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng tỉnh.

2. Đường, công trình được đặt tên theo Quyết định số 05/2014/QĐ-UBND và Quyết định số 06/2014/QĐ-UBND ngày 15/4/2014 của UBND tỉnh Điện Biên

2.1. Đường Võ Nguyên Giáp

Địa phận thuộc liên phường, đường Võ Nguyên Giáp có chiều dài 6.965,4m, mặt đường bê tông nhựa rộng 32m. Điểm đầu của đường từ cầu Huổi Phạ-lý trình 71+286 và điểm cuối là cầu bê tông giáp ranh với huyện Điện Biên-lý trình 78+251,4.

2.2. Quảng trường 7/5

Thuộc địa bàn phường Mường Thanh, Quảng trường 7/5 gắn liền với Trung tâm Hội nghị Văn hóa tỉnh.

Thành phố được chia thành 07 phường: Mường Thanh, Him Lam, Tân Thanh, Nam Thanh, Thanh Bình, Noong Bua, Thanh Trường và 02 xã; các phường chia thành các tổ dân phố được đánh theo số tự nhiên.

II. Các huyện, thị xã còn lại trên địa bàn tỉnh

- Xếp loại đô thị các huyện, thị xã còn lại trong tỉnh

+ Thị xã Mường Lay là đô thị loại IV (chưa được công nhận).

+ Thị trấn Điện Biên Đông là đô thị loại V.

+ 04 thị trấn huyện lỵ cấp đô thị loại V (chưa được công nhận): Mường Ảng, Mường Chà, Tuần Giáo và Tủa Chùa

+ 03 huyện là Điện Biên, Nậm Pồ và Mường Nhé chưa có thị trấn.

Hầu hết chưa đặt tên đường, phố trong thị trấn, thị xã; thường được chia thành tổ dân phố theo số và tổ dân phố theo tên thường gọi, cụ thể:

- Thị trấn Tủa Chùa chia thành các tổ dân phố: Thành Công, Đồng Tâm, Thống Nhất, Thắng Lợi 1, Thắng Lợi 2, Quyết Thắng.

- Thị trấn Điện Biên Đông: Đặt tên tổ dân phố theo tên gọi truyền thống Na Son từ Na Son 1 đến Na Son 5, các tổ dân phố còn lại đặt tên theo số.

- Thị trấn Tuần Giáo đặt tên thành các khối: Huổi Củ, Thắng Lợi, Tân Tiến, Tân Giang, Tân Thủy, Trường Xuân, Đoàn Kết, 20/7, Thống Nhất, Đồng Tâm, Sơn Thủy.

- Các thị trấn còn lại của các huyện chia và đặt tên tổ dân phố theo số.

Phần B

DỮ LIỆU NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TỈNH ĐIỆN BIÊN

I. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu và một số địa danh tiêu biểu của đất nước

1. Độc lập: Là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Khái niệm “Độc lập” có ý nghĩa tương phản với “Nô dịch” (sự khuất phục).

2. Đồng tâm: thể hiện sự đoàn kết cùng hướng về một hướng.

3. Giải phóng: Là làm cho được tự do, thoát khỏi địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc; là thoát khỏi tình trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.

4. Hòa bình: Là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Hòa bình đối lập với chiến tranh.

5. Thanh niên: Là lực lượng to lớn, là nguồn lực dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước.

6. Thành công: Sự thắng lợi, thành quả đạt được sau quá trình nỗ lực, cố gắng.

7. Thống nhất: Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn cho toàn dân tộc.

8. Tự do: Là trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động chính trị, xã hội.

9. Hà Nội: Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thủ đô của đất nước, là thành phố đã kết nghĩa với tỉnh Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu) vào ngày 01/10/1967.

10. Lai Châu: Tỉnh Lai Châu tách ra thành 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu.

11. Thái bình: là trạng thái một dân tộc, một xã hội, không có loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, nhân dân được sống trong hòa bình.

12. Hoàng Sa (có nghĩa là cát vàng hay bãi cát vàng): Là một đơn vị hành chính thuộc thành phố Đà Nẵng.

13. Trường Sa: Là hệ thống các đảo thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa.

II. Các sự kiện lịch sử, cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam

TT

Tên sự kiện

Thời gian, địa điểm diễn ra sự kiện

Tóm tắt nội dung sự kiện

Tên dự kiến đặt

Ghi chú

1

Thành lập Nhà nước Âu Lạc

Khoảng nửa sau thế kỷ III trước CN

 

Do sự suy yếu của triều đại Hùng Vương, vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, Thục Phán - thủ lĩnh người Âu Lạc đã lãnh đạo nhiều đội quân đánh đổ triều đại Hùng Vương, lập nên nước Âu Lạc. Thục Phán xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa. Như vậy sự ra đời của nhà nước Âu Lạc không chỉ hợp nhất các thành phần dân tộc mà lãnh thổ của người Lạc Việt và Âu Việt cũng được thống nhất và phát triển cao hơn về mọi mặt so với quốc gia Văn Lang.

- Âu Lạc

- Cổ Loa

 

2

Hội nghị Bình Than

- Năm 1282

- Địa bàn: Trên sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu (nay là xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh)

Đứng trước nguy cơ xâm lược lần thứ 2 của quân Nguyên Mông, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Tháng 11 năm 1282, vua Trần ra Bình Than mở hội nghị các vương hầu quan lại. Đây là hội nghị quân sự vô cùng quan trọng để bàn kế sách đánh giặc, trong đó có sự kiện Hoài Văn Hầu - Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì uất ức không được tham dự vì tuổi còn nhỏ.

Bình Than

 

 

3

Chiến thắng trận Chương Dương (trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên Mông)

- Năm 1285

- Địa bàn: Tại bến Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội)

Thắng trận Hàm Tử - Tây Kết, Trần Quốc Tuấn mang toàn quân ra Bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại Thăng Long. Bằng kế sách ngăn chặn không cho Toa Đô hợp binh với Thoát Hoan, trong khi đó đại quân của Thoát Hoan ở Thăng Long cũng đang trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt, các chiến thuyền đều đóng ở Chương Dương. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản tấn công quân Nguyên ở Chương Dương; quân giặc bị bất ngờ nên đã tan tác bỏ chạy. Trên đà chiến thắng đó quân ta tiến vào Thăng Long, quân của Thoát Hoan không chống cự được buộc phải rút khỏi kinh thành Thăng Long.

Chương Dương

 

4

Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn

- Năm 1940

- Địa bàn: tại Lạng Sơn

Khi quân Nhật đánh vào Lạng Sơn, ngày 22/9/1940, quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút lui qua châu Bắc Sơn. Ngày 27/9/1940, Đảng bộ châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của quân Pháp, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Ngày 3/10/1940 tại rừng Tân Hương chính quyền của ta đã quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn.

Bắc Sơn

 

5

Sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng

Năm 938

Tháng 10 năm 938, Ngô Quyền tiến quân ra Bắc. Kiều Công Tiễn hoảng sợ cầu cứu vua Nam Hán. Cuối tháng 11 năm 938, đoàn thuyền Nam Hán vượt biển Quảng Châu, tiến dần tới cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh Ngô Quyền, quân dân ta đã đóng cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn ngang sông Bạch Đằng, nơi hiểm yếu gần cửa biển thành một trận địa ngầm. Quân thủy, bộ của ta mai phục ở phía trong. Khi nước triều xuống, bãi cọc nhô lên, quân ta được lệnh cũng nhất tề xông ra đánh địch. Đội hình địch tan tác, nhiều thuyền bị vỡ, bị đắm, tướng sĩ hoảng loạn, phần bị giết, phần chết đuối, phần lớn quân Nam Hán bị tiêu diệt trong đó có cả chủ tướng Hoằng Thao.

Trận chiến Bạch Đằng (938) là một trận quyết chiến chiến lược lớn trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ phát triển quốc gia phong kiến độc lập.

Bạch Đằng

 

6

Phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi phát động

Từ tháng 7/1885 đến năm 1896.

Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi khởi nghĩa ở kinh thành Huế và sau đó ban chiếu Cần Vương. Phong trào thu hút được một số quan lại trong triều đình và văn thân, tầng lớp sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ tháng 7/1885 đến năm 1896.

Cần Vương

 

 

7

Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang

- Năm 1427

- Địa bàn: Tại Lạng Sơn

Sau một loạt thất bại nặng nề của địch, nhà Minh cử viện binh chia làm 2 đạo quân, một đạo quân do Liễu Thăng và một đạo quân do Mộc Thạch chỉ huy tiến sang Đại Việt. Sau khi Liễu Thăng cầm đầu 10 vạn quân vượt biên giới tiến vào vùng Lạng Sơn, quân ta vừa đánh vừa rút lui để nhử địch vào trận địa mai phục ở Ải Chi Lăng (Lạng Sơn); tại đây toàn bộ đội quân tiên phong của địch bị tiêu diệt gọn; Liễu Thăng bị chém chết bên sườn núi Mã Yên; tàn quân rút về thành Xương Giang nhưng căn cứ này cũng đã bị quân ta chiếm giữ từ 10 ngày trước. Cuối cùng chúng phải đóng quân tại cánh đồng Xương Giang, tại đây, ngày 3/11/1427 quân địch đã bị quân ta bao vây tiêu diệt gọn.

- Chi Lăng

- Xương Giang

 

8

Chiến dịch Hồ Chí Minh

- Từ ngày 26/4 đến ngày 30/4/1975

- Địa bàn: tại Sài Gòn

Ngày 26/4/1975, với 5 cánh quân, ta đã bao vây và nổ súng tấn công Sài Gòn. Ngày 29/4/1975, quân ta tổng công kích trên các mặt trận. 10h 45 phút ngày 30/4/1975, các đơn vị của Quân đoàn II tiến thẳng vào Dinh Độc Lập bắt sống toàn bộ chính quyền Trung ương Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

- Chiến Thắng

- 30/4

 

 

9

Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) đặt tên nước là Đại Cồ Việt

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, dựng đô ở Hoa Lư

Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế, năm 968 ông đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hai năm sau ông bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự đặt niên hiệu riêng là Thái Bình. Đó là những biểu hiện mới của tinh thần tự chủ, quyết tâm giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc và cũng là sự phủ định quyền bá chủ của các hoàng đế phương Bắc.

Đại Cồ Việt

 

 

10

Sự kiện Lý Công Uẩn rời Đô ra Thăng Long

Năm 1010

 

Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ dưới triều Tiền Lê. Làm vua lập ra triều Lý - triều đại phong kiến độc lập tự chủ đầu tiên của nước ta, năm 1010 Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) quyết định rời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên là Thăng Long. Mục đích, ý nghĩa của việc này được thể hiện rõ ràng, đầy đủ trong chiếu rời đô của Lý Thái Tổ. Việc Lý Thái Tổ rời đô ra Thăng Long đã phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền, đồng thời chứng tỏ lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập.

- Đại La

- Thăng Long

 

11

 

Đổi tên nước là Đại Việt

Năm 1054

 

Sau khi rời đô, củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền, năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nước Đại Việt lúc đó tuy đất hẹp, dân thưa nhưng là một nước độc lập hoàn toàn. Tên nước cũng thể hiện một niềm tự tôn và ý thức bình đẳng của cả dân tộc Việt Nam với các dân tộc xung quanh.

Đại Việt

 

12

 

Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954

- Từ ngày 13/3 đến ngày 7/5/1954

- Địa bàn: tại thung lũng Mường Thanh, huyện Điện Biên

Ngày 13/3/1954, quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 3 đợt chiến đấu, ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Caxtơri. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ký kết Hiệp định Giơnevơ, trao trả độc lập cho đất nước ta.

- Điện Biên Phủ

- 7/5

 

13

 

Hội nghị Diên Hồng

- Năm 1288

- Địa bàn: Tại điện Diên Hồng Thăng Long (Hà Nội)

Đất nước đứng trước nguy cơ một cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Trong không khí khẩn trương chuẩn bị kháng chiến, hội nghị Diên Hồng được tổ chức. Đây là hội nghị thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm “Đánh” của triều đình và quân dân nhà Trần quyết tâm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

Diên Hồng

 

14

 

Ngày Quốc khánh

- Ngày 2/9/1945

- Địa bàn: tại Thủ đô Hà Nội

Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- 2/9

- Ba Đình

 

15

 

Chiến thắng Ngọc Hồi, Khương Thượng

- Năm 1789

- Địa bàn: Thăng Long - Hà Nội

Tháng 11 năm 1788, quân Thanh ồ ạt tiến vào nước ta, chiếm được Thăng Long, ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, sau khi lên ngôi Quang trung đã chỉ huy binh sĩ đánh chiếm các đồn tiêu biểu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết, Nhật Tảo, Hà Hồi; sau khi thất thủ các đồn trên, địch đã lập tức tăng viện, củng cố đồn Ngọc Hồi - một vị trí then chốt ở mặt Nam Thăng Long. Ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu (30-1-1789), đội tượng binh của Quang Trung bất gờ tiến công và hạ đồn; phối hợp với cánh quân của Quang Trung đô đốc Đặng Tiến Đông tấn công như vũ bão vào đồn Khương Thượng - Đống Đa bị bất ngờ quân giặc đã thua trận.

Đống Đa

 

 

16

Phong trào “Đồng Khởi” Bến Tre

- Năm 1960

- Tại Bến Tre

Ngày 17/1/1960, cuộc “đồng khởi” nổ ra ở ba xã “điểm” là Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp, rồi nhanh chóng lan tỏa ra toàn tỉnh Bến Tre. Hàng vạn nhân dân đã ào ạt xuống đường, vũ trang giáo mác, truy lùng bọn tề độc ác, đập tan bộ máy cai trị, giải phóng các ấp. Sau đó, phong trào “đồng khởi” lan rộng ra khắp một vùng rộng lớn ở Nam Bộ; thắng lợi của phòng trào đồng khởi dẫn đến sự thành lập của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960.

Đồng Khởi

 

17

 

Chiến thắng Hàm Tử - Tây Kết (kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2)

- Năm 1285

- Địa bàn: Tại Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ngày nay

Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của triều đại nhà Trần đã toàn thắng, thể hiện "Hào khí Đông A" của Đại Việt, Nhà Trần lần thứ hai đánh đuổi được quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến dành thắng lợi gắn liền với hai địa danh Hàm Tử, Tây Kết.

 

- Hàm Tử

- Tây Kết

 

18

 

Khởi nghĩa Lam Sơn

- Năm 1418- 1427

- Địa bàn: từ Lam Sơn, Thanh Hóa mở rộng vào Nghệ An rồi tiến ra Bắc.

Năm 1.416 tại núi rừng Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hoá) Lê Lợi cùng với 18 người thân tín làm lễ tuyên thệ đuổi giặc cứu nước. Đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau những năm tháng hoạt động, xây dựng căn cứ, tập hợp lực lượng phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng quy mô cả nước, tổ chức nhiều trận đánh vang dội, đến ngày 3/1/1428 quân xâm lược Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Đất nước giành lại được độc lập.

Lam Sơn

 

 

19

 

Dựng Văn Miếu, Quốc Tử Giám và mở khoa thi đầu tiên

- Năm 1070 và 1075

- Địa bàn: Tại Thăng Long

Nhà Lý chăm lo củng cố, xây dựng chính quyền và phát triển đất nước trên tất cả các phương diện. Cũng từ đây nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo và tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Năm 1070 triều đình dựng Văn Miếu và mở Quốc Tử Giám. Có thể nói đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam; làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài, từ đây Lý đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển chế độ giáo dục và thi cử trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam về sau.

Quốc Tử Giám

 

20

 

Đại hội Quốc dân Tân Trào

- Ngày 16, 17/8/1945

- Địa bàn: tại Tân Trào, Tuyên Quang

Ngày 14,15/8 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã đưa ra nội dung Nghị quyết gồm 11 phần, Nghị quyết đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về nhân dân. Ngày 16, 17/8/1945 Đại hội quốc dân đã được tổ chức ở Tân Trào và thống nhất chủ trương Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Tân Trào

 

21

 

Phong trào

Tây Sơn

- Năm 1771 - 1802

- Địa bàn: từ đất Tây Sơn (Bình Định, Gia Lai, Kom Tum) phát triển khắp cả nước.

Tây Sơn là phong trào khởi nghĩa chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII và cũng là một triều đại phong kiến Việt Nam từ năm 1771 đến năm 1802. Thủ lĩnh phong trào là 3 anh em nhà Nguyễn Huệ (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ), quê ở ấp Tây Sơn, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Do đó phong trào còn được gọi là phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn; với danh nghĩa là phù Lê diệt Trịnh, thống nhất đất nước, đánh thắng quân Xiêm xâm lược với các trận Rạch Gầm - Xoài Mút, đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 giữ yên bờ cõi.

Tây Sơn

 

22

 

Thành lập Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng

Khoảng thế kỷ VII - VI tr CN

Thời kỳ kim khí phát triển, đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn, hình thành nhà nước Văn Lang. Do nhu cầu trong cuộc sống (trị thuỷ, chống xâm lấn, trao đổi kinh tế, văn hoá, huyết thống…) giữa các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt nên Thủ lĩnh của Bộ lạc Văn Lang đã đứng lên thống nhất tất cả các Bộ lạc, dựng lên nước Văn Lang. Nước Văn Lang của các vua Hùng (Hùng Vương) là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử của dân tộc.

Văn Lang

 

 

23

 

Khởi nghĩa Lý Bí, dựng nước Vạn Xuân

Năm 542 khởi nghĩa, năm 544 dựng nước

 

Lý Bí, một thời gian làm quan cho nhà Lương. Trước sự tàn bạo của bọn thống trị, ông bỏ về quê xây dựng lực lượng, liên kết với nhiều thủ lĩnh các vùng miền đứng lên khởi nghĩa và đánh thắng quân Lương, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ châu Giao và châu Đức (tương đương toàn bộ miền Bắc cho đến đèo Ngang hiện nay). Đầu năm 544 Lý Bí dựng nước, lên ngôi hoàng đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Việc dựng nước Vạn Xuân khẳng định dân tộc Việt Nam sau gần năm thế kỷ bị đô hộ là một dân tộc độc lập, là chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình.

Vạn Xuân

 

 

24

 

Chiến dịch Việt Bắc- Thu Đông năm 1947

Năm 1947

Chiến dịch Việt Bắc thu đông là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Sau 75 ngày đêm chiến đấu, quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Việt Bắc trở thành thủ đô kháng chiến.

Việt Bắc

 

25

 

Phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh

- Năm 1930 - 1931

- Địa bàn: tại Nghệ Tĩnh

Đây là phong trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930 - 1931 chống lại thực dân Pháp. Phong trào được mở đầu bằng cuộc biểu tình ngày 1/5/1930 của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân thuộc 5 xã ven thành phố Vinh, làm cho bộ máy chính quyền thực dân Pháp và bộ máy chính quyền địa phương của nhà Nguyễn lâm vào tình trạng rối gien.

Xô Viết - Nghệ Tĩnh

 

Tổng số 32 tên

III. Các địa danh lịch sử, cách mạng, di tích, danh thắng, danh nhân, cán bộ tiền khởi nghĩa, lão thành cách mạng gắn với tỉnh Điện Biên

1. Các sự kiện tiêu biểu có ý nghĩa ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Điện Biên

TT

Tên sự kiện

Thời gian diễn ra sự kiện

Tóm tắt nội dung sự kiện

Tên dự kiến đặt

Ghi chú

1

Thành lập tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

28/6/1909

Ngày 28/6/1909, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định số 1532 tách các châu: Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Châu Lai, Luân Châu của tỉnh Sơn La để thành lập tỉnh Lai Châu.

28/6

 

2

Thành lập đội xung phong Quyết Tiến

1948

Năm 1948 thành lập Ban xung phong Tây Bắc mở đường lên Điện Biên Phủ; đội xung phong Quyết Tiến, một trong 4 đội võ trang tuyên truyền chủ yếu của Liên Khu 10 được thành lập để thực hiện nhiệm vụ mở đường.

Quyết Tiến

 

3

Thành lập Đảng bộ tỉnh Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

10/10/1949

Ngày 10/10/1949, Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên và Lai Châu) được thành lập.

 

10/10

 

4

Ngày thành lập Đảng bộ huyện Tuần Giáo và huyện Điện Biên

01/8/1950

Ngày 01/8/1950 là ngày thành lập Đảng bộ huyện Tuần Giáo và huyện Điện Biên.

01/8

 

5

Ngày Giải phóng huyện Tuần Giáo

20/11/1952

Ngày 20/11/1952, huyện Tuần Giáo được bộ đội chủ lực của ta giải phóng trong chiến dịch Tây Bắc.

20/11

 

6

Ngày giải phóng thị xã Mường Lay

12/12/1953

Ngày 12/12/1953, là ngày giải phóng thị xã Mường Lay thoát khỏi chế độ của thực dân phong kiến.

12/12

 

7

Ngày thành lập Đảng bộ huyện Mường Lay (nay là huyện Mường Chà)

25/1/1954

Ngày 25/1/1954, là ngày thành lập Đảng bộ huyện Mường Lay (nay là huyện Mường Chà).

25/1

 

8

Thành lập huyện Tủa Chùa

18/10/1955

Ngày 18/10/1955, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Nghị định số 606-TTg về thành lập châu Tủa Chùa trực thuộc Khu tự trị Thái - Mèo trên cơ sở tách ra từ châu Mường Lay

18/10

 

9

Thành lập Đảng bộ huyện Tủa Chùa

28/9/1955

Ngày 28/9/1955 là ngày thành lập Đảng bộ huyện Tủa Chùa

28/9

 

10

Ngày tái thành lập tỉnh Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

27/10/1962

Ngày 27-10-1962, tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa II ra Nghị quyết đổi tên Khu tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc và thành lập lại hai tỉnh trong Khu là: Lai Châu, Sơn La và một tỉnh mới Nghĩa Lộ.

27/10

 

11

Ngày thành lập thị xã Mường Lay

8/10/1971

Ngày 8/10/1971, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 189-CP về thành lập Thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay).

8/10

 

12

Ngày thành lập Đảng bộ Thị xã Mường Lay

17/12/1971

Ngày 17/12/1971 là ngày thành lập Đảng bộ Thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay)

17/12

 

13

Thành lập thị xã Điện Biên Phủ (nay là thành phố ĐBP)

18/4/1992

Ngày 18/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 130/QĐ-HĐBT về thành lập Thị xã Điện Biên Phủ trên cơ sở thị trấn huyện Điện Biên và hai xã Thanh Minh và Noong Bua.

18/4

 

14

Thành lập huyện Điện Biên Đông

7/10/1995

Ngày 7-10-1995, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 59-NĐ/CP về thành lập huyện Điện Biên Đông trên cơ sở tách ra từ huyện Điện Biên.

 

7/10

 

15

Thành lập Đảng bộ huyện Điện Biên Đông

01/01/1996

Ngày 01/01/1996 là ngày thành lập Đảng bộ huyện Điện Biên Đông

1/1

 

16

Thành lập huyện Mường Nhé

14/1/2002

Ngày 14-1-2002, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 08-NĐ/CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mường Tè, huyện Mường Lay để thành lập huyện Mường Nhé.

14/1

 

17

Thành lập Đảng bộ huyện Mường Nhé

09/9/2002

Theo Quyết định 570-QĐ/TU ngày 09/9/2002 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu cũ (nay là Tỉnh Điện Biên) về việc thành lập Đảng bộ huyện Mường Nhé.

09/9

 

18

Thành lập thành phố Điện Biên Phủ

26/9/2003

Ngày 26-9-2003, Chính phủ ra Nghị định số 110/2003/NĐ-CP về thành lập Thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu.

26/9

 

19

Đổi tên huyện Mường Chà

02/03/2005

Ngày 02/03/2005, Chính phủ ra Nghị định số 25/2005/NĐ-CP về việc đổi tên huyện Mường Lay và thị trấn Mường Lay thành huyện Mường Chà và thị trấn Mường Chà, tỉnh Điện Biên.

2/3

 

20

Thành lập huyện Mường Ảng

14/11/2006

Ngày 14-11-2006, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 135/2006/NĐ-CP về thành lập huyện Mường Ảng trên cơ sở tách ra từ huyện Tuần Giáo.

14/11

 

21

Thành lập Đảng bộ huyện Mường Ảng

28/3/2007

Theo Quyết định số 546-QĐ/TU của Tỉnh uy Điện Biên thành lập Đảng bộ huyện Mường Ảng trực thuộc Đảng bộ tỉnh Điện Biên.

28/3

 

22

Thành lập huyện Nậm Pồ

25/8/2012

Ngày 25/8/2012, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định số 45-NQ/CP về thành lập huyện Nậm Pồ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mường Nhé và huyện Mường Chà.

25/8

 

23

Thành lập Đảng bộ huyện Nậm Pồ

6/6/2013

 

Theo Quyết định số 2527-QĐ/TU của tỉnh Ủy Điện Biên V/v thành lập Đảng bộ huyện Nậm Pồ, ngày 6/6/2013 trực thuộc Đảng bộ tỉnh Điện Biên.

6/6

 

2. Danh mục tên các danh nhân địa phương trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, cán bộ tiền khởi nghĩa của Điện Biên qua các thời kỳ

TT

Họ tên

Quê quán

Tóm tắt thân thế sự nghiệp

Tên dự kiến đặt

Ghi chú

24

Hoàng Công Chất

Xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

Là thủ lĩnh nông dân thế kỷ XVIII chống lại triều đình phong kiến mục nát, ông đã liên kết với các thủ lĩnh địa phương là tướng Ngải và tướng Khanh cùng nhau đánh đuổi giặc Phẻ để giải phóng hoàn toàn Mường Thanh vào năm 1754 và phát triển lực lượng ra khắp miền Tây Bắc, đồng thời ông đã chia ruộng cho dân nghèo. Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn (tiếng Thái gọi là Sam Mứn) do người Lự xây dựng trước đó làm đại bản doanh. Sau đó nhận thấy thành Tam Vạn ở địa thế bất lợi, ông cho xây thành Bản Phủ còn gọi là thành Chiềng Lề (nay thuộc xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên) làm căn cứ. Từ Mường Thanh, quân khởi nghĩa đánh ra xung quanh, làm chủ 10 châu của phủ An Tây (ngày nay thuộc địa bàn tỉnh Điện Biên, Lai Châu và một phần tỉnh Vân Nam - Trung Quốc).

Hoàng Công Chất

 

25

Mông Quốc Cần

 

 

Là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Lạng Sơn. Do Liên khu ủy Việt Bắc điều động, bổ sung vào Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu làm Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh. Đồng chí mất tại căn cứ du kích Háng Tông Tòng, huyện Tuần Giáo (tháng 7-1951).

Mông Quốc Cần

 

26

Giàng Tả Chay

 

Huyện Điện Biên Đông

Tháng 10-1918, ông tập hợp đồng bào dân tộc Mông, Khơ Mú, Lào… đứng lên khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp; trước tình hình đó, quân Pháp đã phải điều quân từ Lai Châu, Sơn La, Yên Bái đến để đàn áp phong trào, tìm cách tiến sâu vào căn cứ của nghĩa quân ở Pu Nhi (Điện Biên), Long Hẹ (Thuận Châu, Sơn La). Được sự giúp đỡ, che chở của nhân dân các dân tộc và dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở; nghĩa quân đã cơ động đánh du kích, vừa tránh các trận giao tranh lớn để bảo toàn lực lượng, vừa chủ động tấn công địch vào những lúc chúng sở hở. Phong trào ngày càng phát triển mạnh mẽ, lan rộng ra khắp vùng cao của Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và Thượng Lào. Sau 5 năm hoạt động (1918 - 1922), cuộc khởi nghĩa của Giàng Tả Chay bị thất bại.

Giàng Tả Chay

 

 

27

Bùi Đức Chung

 

Ngày 01/8/1950, Ban Cán sự Đảng Lai Châu quyết định tách chi bộ Lai Châu thành 4 chi bộ là là Chi bộ Văn phòng Ban cán sự Đảng, chi bộ Quỳnh Nhai, chi bộ Tuần Giáo và Điện Biên. Chi bộ Điện Biên do đồng chí Bùi Đức Chung là bí thư, việc ra đời của chi bộ Điện Biên là một sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng đối với đồng bào và nhân dân các dân tộc huyện Điện Biên. Ngày 30/9/1951 quan Pháp đã huy động 500 tên lên càn quét bản Háng Sung xã Quang Trung (nay là xã Sa Dung, huyện Điện Biên Đông) là cơ sở của huyện Điện Biên, trong trận này đồng chí Bùi Đức Chung, trưởng ban cán sự, bí thư chi bộ huyện đã anh dũng hi sinh tại bản Thẩm Mỹ, xã Quang Trung, huyện Điện Biên.

Bùi Đức Chung

 

28

Lạng Chượng

 

Là người có công khai phá đất Mường Thanh. Thế kỷ XI, XII, người Thái (ngành Thái đen) theo ông từ Mường Ôm, Mường Ai xuống chiếm Mường Lò và từ Mường Lò thời gian sau đó, những cư dân này theo thủ lĩnh Lạng Chượng tràn qua Than Uyên, Văn Bàn... và cuối cùng làm chủ cả một vùng từ Mường Lò (Nghĩa Lộ) qua Mường La (Sơn La), tới Mường Thanh (Điện Biên).

Lạng Chượng

 

29

 

Hoàng Bắc Dũng

 

 

Tháng 6-1950, đồng chí được Liên khu Việt Bắc điều động vào Lai Châu làm Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính kiêm Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh (từ tháng 12-1952 đến tháng 4-1954). Đồng chí Hoàng Bắc Dũng là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu (nay là Ủy ban nhân dân tỉnh) đầu tiên.

Hoàng Bắc Dũng

 

30

Lò Văn Hặc

 

Bản Hoong Lếch Cang, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên,

Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông làm chánh tổng châu Mường Thanh; sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tin và đi theo tiếng gọi của Việt Minh, của Đảng. Ông đã tích cực vận động một số quan lại, công chức có tinh thần yêu nước, có tình cảm với cách mạng để tổ chức được hai cuộc mít tinh vào tháng 10 và tháng 11/1945. Ông có thời gian hoạt động bí mật tại Lào và Thái Lan. Cuối năm 1950, được Trung ương điều động về Lai Châu hoạt động; Ông đã tham gia Ban Cán sự Lai Châu, lãnh đạo địa phương xây dựng, phát triển lực lượng. Tháng 9-1953, ông được giao làm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu, năm 1954 ông là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu. Sau đó ông còn giữ các trọng trách: Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Thái - Mèo, (sau đổi là Khu tự trị Tây Bắc), là đại biểu Quốc hội từ khóa III đến khóa VII, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Quốc hội, Phó Ban Dân tộc của Chính phủ.

Lò Văn Hặc

 

 

31

Nguyễn Bá Lạc

 

Nguyễn Bá Lạc (Bí danh Trần Quốc Mạnh). Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường vụ Liên khu ủy 10, đồng chí Nguyễn Bá Lạc là Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Đến tháng 5-1950, làm Phó Trưởng ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Trưởng Ty Công an Lai Châu (tháng 1-1953). Khu ủy viên Khu tự trị Tây Bắc (1955-1962); Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa I (1963-1970). Đồng chí Nguyễn Bá Lạc là Bí thư Tỉnh ủy và Trưởng Ty Công an đầu tiên của tỉnh Lai Châu.

Nguyễn Bá Lạc

 

32

Nông Văn Lạc

 

Đội trưởng đội cán sự Lai Châu 2 tức Ban Cán sự Đảng Lai Châu 2 (tháng 9-1951). Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu (tháng 11-1951). Trưởng Ban Tổ chức - Tuyên huấn - Kiểm tra của tỉnh, phụ trách hai huyện Quỳnh - Hồ và Tuần - Lai (tháng 2-1952). Trưởng ban Dân vận tỉnh Lai Châu (năm 1953).

Nông Văn Lạc

 

33

Mùa Sống Lử

 

Là một trong 3 đảng viên dân tộc Mông đầu tiên được kết nạp tại hang Mường Tỉnh (xã Sa Dung, huyện Điện Biên Đông). Ông là chỉ huy lính của quan người Mông Vàng Lìa, được quan Mông phong làm châu đoàn, thống quán nhưng không có quyền gì. Được cách mạng giác ngộ từ năm 1950 được giao phụ trách bộ đội địa phương huyện từ năm 1952-1954 là Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Điện Biên. Có sự vận động của Ông nhiều quan lại người Mông đã tham gia cách mạng.

Mùa Sống Lử

 

34

Sùng Giống Lềnh

 

Tháng 7 năm 1950, chi bộ đảng được thành lập ở Sa Dung, cùng với sự lớn mạnh của chính quyền và các tổ chức quần chúng, lo sợ mất Sa Dung, quân Pháp đã nhiều lần tổ chức lực lượng từ Mường Thanh lên nhằm đè bẹp căn cứ cách mạng của ta nhưng đều gặp thất bại, trong số những lần càn đó, đồng chí Sùng Giống Lềnh đã bị quân pháp bắt và tra tấn dã man đến chết.

Sùng Giống Lềnh

 

35

Lầu Nỏ Sa

 

Tháng 7/1949, đội xung phong Quyết Tiến đã chuyển phần lớn lực lượng sang vùng cao huyện Điện Biên hoạt động. Tại đây đội đã bắt liên lạc được với thống quán xã Sa Dung là đồng chí Lầu Nỏ Sa. Được phân công làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Sa Dung, đồng chí và gia đình đã tận tình giúp đỡ bộ đội tiếp tế hậu cần và đảm bảo liên lạc bí mật cho bộ đội. Năm 1952, đồng chí bị địch sát hại và được công nhận là liệt sỹ.

Lầu Nỏ Sa

 

36

Hoàng Tinh

 

Khu ủy viên Khu tự trị Tây Bắc; Chỉ huy trưởng công trình Đại thủy nông Nậm Rốm (năm 1963). Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh ủy Lai Châu khóa I (1963-1970); Phó Bí thư Tỉnh ủy khóa III (1975-1977); Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa IV (1977-1980) và khóa V (1980-1983).

Hoàng Tinh

 

37

Hoàng Đông Tùng

 

 

Đội trưởng đội vũ trang tuyên truyền Lai Châu (tháng 7-1949). Bí thư chi bộ đội vũ trang tuyên truyền Lai Châu (tháng 10-1949). Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường vụ Liên khu ủy 10 đồng chí Hoàng Đông Tùng là ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Lai Châu (tháng 12-1950). Phụ trách huyện Quỳnh Nhai (năm 1950). Theo sự phân công của Ban Cán sự Đảng tỉnh, đồng chí phụ trách công tác quân sự của tỉnh. Đồng chí Hoàng Đông Tùng là Tỉnh đội trưởng đầu tiên của tỉnh Lai Châu.

Hoàng Đông Tùng

 

 

38

Tạ Nhật Tựu

 

Đồng chí Tạ Nhật Tựu (Bí danh Hoàng Hoa Thưởng). Theo Quyết nghị số 34/NS-LK10, ngày 7-10-1949 của Ban Thường vụ Liên khu ủy 10 đồng chí Tạ Nhật Tựu là ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Đội trưởng đội công tác huyện Điện Biên (tháng 12-1949). Phụ trách huyện Điện Biên (năm 1950). Phụ trách hai huyện Quỳnh Nhai và Sìn Hồ (tháng 7- 1951). Phụ trách tờ nguyệt san "Lai Châu kháng chiến" (tháng 8-1951). Trưởng Ban cán sự Đảng liên huyện Quỳnh Nhai - Sìn Hồ (tháng 8-1951). Chính trị viên Tỉnh đội Lai Châu (tháng 2-1952). Ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lai Châu (tháng 12-1952).

Tạ Nhật Tựu

 

39

Tướng Khanh và tướng Ngải

 

Là 02 thủ lĩnh ở vùng đất Mường Thanh đã phối hợp với tướng Hoàng Công Chất chỉ huy nghĩa quân địa phương cùng nhau đánh đuổi giặc Phẻ giải phóng hoàn toàn Mường Thanh vào năm 1754.

- Tướng Khanh

- Tướng Ngải

 

40

Nguyễn Văn Xã

 

Phó Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa I (1963-1970); Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu khóa II (1970-1975) và khóa III (1975-1977).

Nguyễn Văn Xã

 

3. Các di tích, danh thắng được xếp hạng trên địa bàn tỉnh

TT

Tên di tích, địa danh

Loại hình di tích

Tóm tắt về di tích, địa danh

 

Cấp và ngày xếp hạng

Tên dự kiến đặt

41

Thành Bản Phủ

Lịch sử

Di tích lịch sử văn hóa Thành Bản Phủ (hay còn gọi là thành Chiềng Lề) thuộc địa phận xã Noọng Hẹt, huyện Điện Biên. Thành được nghĩa quân Hoàng Công Chất và nhân dân các dân tộc xây dựng trong 4 năm từ 1758 - 1762. Đây là một công trình kiến trúc quân sự đắp bằng theo kiểu ô vuông, thành rộng 80 mẫu, tường thành cao 5m mặt thành rộng 4 - 5m, chân thành rộng 10m, các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc có cổng ra vào, có chòi canh gác.

Cấp quốc gia, ngày xếp hạng 09/2/ 1981

Bản Phủ

Chiềng Lề

42

Tháp Chiềng Sơ

Kiến trúc nghệ thuật

Tháp Chiềng Sơ thuộc xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ XV-XVI. Tháp là công trình kiến trúc nghệ thuật thể hiện rõ sự tài ba và sáng tạo nghệ thuật của nhân dân hai nước Việt - Lào, khẳng định được lịch sử về tình đoàn kết gắn bó lâu đời giữa hai dân tộc anh em Việt Lào. Tháp được kiến trúc theo hình nậm rượu, dưới to và phần trên nhỏ dần. Tháp cao 10,5m, bốn mặt xung quanh chân Tháp được đặt 2 chú voi ở đằng trước và 2 chú chó ở đằng sau. Tháp được xây dựng bằng gạch và vôi vữa mật.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 14/4/2011

Chiềng Sơ

43

Tháp Mường Luân

Kiến trúc nghệ thuật

Tháp Mường Luân, thuộc xã Mường Luân, huyện Điện Biên, tiếng địa phương còn gọi là “Thát Mướng Luân” được xây dựng khoảng thế kỷ XVI. Tháp cao 15m, có kiến trúc theo hình vuông, dưới to, trên nhỏ dần. Tháp có cấu tạo hai phần rõ rệt gồm bệ tháp và thân tháp. Với các họa tiết cách điệu chìm nổi có hình hoa sen, chim bay, hoa lá, rồng cuốn, sử dụng vật liệu phong phú như gạch, vôi, mạch mía để xây dựng.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 09/2/1981

Mường Luân

44

Hang Mường Tỉnh

Lịch sử

Hang Mường Tỉnh, thuộc xã Sa Dung, huyện Điện Biên Đông. Nơi đây vào những năm 1945- 1954 đã diễn ra nhiều sự kiện cách mạng quan trọng góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Hang Mường Tỉnh gồm có 3 ngăn chính. Đi qua cửa hang hẹp sẽ là ngăn ngoài cùng với diện tích khoảng 600m2, cao khoảng 20m. Ở ngăn này vòm hang không có nhiều tạo hình phong phú nhưng điểm nổi bật là có không gian khá rộng lớn với nền đất bằng phẳng. Đây là nơi lý tưởng để Đảng ta lựa chọn làm nơi tổ chức các cuộc họp có sức chứa được hàng trăm người và giữ được bí mật.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 14/4/2011

Mường Tỉnh

45

Hang Thẩm Khương

 

Khảo cổ học

Hang Thẩm Khương, thuộc xã Chiềng Đông, huyện Tuần Giáo, là một trong số các di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hóa Hòa Bình, được phát hiện đầu tiên ở Lai Châu (nay là Điện Biên) và được chọn là điểm nghiên cứu sâu rộng nhất. Qua khai quật các nhà khảo cổ học đã thấy được cấu tạo của tầng văn hóa dày 1,2m, chia làm 3 lớp với những đặc điểm của mỗi lớp khác nhau. Trong các tầng văn hóa đã phát hiện bếp nguyên thủy, mộ táng và rất nhiều công cụ bằng đá, xương răng động vật cùng một số hiện vật bằng đồng....Tại cửa cũng phát hiện được 4 ngôi mộ cổ chôn cùng một số đồ dùng sinh hoạt như rìu đồng, giáo đồng.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 10/3/2014

Thẩm Khương

 

46

Động Pa Thơm

Danh lam thắng cảnh

Động Pa Thơm, thuộc địa phận 2 xã Na Ư và Pa Thơm, còn có các tên gọi khác như Thẩm Nang Lai (hang nhiều nàng), động Tiên Hoa. Động Pa Thơm nằm ở lưng chừng núi. Chính giữa lối vào là một khối đá khổng lồ giống như đầu voi đang rủ xuống. Chiều sâu động khoảng hơn 350m chạy theo hướng Nam. Động có 9 vòm lớn nhỏ, có nhiều nhũ đá hình thù hết sức sống động, màu sắc huyền ảo, vách động là những khối nhũ đá như những dòng thác lớn đang chảy; động Pa Thơm là một kỳ quan thiên nhiên, địa danh du lịch hấp dẫn của tỉnh Điện Biên.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 22/01/2009

Pa Thơm

47

Thành Sam Mứn

Kiến trúc nghệ thuật

Thành Sam Mứn hay còn gọi là thành Tam Vạn, nằm ở phía Nam cánh đồng Mường Thanh, thuộc xã Pom Lót, huyện Điện Biên, đây là một toà thành đ­ược đắp bằng đất với diện tích gần 400ha, hai phía tây, nam dựa vào thế núi sông bao bọc, h­ướng đông, bắc xây dựng t­ường thành, có hào, có hàng tre (tre bông) bao bọc. Lối vào thành có một cửa lớn nằm trên trục đường chính ở phía Bắc (nay là đường quốc lộ 279) đ­ược gọi là cửa tu đin (Cửa đất) hay nhất chính đạo (đường chính giữa), hai bên cửa thành là t­ường thành đư­ợc đắp bằng đất cao 5m, mặt thành rộng 5m, chân thành rộng 10m và chạy dài về hai phía đông - tây. Ngoài cửa tu đin thành Sam Mứn còn có hai cửa phụ nằm ở phía bắc và phía đông.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 22/01/2009

Sam Mứn

Tam Vạn

 

48

Hang Xá Nhè

 

Danh lam thắng cảnh

Hang Xá Nhè, thuộc xã Xá Nhè, huyện Tủa Chủa. Hang dài 700m, gồm 5 khoang lớn nhỏ khác nhau, mỗi khoang có một vẻ đẹp kì bí riêng. Khoang bên ngoài có hình vòm cung với những khối nhũ đá rủ xuống lấp lánh với đường nét mềm mại, uyển chuyển.. Khoang thứ 2 với những khung cảnh giả tưởng, cách điệu như cảnh làng quê mộc mạc với sông suối, ao hồ, ruộng bậc thang…; Khoang 3 nổi bật với 2 cột trụ đá to lớn mọc sừng sững giữa trung tâm động; các khoang còn lại với cảnh đẹp tự nhiên do thiên nhiên ban tặng có sức hút lớn đối với du khách.

Cấp quốc gia ngày xếp hạng 10/3/2014

 

Xá Nhè

49

Hang Mùn Chung

Danh lam thắng cảnh

Tiếng địa phương có tên là Thẩm Hán, Huổi Loóng, nằm trên 1 quả núi có tên Pom Loi, xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo. Hang được bài trí với núi non, sông nước hợp thành, dài khoảng 400m được uốn mình theo hình vòng cung, chia làm 2 ngăn. Trong hang là các khối đá lớn, nhỏ mang dáng dấp, hình thù nhiều loài vật, trần động có nhiều nhũ thạch tạo cho người xem liên tưởng trước sự sắp đặt của thiên nhiên.

Cấp tỉnh ngày xếp hạng 16/4/2014

Mùn Chung

50

Đại thủy nông Nậm Rốm

Lịch sử văn hóa

Năm 1963 công trình Đại thủy nông Nậm Rốm, huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Đện Biên) được xây dựng với mục đích dâng, chuyển cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản, phục vụ nước sinh hoạt. Công trình đại thủy nông Nậm Rốm có quy mô lớn đứng thứ nhất các tỉnh miền núi Tây Bắc, đứng thứ 2 toàn miền Bắc (sau công trình thủy nông Bắc Hưng Hải), xây dựng theo kiểu đập tràn tự do, cấu tạo Ô - Phi - Xi - Rốp (tên người nghiên cứu thiết kế xây dựng đập), tưới tiêu nước theo phương thức tự chảy. Công trình gồm hai hệ thống kênh chính, chạy dài từ thành phố Điện Biên Phủ xuống huyện Điện Biên. Công trình do hơn 2.000 thanh niên xung phong tình nguyện xây dựng bằng hình thức thủ công, tận dụng sức người là chính.

Cấp tỉnh ngày xếp hạng 23/5/2014

Nậm Rốm

51

Khu du kích, di tích Pú Nhung

 

Lịch sử

Tháng 12-1945, quân Pháp chiếm lại Lai Châu, xã Pú Nhung được chọn là một trong những căn cứ hoạt động cách mạng của Đội Xung phong Quyết Tiến và Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu, mặc dù chỉ có vũ khí thô sơ như: Cung, nỏ, tên thuốc độc, bẫy đá, súng tự tạo của du kích, người Mông xã Pú Nhung đã đoàn kết cùng các dân tộc anh em trong huyện kiên cường đứng lên chiến đấu. Đội du kích Pú Nhung dưới sự chỉ huy của người đội trưởng Sùng Phái Sinh kiên cường dũng cảm tiêu diệt địch ở đồn bản Chăn, đồn Phiêng Pi... Cũng tại đây người thiếu niên dân tộc Mông - Vừ A Dính làm liên lạc cho cách mạng, bị địch bắt, tra tấn dã man đã một lòng một dạ kiên trung không khai báo cơ sở cách mạng, cán bộ Đảng và bị thực dân Pháp xả súng bắn chết.

Ngày 31-7-1998, Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho Ban Công an xã Pú Nhung.

Cấp tỉnh ngày xếp hạng 27/7/2010

Pú Nhung

 

52

Thành Vàng Lồng

Kiến trúc nghệ thuật

Thành Vàng Lồng do đồng bào dân tộc Mông xây dựng ở thế kỷ thứ XVIII, thành nằm cách trung tâm xã Tả Phìn 600m. Đây là tòa thành cổ, có quy mô lớn, cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Mông ở Điện Biên, được xây dựng theo kiểu hình vòng tròn, chu vi rộng 440m. Thành cao trung bình 2m, bề mặt rộng 1m. Vật liệu xây dựng chủ yếu là đá với phương thức ghè, đẽo thô sơ hoàn toàn bằng thủ công, kỹ thuật ghép tinh xảo. Các phiến đá to, nhỏ xếp chồng lên nhau tạo thành mặt phẳng, người ngựa cũng có thể đi lại trên mặt thành.

Cấp tỉnh ngày xếp hạng 29/4/2014

Vàng Lồng

53

Dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mỹ

Lịch sử văn hóa

Di tích dân quân Thanh An bắn rơi máy bay Mỹ là hệ thống đường hào nằm trên đồi ông Khụt, bản Chiềng Chung, xã Thanh An, huyện Điện Biên. Di tích là hệ thống giao thông hào cấu tạo hình chữ S dài khoảng 90 - 100m, rộng 0,8 - 1m, nằm trên đồi rộng khoảng 2 héc ta. Đây là địa điểm khá thuận lợi, có tầm nhìn bao quát toàn bộ khu vực trung tâm huyện, bản làng trong xã. Phía Tây Bắc quan sát được một phần địa phận xã Thanh Xương, khu trung tâm huyện Điện Biên. Phía Nam quan sát toàn bộ khu vực trại giống xã Thanh An, xã Sam Mứn, xã Noong Luống. Ngày 15/3/1966, Dưới sự chỉ đạo của huyện đội huyện Điện Biên, tổ dân quân xã Thanh An đã bắn rơi chiếc máy bay F4H của đế quốc Mỹ bằng súng bộ binh.

Cấp tỉnh ngày xếp hạng 23/5/2014

Thanh An

4. Các địa danh lịch sử, cách mạng kháng chiến của tỉnh Điện Biên

TT

Tên di tích, địa danh

Loại hình di tích

Tóm tắt về di tích, địa danh

Cấp và ngày xếp hạng

Tên dự kiến đặt

54

A Pa Chải

 

A Pa Chải (theo tiếng Hà Nhì có nghĩa là vùng đất bằng phẳng, rộng lớn) là điểm cực Tây trên đất liền của Việt Nam, vùng giáp biên 2 nước Trung Quốc và Lào thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 250 km. Nơi này được mệnh danh là "Một con gà gáy cả ba nước đều nghe thấy". Nằm ở độ cao 1864 m so với mực nước biển, là địa bàn tập trung chủ yếu người dân tộc Hà Nhì và một số dân tộc thiểu số khác.

 

A Pa Chải

55

Bản Lướt, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu

 

Tại đây vào ngày 2-12-1949, Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu (nay là Đảng bộ hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên) đã triệu tập Hội nghị để thành lập chi bộ gồm 20 đảng viên (18 chính thức, 2 dự bị). Là địa điểm Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu đóng quân từ tháng 10-1949 đến tháng 5-1950.

 

Bản Lướt

56

Mường Thanh

 

Mường Thanh tức Điện Biên Phủ ngày nay có gốc trong tiếng Thái là Mường Then hay Mường Theng. Mường Then có nghĩa là Mường trời, hầu hết dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam, ở Lào và cả ở Thái Lan đều nhận Mường Thanh là đất tổ của mình.

 

- Mường Thanh

- Mường Then

57

Khu du kích vùng cao Sa Dung huyện Điện Biên (nay thuộc huyện Điện Biên Đông)

 

Khu du kích vùng cao huyện Điện Biên (nay thuộc huyện Điện Biên Đông). Thực hiện Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu, khu du kích vùng cao huyện Điện Biên được xây dựng gồm một số xã như Pu Nhi, Sa Dung, Phì Nhừ... đây cũng là các cơ sở cách mạng được bộ đội Tây Tiến, Đội xung phong Quyết Tiến xây dựng khi vào hoạt động. Cũng tại đây, Chi bộ Đảng huyện Điện Biên đã giác ngộ và kết nạp được 3 quần chúng ưu tú người dân tộc Mông vào tổ chức Đảng, trở thành những đảng viên người dân tộc Mông đầu tiên của Đảng bộ huyện và của tỉnh Lai Châu. Các xã vùng cao thuộc khu du kích đã trở thành nơi cung cấp người, lương thực, thực phẩm góp phần làm nên chiến thắng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Xã Sa Dung đã được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 8-11-2000.

 

Sa Dung

58

Đèo Pha Đin

 

Đèo có độ dài 32 km, thuộc quốc lộ số 6, là cửa ngõ vào tỉnh Điện Biên. Điểm cao nhất của đèo là 1.648 mét so với mực nước biển, với một bên là vách núi, một bên là vực sâu. Là nơi tiếp giáp giữa đất và trời, theo ngôn ngữ của người Thái, cũng là nơi bắt đầu của hành trình kéo pháo cao xạ bằng sức người của bộ đội ta trong chiến dịch dẫn đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.

 

Pha Đin

59

Pom Loi

 

Pom Loi (hay đoi) nghĩa là đồi liệm. Khi Lạng Chượng chết đem khâm liệm tại đồi này; người dân địa phương gọi đồi này Pom Loi (Đồi khâm liệm).

Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đặt tên là Đồi Cháy, tên gọi này vẫn được sử dụng đến bây giờ.

 

- Pom Loi

- Đồi Cháy

60

Đèo Tằng Quái

 

Đèo Tằng Quái dài 11km, nằm trên Quốc lộ 279, giáp ranh giữa huyện Mường Ảng và huyện Điện Biên. Theo tiếng địa phương nghĩa là “đoạn đường có nhiều trâu bò đi qua”

 

Tằng Quái

61

Hồ Pá Khoang

 

Thuộc địa phận xã Mường Phăng (huyện Điện Biên), cách thành phố Điện Biên Phủ 32km đường ôtô theo hướng Đông Bắc; theo tiếng Thái Pa Khoang tức là rừng trúc. Trước chiến dịch Điện Biên Phủ, dưới tán rừng nguyên sinh Mường Phăng, các đơn vị sơn pháo của lực lượng pháo binh non trẻ Việt Nam (thuộc Đại đoàn công pháo 351, do Chính uỷ Phạm Ngọc Mậu chỉ huy), đã đem những “con voi sắt” qua đây. Ngày nay Pá Khoang trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, Pá Khoang còn giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước tưới tiêu chủ yếu cho cánh đồng Mường Thanh

 

Pá Khoang

62

Bản Tông Khao

 

Bản Tông Khao (bản Cánh đồng trắng) xã Thanh Nưa - huyện Điện Biên - tỉnh Điện Biên.

Tông nghĩa là cánh đồng, khao là trắng - bản Cánh đồng trắng, được nghe truyền lại giằng: Thời xa xưa bọn giặc Phẻ lấy những cháu bé biết lật, biết bò bỏ vào cánh đồng này, ngăn nước dâng lên ngập, các cháu uống nước đầy bụng chết phơi nắng trắng xóa cả cánh đồng nơi đây. Về sau, người ta lập bản gọi là bản Tông Khao.

 

Tông Khao

63

Háng Tông Tòng

 

 

Thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên). Là địa điểm Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu chọn làm nơi đóng quân để chỉ đạo phong trào cách mạng của tỉnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ tháng 6-1950.

 

Háng Tông Tòng

 

64

U Va

 

Trong tâm thức của dân tộc Thái, Điện Biên là thánh địa còn Uva là chốn linh thiêng trong thánh địa ấy. Theo truyền thuyết, Uva có sợi dây khau cát - là nơi nối liền giữa trời với đất. Từ đây, linh hồn con người có thể bay được về trời.

 

U Va

Tổng số 68 tên

IV. Sự kiện, địa danh, anh hùng trong chiến thắng Điện Biên Phủ

1. Các di tích chiến trường Điện Biên Phủ

TT

Tên sự kiện, địa danh

Tóm tắt nội dung sự kiện, địa danh

Tên dự kiến đặt

Ghi chú

1

Bia tưởng niệm Hận thù Noong Nhai

Nơi tưởng niệm các nạn nhân tử nạn trong trận ném bom của Thực dân Pháp vào trại tập trung Noong Nhai ngày 25 tháng 4 năm 1954, khi cuộc chiến tại Điện Biên Phủ đang diễn ra vô cùng ác liệt.

Noong Nhai

 

 

2

Bản Kéo

Bản Kéo thuộc cụm cứ điểm Anne Marie nằm ở phía Tây Bắc của Tập đoàn cứ điểm, nằm ở vòng ngoài trên hai mỏm của đồi Bản Kéo là Anne Marie 1 và Anne Marie 2. Cùng với đồi Độc Lập, đồi Bản Kéo có nhiệm vụ ngăn chặn sự tấn công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ. Sau khi chiếm được Him Lam và Độc Lập, ta nhận thấy có khả năng giải quyết cứ điểm này không cần tới một trận đánh nên dùng truyền đơn binh vận kêu gọi lính Thái đầu hàng. Từ ngày 15 tháng 3, tiếng loa nói bằng tiếng Thái và tiếng Kinh của bộ đội ta từ trên các điểm cao xung quanh Bản Kéo, kêu gọi lính ra hàng, cùng với những tờ truyền đơn. Ta không cần nổ súng đã chiếm được hai cứ điểm trên đồi Bản Kéo, kết thúc đợt tấn công thứ nhất, mở cánh cửa phía Bắc vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Bản Kéo

 

3

Đồi A1

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ A1 là điểm cao cuối cùng trong dãy phòng ngự phía Đông, được coi là tấm lá chắn cuối cùng che chở cho trung tâm Mường Thanh của Thực dân Pháp; mục tiêu đánh chiếm của Quân đội ta trong đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, trong đó Đồi A1 là cứ điểm quan trọng bậc nhất, trận đánh đồi A1 là một trong những trận đánh then chốt của chiến dịch và để giành được chiến thắng hơn 2000 cán bộ chiến sĩ đã ngã xuống.

A1

 

4

 

Đồi C1, C2

 

Đồi C1 và C2 cùng với A1, E1, D tạo thành tấm lá chắn thép che chở cho phân khu trung tâm. 17 giờ ngày 30/3/1954, sau khi pháo binh bắn chế áp, mở màn đợt tấn công thứ 2 vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các cao điểm phía Đông trong đó có C1, C2 chìm trong lửa đạn của Việt Minh. Cuộc chiến đấu tại hai quả đồi này diễn ra vô cùng ác liệt. Ta chiếm được đồi C1 vào đêm ngày 01 tháng 5 năm 1954, còn tại Đồi C2, sau khi tiêu diệt được cứ điểm A1, ta mới chiếm được quả đồi, trở thành trận chiến kéo dài nhất trong chiến dịch.

- C1

- C2

 

5

Hồng Cúm

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ di tích này bao gồm cụm cứ điểm Isabelle (Hồng Cúm), sân bay dự bị và trận địa pháo, nằm cách phân khu trung tâm khoảng 5km có nhiệm vụ bảo vệ cho trung tâm Tập đoàn cứ điểm ở hướng Nam; đây là cụm cứ điểm cuối cùng bị tiêu diệt sau khi ta đã chiếm được hầm chỉ huy của Thực dân Pháp.

Hồng Cúm

 

6

Đồi D

Đồi D nằm trong cụm Dominique và bao gồm 3 ngọn đồi D1, D2, D3, Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm này thành vị trí tiền tiêu của dãy đồi phía Đông. Do vị trí và nhiệm vụ của đồi D là trực tiếp khống chế khu trung tâm của De Castries và sân bay Mường Thanh.

Đánh chiếm dãy cao điểm phía Đông trong đó có cao điểm D1 là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong đợt tấn công thứ hai. Đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt đồi D là Tiểu đoàn 130, 166, 154 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312.

Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đồi D1 vinh dự được đặt Tượng đài chiến thắng và là công trình văn hóa, nghệ thuật mang đậm giá trị lịch sử, tính nhân văn và tâm linh sâu sắc để tri ân những anh hùng liệt sỹ.

- D1

- D2

- D3

 

7

Đồi Độc Lập

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cứ điểm Độc Lập nằm ở phân khu Bắc nằm án ngữ đường Lai Châu vào Điện Biên, là mục tiêu đánh chiếm trong đợt tấn công đầu tiên của ta vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Rạng sáng ngày 15 tháng 3, ta tấn công vào cứ điểm Độc Lập. Sau 3 giờ chiến đấu, quân ta nhanh chóng chiếm được cứ điểm này.

Độc Lập

 

8

 

Đồi E

 

Đồi E gồm 3 quả đồi E1, E2, E3 nằm trong cụm Dominique, là một trong 5 cao điểm phòng ngự phía Đông, thuộc phân khu trung tâm, có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tấn công ở hướng Đông Bắc vào Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Thực dân Pháp chỉ xây dựng trận địa phòng ngự trên E1 và cùng với các cao điểm phía Đông, đồi E1 là bức bình phong bảo vệ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ta tổ chức đánh chiến đồi E trong đợt tấn công thứ hai vào trung tâm Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, được giao nhiệm vụ này là Đại đoàn 312. Sau 20 ngày chiến đấu ta đã làm chủ được đồi E

Hiện nay trên đồi E2 được xây dựng công trình Trung tâm Văn hóa Cựu chiến binh, là món quà Hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng tỉnh Điện Biên nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

- E1

- E2

- E3

 

9

 

Trung tâm đề kháng Him Lam

 

Là nơi diễn ra trận mở màn của chiến dịch Điện Biên Phủ. Quân đội nhân dân Việt Nam đã mở đầu cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ từ hướng Bắc lúc 17 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 1954 vào Trung tâm đề kháng Him Lam. Sau gần 5 giờ chiến đấu, đến 22 giờ cùng ngày, ta đã làm chủ được cứ điểm này, tiêu diệt và bắt sống 500 tên địch, thu nhiều vũ khí của chúng.

- Him Lam

- 13/3

 

10

Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng

Nơi đặt cơ quan chỉ huy của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 31 tháng 1 năm 1954 đến 15 tháng 5 năm 1954, đứng đầu là Đại tướng Tổng tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Võ Nguyên Giáp, tại xã Mường Phăng, huyện Điện Biên ngày nay.

 

Mường Phăng

 

11

 

Đường kéo pháo bằng tay

 

Là con đường kéo pháo bằng tay duy nhất được thực hiện trong vòng 20 giờ với chiều dài 15km, chiều rộng 3m vượt qua đỉnh Pu Pha Sông, hiện nay thuộc xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên. Trên con đường này từ nửa cuối tháng 1 đến đầu tháng 2 năm 1954 ta đã thực hiện việc kéo pháo vào và kéo pháo ra theo phương châm tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ.

Pu Pha Sông

 

2. Các anh hùng được phong tặng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ

TT

Họ tên

Quê quán

Năm sinh

Đơn vị

Thành tích, thời gian phong tặng

Tên dự kiến đặt

Ghi chú

12

Nguyễn Bạch

Vĩnh Phúc

1924

Cục Công binh

Lập thành tích trong việc đào hầm ngầm và điểm hỏa khối bộc phá 960kg tiêu diệt hầm ngầm cố thủ và nhiều lực lượng địch trên cứ điểm A1.

Được phong tặng anh hùng ngày 23/2/2010

Nguyễn Bạch

 

13

Nguyễn Ngọc Bảo

Ninh Bình

1927

Cục Quân báo

Là chiến sĩ trinh sát; hi sinh khi đang làm nhiệm vụ trinh sát xác định vị trí hầm ngầm cố thủ trên Đồi A1.

Được phong tặng anh hùng ngày 30/8/1995

Nguyễn Ngọc Bảo

 

14

Trần Can

Nghệ An

1931

F312

Người cắm lá cờ đầu tiên trên cứ điểm Him Lam, mưu trí, dũng cảm, luôn xung phong đi đầu, tiêu diệt nhiều địch.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Trần Can

 

15

Trần Văn Cam

Phú Thọ

1936

Trung đội trưởng Đội 40 TNXP

Là chiến sĩ phá bom mìn gan dạ, dũng cảm, có nhiều sáng kiến trong việc phá bom, mở đường vào Điện Biên Phủ.

Được phong tặng anh hùng ngày 23/7/2014

Trần Văn Cam

 

16

Dương Quảng Châu

Hưng Yên

1929

F 308

Mưu trí, tiêu diệt nhiều địch, bị thương vẫn hăng hái tham gia lao động sản xuất cùng nhân dân đắp đê, chống lũ,

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Dương Quảng Châu

 

17

Bùi Đình Cư

Phú Thọ

1927

F351

Là chiến sĩ pháo binh, mưu trí trong chiến đấu, điều khiển pháo bắn chính xác vào các cứ điểm Him Lam và Độc Lập.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Bùi Đình Cư

 

18

Bế Văn Đàn

Cao Bằng

1931

F316

Lấy thân mình làm giá súng, giúp đồng đội tiêu diệt địch tại trận đánh ở Mường Pồn tháng 12/1953, hi sinh khi vẫn ghì chặt giá súng trên vai.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/5/1955

Bế Văn Đàn

 

19

Tô Vĩnh Diện

Thanh Hóa

1924

F312

Lấy thân mình cứu pháo, không để pháo rơi xuống vực trong quá trình kéo pháo ra, về vị trí tập kết.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Tô Vĩnh Diện

 

20

Hoàng Khắc Dược

Nam Định

1917

F304

Là chiến sĩ nuôi quân chịu khó, liêm khiết, sẵn sàng bớt khẩu phần ăn cho đồng đội.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Hoàng Khắc Dược

 

21

Lê Văn Dỵ

Hà Nội

1926

F316

Chiến đấu dũng cảm, phát huy sáng kiến đào hầm ngầm tại đồi C1, tiêu diệt nhiều địch.

Được phong tặng anh hùng ngày 08/7/2008

Lê Văn Dỵ

 

22

Phan Đình Giót

Hà Tĩnh

1922

F312

Lấy thân mình bịt hỏa điểm lợi hại nhất của địch, tạo thời cơ cho đơn vị tiến lên trong trận đánh tại Him Lam.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Phan Đình Giót

 

23

Đặng Đình Hồ

Nghệ An

1925

F304

Là chiến sĩ gan dạ, bị thương những vẫn chiến đấu, dùng bộc phá mở đường cho đồng đội tiến lên trong trận chiến tại cứ điểm C1; ngoài ra còn có tinh thần học tập, rèn luyện tốt.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Đặng Đình Hồ

 

24

Trần Đình Hùng

Bắc Giang

1931

F308

Là Khẩu đội trưởng DKZ, chiến đấu thông minh, phát huy sáng kiến, tiêu diệt nhiều địch tại phân khu trung tâm Mường Thanh.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Trần Đình Hùng

 

25

Trịnh Văn Huyền

Hà Nội

1930

Đội trưởng Đội phá bom, Đội 34 TNXP

Có thành tích trong việc đánh trả máy bay địch, phá bom nổ chậm, lấp và sửa đường. Ngoài ra còn có nhiều sáng kiến cải tạo đường ngầm qua suối và nuôi lợn, gà “cơ động” trên vai theo đường hành quân.

Được phong tặng anh hùng ngày 23/7/2014

Trịnh Văn Huyền

 

26

Lâm Viết Hữu

Lạng Sơn

1926

F316

Gan dạ, dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, lập nhiều thành tích trong tiêu diệt cứ điểm Đồi A1.

Được phong tặng anh hùng ngày 22/12/2009

Lâm Viết Hữu

 

27

Chu Văn Khâm

Vĩnh Phúc

1925

Tổng cục hậu cần

Là chiến sĩ phá bom mìn, gương mẫu, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ trong 1 tháng đã chỉ huy tiểu đội phá gỡ được 35 quả bom nổ chậm, riêng đồng chí tự tay phá gỡ được 18 quả, trong đó có một số quả nguy hiểm và khó phá, thông đường cho công tác vận chuyển.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Chu Văn Khâm

 

28

Phùng Văn Khầu

Cao Bằng

1930

F351

Mưu trí, sáng tạo, khắc phục khó khăn trong chiến đấu, giữ vững trận địa trên đồi E1, tiêu diệt hàng trăm tên địch.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/5/1955

Phùng Văn Khầu

 

29

Tạ Quốc Luật

Thái Bình

1925

F 312

Hăng hái tham gia công tác mở đường, chiến đấu dũng cảm, đặc biệt đã dẫn đầu đơn vị xông vào bắt sống tướng Đờ cát tơ rì và tham mưu của chúng vào chiều 07/5.

Được phong tặng anh hùng ngày 16/12/2004

Tạ Quốc Luật

 

30

Đinh Văn Mẫu

Phú Thọ

1924

F 312

Là chiến sĩ nuôi quân, dũng cảm, biết khắc phục khó khăn, phát huy nhiều sáng kiến, đưa cơm đến tay từng đồng đội chiến đấu ngoài trận địa dưới bom đạn quân thù.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Đinh Văn Mẫu

 

31

Chu Văn Mùi

Bắc Giang

1928

F308

Là chiến sĩ thông tin, vừa bị thương, nhịn đói, nhịn khát phải uống nước giải của chính mình nhưng vẫn bám trụ trận địa, sử dụng máy thông tin xác định vị trí cho pháo bắn chính xác vào quân địch tại cứ điểm A1.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/5/1955

Chu Văn Mùi

 

32

Hoàng Văn

Cao Bằng

1932

F316

Là chiến sĩ dũng cảm cắm lưỡi lê vào đầu súng, đánh giáp lá cà với địch, hi sinh khi đi truy bắt địch đầu năm 1954

Được phong tặng anh hùng ngày 28/4/2000

Hoàng Văn Nô

 

33

Hà Văn Nọa

Hải Dương

1928

F312

Chiến đấu dũng cảm, luôn dẫn đầu đơn vị tổ chức thọc sâu đánh vào các đường ngầm, lô cốt địch tại Him Lam, đồi E, đồi D, tiêu diệt nhiều địch.

Được phong tặng anh hùng ngày 16/12/2004

Hà Văn Nọa

 

34

Đặng Đức Song

Hải Dương

1934

F316

Chiến đấu dũng cảm tại cứ điểm C1, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, tinh thần đồng đội cao.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Đặng Đức Song

 

35

Lưu Viết Thoảng

Bắc Giang

1926

Cục công binh

Gan dạ, dũng cảm, có nhiều sáng kiến và thành tích trong việc phá bom, đặt thuốc nổ; dẫn đầu đơn vị đưa khối thuốc nổ 960kg vào hầm ngầm của địch tại đồi A1.

Được phong tặng anh hùng ngày 07/5/1956

Lưu Viết Thoảng

 

36

Nguyễn Văn Thuần

Quảng Ninh

1916

F312

Lập nhiều thành tích trong các chiến dịch trước đó, chiến đấu nhiệt tình, hăng hái góp phần thắng lợi trên cứ điểm đồi E1.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Nguyễn Văn Thuần

 

37

Cao Xuân Thọ

Thanh Hóa

1926

Đội trưởng Đội phá bom, Đội 40 TNXP

Nhiều lần lặn suối phá bom, cùng đồng đội phá hơn 100 quả bom, mìn các loại.

Được phong tặng anh hùng ngày 23/7/2014

Cao Xuân Thọ

 

38

Nguyễn Tiến Thụ

Bắc Ninh

1934

Đội phó Đội phá bom, Đội 40 TNXP

Là chiến sĩ phá bom, có nhiều sáng kiến phá các loại bom, mìn, mở những tuyến đường chiến lược quan trọng, đảm bảo giao thông luôn được thông suốt

Được phong tặng anh hùng ngày 23/7/2014

Nguyễn Tiến Thụ

 

39

Lộc Văn Trọng

Cao Bằng

1905

Tổng cục hậu cần

Là chiến sĩ lái xe gan dạ, biết vượt khó, sẵn sàng hi sinh vì nhiệm vụ, hoàn thành việc tải đạn và hàng hóa lên Điện Biên.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Lộc Văn Trọng

 

40

Phan Tư

Nghệ An

1931

Cục công binh

Là chiến sĩ công binh có nhiệm vụ phá bom, phá thác, trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã phá 30 thác đảm bảo giao thông thông suốt cho thuyền, bè để vận chuyển vũ khí, hàng hóa.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Phan Tư

 

41

Nguyễn Văn Ty

Bắc Giang

1931

F308

Chiến sĩ bộc phá gan dạ, dũng cảm, nhiều lần bị thương những vẫn chiến đấu hết mình, góp phần vào chiến thắng trên cứ điểm Độc Lập.

Được phong tặng anh hùng ngày 31/8/1955

Nguyễn Văn Ty

 

Tổng số 46 tên

V. Danh nhân, tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang, Bà Mẹ Việt Nam anh hùng

1. Các danh nhân trong lịch sử Việt Nam

STT

Họ và tên

Tóm tắt thân thế, sự nghiệp

Tên dự kiến đặt

1.

Chu Văn An

Chu Văn An (1292-1370), quê quán xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh TrìHà Nội là một nhà giáothầy thuốc, đại quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông mời ông ra làm tư nghiệp Quốc tử giám, dạy cho Thái tử Trần Vượng. Đến đời Dụ Tông, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí LinhHải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất.

Chu Văn An

2.

Đào Duy Anh

Đào Duy Anh (1904-1988), quê Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm 1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.

Đào Duy Anh

3.

Nguyễn Bặc

Nguyễn Bặc (924- 980), là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình), Ông có nhiều công lao trong việc đánh dẹp loạn 12 sứ quân giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ quân. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua (Hoàng Đế Đinh Tiên Hoàng), ông được phong làm Định Quốc công, trông coi việc nội chính. Năm Đinh Dậu, Định Quốc công Nguyễn Bặc được vua Khải Định sắc phong là Hộ Quốc Tướng Công Trác Võ Thượng Đẳng Phúc Thần.

Nguyễn Bặc

4.

Nguyễn Bính

Nguyễn Bính (1918-1966), là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình, nhưng mang một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông được mệnh danh là “Vua thơ tình”. Ông là một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.

Nguyễn Bính

5.

Lương Văn Can

Lương Văn Can (1854-1927), người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, đỗ cử nhân không ra làm quan, là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động được chín tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ kết án ông 10 năm biệt xứ sang Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.

Lương Văn Can

6.

Đội Cấn

Trịnh Văn Cấn (1881-1918), quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị giam ở đó) giác ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30-8-1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh Yên, thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.

Đội Cấn

7.

Trần Văn Cẩn

Trần Văn Cẩn (1910-1994), quê Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ kháng chiến và giảng dạy; từng là Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em Thúy, Gội đầu, Xuống đồng …; Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Trần Văn Cẩn

8.

Huy Cận

Huy Cận (1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III. Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông còn là thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và Huân chương Sao Vàng (2005)

Huy Cận

9.

Nguyễn Đức Cảnh

Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngày 28/7/1929, thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối 1930 được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt xử chém. Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống hiến đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Đức Cảnh

10.

Văn Cao

Văn Cao (1923-1995), quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng sống ở Hải Phòng, là nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ nổi tiếng, tác giả Quốc ca Việt Nam. Ông sáng tác nhiều ca khúc cách mạng nổi tiếng như Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Bắc Sơn, Làng tôi, Ngày mùa, Trường ca sông Lô, Tiến về Hà Nội, Mùa xuân đầu tiên …

Văn Cao

11.

Nam Cao

Nam Cao (1914-1951), tên thật là Trần Hữu Tri, người làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; nhà văn hiện thực Việt Nam. Làm văn, viết báo từ năm 1936, tham gia Văn hóa cứu quốc và gia nhập Việt Minh từ năm 1941; đi Nam tiến 1946 rồi lên chiến khu Việt Bắc làm báo. Hy sinh trên đường vào công tác ở vùng địch hậu khu III. Tác giả nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng: Chí Phèo, Sống mòn, Đôi mắt, Chuyện biên giới.

Nam Cao

12.

Lê Chân

Lê Chân quê xã An Biên, huyện Đông Triều (Quảng Ninh). Nà đã tới An Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành một trại ấp lớn là An Biên (nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là Thánh Chân Công chúa.

Lê Chân

13.

Phan Bội Châu

Phan Bội Châu (1867 -1940), quê xã Xuân Hòa, Nam Đàn, Nghệ An Năm 1900, ông đỗ thủ khoa giải Nguyên trường Nghệ. Năm 1904, ông thành lập hội Duy Tân chủ trương dùng vũ trang bạo động và nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp. Năm 1905, ông tổ chức cho 200 thanh niên yêu nước xuất dương sang Nhật học tập. Năm 1911, ông đã thành lập “Việt Nam quang phục hội”, mà tôn chỉ duy nhất là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam”. Hội cử người về nước hoạt động đã gây nên một số vụ bạo động vũ trang nhằm lay tỉnh hồn nước. Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc đem về nước, bị đưa ra tòa án đề binh Hà Nội xét xử. Nhân dân cả nước đã bùng nổ phong trào “bãi khóa, bãi công, bãi thị”. Thực dân Pháp buộc phải tha bổng, song chúng đem ông về Huế an trí, sống trong cảnh “cá chậu, chim lồng”, ông vẫn vươn lên, hy vọng tiếp tục hoạt động yêu nước. Ngày 29/10/1940, ông mất tại nhà tranh ở dốc Bến Ngự - Huế.

Phan Bội Châu

14.

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), quê ở Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; đỗ trạng nguyên đời Trần. Ông thông minh, tài trí từ nhỏ, làm quan thanh liêm qua ba đời vua Trần, hai lần đi sứ nhà Nguyên , nổi tiếng với bài phú Ngọc tỉnh liên ví mình như đóa sen trong giếng ngọc.

Mạc Đĩnh Chi

15.

Nguyễn Chích

Nguyễn Chích (1382-1448), ông là người thôn Mạc, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông là danh tướng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và là trọng thần giữ phần đất phía Nam của triều Lê sơ, được cho theo họ vua, nên cũng gọi là Lê Chích. Cuối đời Trần, quân Minh xâm chiếm nước ta, ông chiêu tập nghĩa quân hơn 1000 người, đắp lũy trong vùng động Hoàng Nghêu làm căn cứ kháng chiến. Sau ông giúp Lê Lợi, làm Nội thiếu úy, công trận rất nhiều, từng hiến nhiều kế sách rất hay, thu đạt thắng lợi. Cuối năm 1427, ông cùng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đánh tan quân Mộc Thạnh ở Lê Hoa.. Cho đến đời nhà Nguyễn, các triều vua vẫn tưởng niệm, liệt ông vào công thần khai quốc nhà Hậu Lê.

Nguyễn Chích

16.

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế; tục gọi là Đồ Chiểu, xuất thân trong gia đình nhà nho. Ông là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19. Ông làm nghề dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa. Ông là người thầy mẫu mực, là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc…

Nguyễn Đình Chiểu

17.

Phó Đức Chính

Phó Đức Chính (1908-1930), quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại Yên Bái ngày 17/6/1930.

Phó Đức Chính

18.

Phan Huy Chú

Phan Huy Chú (1782-1840), quê gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục.

Phan Huy Chú

19.

Võ Chí Công

Võ Chí Công (1912-2000), quê ở xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam. Từ 1945 - 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ quan trọng: Phó Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu 5, Phó bí thư Trung ương cục, Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 - 1991, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1992, ông được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.

Võ Chí Công

20.

Lương Định Của

Lương Định Của (1918-1975), quê ở Sóc Trăng, tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở thành tiến sĩ thứ 96 của Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện Nghiên cứu canh nông, rồi ra chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm, được phong Anh hùng lao động.

Lương Định Của

21.

Hồ Đắc Di

Hồ Đắc Di (1900-1984), là bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Đắc Di

22.

Đoàn Thị Điểm

Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả Chinh phụ ngâm.

Đoàn Thị Điểm

23.

Xuân Diệu

Tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt Nam, nhà bình luận văn học xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ, thơ dịch, nghiên cứu, phê bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu có giá trị đặc biệt về các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật và nhiều giải thưởng cao quý khác.

Xuân Diệu

24.

Hoàng Diệu

Hoàng Diệu (1832-1882), quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng, giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25-4-1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến đấu tới cùng. Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng đồng của ông và Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành Hà Nội để ghi nhớ hai ông đã hy sinh chống Pháp.

Hoàng Diệu

25.

Nguyễn Thị Định

Nguyễn Thị Định (1920-1992), quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền Nam (1965-1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nguyễn Thị Định

26.

Trương Định

Trương Định (1820-1864) quê ở Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.

Trương Định

27.

Trần Hưng Đạo

Trần Hưng Đạo (1232-1300), quê ở Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, còn gọi là Trần Quốc Tuấn hương Tức - Mặc, phủ Thiên - Trường, được phong ấp ở hương Vạn-kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng - Giang. Ông có học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 -88), ông lại được đề bạt làm tiết chế thông lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng. Trần Hưng Đạo đã đề ra đường lối quân sự ưu việt, có tính chất nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rut lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng - Long, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch - Đằng. Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, ông còn có nhiều tác phẩm như Binh gia diệu lý yếu lược (còn gọi là binh thư yếu lược) và Vạn-kiếp tông bí truyền thư, nhưng văn bản nay đều đã gần như thất lạc. Tác phẩm thứ ba duy nhất còn giữ được của ông là bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn, vẫn quen gọi là Hịch tướng sĩ. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của ông.

Trần Hưng Đạo

 

28.

Nguyễn Đăng Đạo

Nguyễn Đăng Đạo (1651- 1719) quê xã Liên Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông được mệnh danh là lưỡng quốc trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử Việt Nam được cả Việt Nam và Trung Quốc công nhận, ông có tài đối ứng và có nhiều công lao trong việc xây dựng đất nước và giữ gìn ổn định trên biên giới với các nước láng giềng.

Nguyễn Đăng Đạo

29.

Trần Thủ Độ

Trần Thủ Độ (1194-1264), quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều Trần bằng cách buộc Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân vật trụ cột của triều đình, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”; được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.

Trần Thủ Độ

30.

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn (1726-1784), quê ở thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con tiến sĩ Lê Phú Thứ, nổi tiếng thần đồng, ông có trí nhớ lạ lùng, tài ứng đối mau lẹ, 14 tuổi đã học được hầu hết các bộ sách của Nho học, sau đó đỗ đầu các kỳ thi Hội và thi Đình. Khi mất ông được truy phong là thượng thư Bộ công. Về chính trị, Lê Qúy Đôn thi hành những cải cách, thiết định lại pháp chế, chăm lo đời sống kinh tế, làm cho dân giầu - nước mạnh, xã hội đạt đến mức thái bình - thịnh trị. Về văn hoá và văn học, Lê Qúy Đôn đọc sách và chuyên tâm viết sách. Tài năng, đức độ, trí tuệ, phong cách của Lê Quý Đôn xứng danh là nhà Bác học lớn của Việt Nam. Lê Quý Đôn đã để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ, bao quát hầu hết các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá, địa lý, nông học... Ở lĩnh vực nào, Lê Quý Đôn cũng nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo và ý thức tự tôn - tự cường dân tộc.

Lê Quý Đôn

31.

Kim Đồng

Anh hùng Nông Văn Dền (tức Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là người dân tộc Tày. Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn nhỏ Kim Đồng đã sớm giác ngộ và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ liên lạc, chuyển công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm tình hình địch để cung cấp cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng được giao nhiệm vụ canh gác, bảo vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch phát hiện và cho một lực lượng lớn bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm, Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng, lừa địch tập trung lực lượng và hỏa lực về phía mình, đồng thời phát tín hiệu báo cho các đồng chí cán bộ rút lui an toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng quyết định thành lập Đội thiếu niên cứu quốc Kim Đồng là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Kim Đồng

32.

Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Đồng (1906-2000), quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, năm 1926-1929, ông gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau đó, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù ở Côn Đảo. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Tài chính, Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1955 - 1976), Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1987). Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác của Liên Xô, Lào, Campuchia, Cuba…

Phạm Văn Đồng

33.

Nguyễn Du

Nguyễn Du (1765-1820), xuất thân trong một gia đình quý tộc tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhiều đời làm quan dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện. Trong đó nổi tiếng nhất là kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Nguyễn Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Du

34.

Khúc Thừa Dụ

Khúc Thừa Dụ, quê ở Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy yếu, ông tự xưng là Tiết độ xứ, cùng với nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận công lao của ông như là một trong những người đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc.

Khúc Thừa Dụ

35.

Lê Duẩn

Lê Duẩn (1907-1986), quê ở làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt, bị giam tại các nhà tù: Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo. Từ 1946 - 1957, ông từng giữ các chức vụ: Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ và được phân công lãnh đạo cách mạng miền Nam. Năm 1982, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.

Lê Duẩn

36.

Trịnh Hoài Đức

Trịnh Hoài Đức (1765-1825), còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn, làm quan tới chức Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành Gia Định, từng đi sứ sang triều Thanh; là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của Gia Định thành thông chí. Về sáng tác, Trịnh Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc trong nhóm “Gia Định Tam gia thi” hay “Bình Dương thi xã” (cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh), có tác dụng kích thích phát triển cho một vùng văn hóa. Ông còn để lại hai tập thơ chữ Hán là Cấn Trai thi tập (1783-1819) và tập thơ đi sứ Trung Quốc Bắc sứ thi tập.

Trịnh Hoài Đức

37.

Văn Tiến Dũng

Văn Tiến Dũng (1917-2002), quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Uỷ ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1978 - 1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.

Văn Tiến Dũng

38.

Lò Văn Giá

Lò Văn Giá (1919-1943), quê ở bản Cọ, thị xã Sơn La, Tỉnh Sơn La trong một gia đình nông dân nghèo, dân tộc Thái. Với lòng yêu nước, căm thù chế độ thực dân sâu sắc, thanh niên Lò Văn Giá sớm đón nhận ánh sáng cách mạng của Đảng được lan tỏa từ Nhà tù Sơn La. Tháng 8 - 1943, chi bộ Nhà tù quyết định tổ chức vượt ngục cho một số tù chính trị cốt cán để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Lò Văn Giá đã được chọn làm người đưa đường cho cuộc vượt ngục của 4 đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Văn Trân và Lưu Đức Hiểu. Khi quay lại Sơn La, Lò Văn Giá đã bị thực dân Pháp bắt. Mặc dù bị tra tấn dã man, nhưng Lò Văn Giá vẫn nhất mực không khai nên chúng đã lén lút thủ tiêu ông. Lò Văn Giá đã được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 20/12/1994.

Lò Văn Giá

39.

Võ Nguyên Giáp

Võ Nguyên Giáp (1911- 2013), nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình. Năm 14 tuổi, đồng chí đã giác ngộ và sớm tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1930, đồng chí tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1940, được kết nạp vào Đảng. Đầu những 40 của thế kỷ XX, được Chủ tịch Hồ Chí Minh dìu dắt, giao nhiệm vụ, đồng chí đã tích cực hoạt động cách mạng, bám dân, bám địa bàn, xây dựng cơ sở, mở lớp huấn luyện quân sự tại căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Tháng 12/1944, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tổ chức tiền thân của QĐND Việt Nam. Năm 1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng. Trên các cương vị là Uỷ viên Ban Chấp hành TW, Thường vụ TW Đảng Cộng sản Đông Dương, thành viên Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, thành viên Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Tư lệnh Việt Nam giải phóng quân, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí đã trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng. Đặc biệt, năm 1954, đồng chí đã chỉ huy các đại đoàn của Quân đội và các lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sau khi miền Bắc được giải phóng, đồng chí đã tham gia cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với tài năng quân sự kiệt xuất và những đóng góp vĩ đại cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo chí thế giới ca ngợi là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong suốt 2.000 năm qua.

Võ Nguyên Giáp

40.

Trần Văn Giàu

Trần Văn Giàu (1911-2010), quê ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt động cách mạng, khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tổng giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập ra giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Nhà giáo dân nhân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).

Trần Văn Giàu

41.

Nguyễn Giác Hải

Nguyễn Giác Hải (1022-?), quê ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Năm 25 tuổi, ông cắt tóc đi tu; tinh thông pháp đạo, được vua Lý sủng thờ. Ngài có đóng góp vào hệ tư tưởng Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực giữa đạo và đời; được coi là ông tổ thứ 10 trong phái thiền Vô - Ngôn - Thông.

Nguyễn Giác Hải

42.

Dương Quảng Hàm

Dương Quảng Hàm (1898-1946), quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông dạy học 25 năm ở trường Trung học Bảo hộ (Bưởi). Sau Cách mạng tháng Tám làm Tổng thanh tra Trung học vụ, Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Giáo sư đi tiên phong trong xây dựng nền văn học sử nước nhà. Tác giả bộ sách quý Việt Nam văn học sử yếu (1942). Ông hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội (12/1946) và được truy tặng là liệt sĩ.

Dương Quảng Hàm

43.

Trần Nguyên Hãn

Trần Nguyên Hãn (1420-1429): người làng Sơn Động, huyện Lập Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà Trần. Ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập nhiều công lớn, thu phục vùng Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan tham gia đánh thắng trận Xương Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ. Bình công được phong Tả tướng quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy xuống sông tự vẫn, 26 năm sau mới được Lê Nhân Tông minh oan.

Trần Nguyên Hãn

44.

Từ Đạo Hạnh

Từ Đạo Hạnh (1072-1117), quê ở làng An Lãng, Hà Nội tên thật Từ Lộ, ông là nhà sư thuộc thế hệ thứ 12 dòng thiền Nam phương, môn phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ông đã sang Ấn Độ học đạo Phật. Ông được xem là vị tiền bối của nghệ thuật hát chèo. Ông là người dựng chùa Đại Bi, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định để tu hành.

Từ Đạo Hạnh

45.

Quốc sư Vạn Hạnh

Quốc sư Vạn Hạnh, quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh là vị thiền sư đời Tiền Lê. Ông thường quan tâm đến những biến cố chính trị, quân sự đương thời. Vua Lê Đại Hành coi ông như cố vấn. Khi vua Lê Đại Hành mất, ông đã giúp Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông được Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư.

Quốc sư Vạn Hạnh

46.

Tô Hiệu

Tô Hiệu (1912-1944), quê làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng yên; tham gia các phong trào yêu nước từ năm 1925. Năm 1930, bị bắt và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng viên Cộng sản. Năm 1934 ra tù, hoạt động Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong trào công nhân; được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt, giam lại nhà tù Sơn La. Do bị tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La, nêu cao khí tiết của người Cộng sản.

Tô Hiệu

47.

Lê Hoàn

Lê Hoàn (941-1005), quê ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước đại CViệt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long - Hà Nội.

Lê Hoàn

48.

Trần Hoàn

Trần Hoàn (1928-2003), tên thật là Nguyễn Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông nguyên là Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Ông tham gia hoạt động âm nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận những đóng góp to lớn của ông, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng cao quý.

Trần Hoàn

49.

Đinh Tiên Hoàng

Đinh Tiên Hoàng (924-979), quê ở xã Gia Phương, Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cổ Việt trong lích sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cổ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.

Đinh Tiên Hoàng

50.

Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học (1902-1930), quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc năm 1927 tại Nam Đồng Thư xã (Hà Nội), ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước làm cách mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, do tổ chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc dân Đảng gặp nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của mình chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công thì thành nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh cao là khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng và khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bị giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học đã được Chính phủ truy tặng Liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.

Nguyễn Thái Học

51.

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền, quê xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước, đối phó với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai hoang phục hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng lợi, nhân dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ đường rèn luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.

Nguyễn Hiền

52.

Nguyễn Huệ

Nguyễn Huệ (1752-1792), quê ở Tây Sơn, Bình Định, năm 1771, ông cùng hai anh là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ phất cờ khởi nghĩa. Năm 1777, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn làm căn cứ địa tiến công giải phóng Đàng Trong. Sau bốn lần giải phóng Gia Định, Nguyễn Huệ đã tiêu diệt hai vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu viện tại Rạch Gầm, Xoài Mút ngày 18-01-1785 đập tan chính quyền phong kiến ở Đàng Trong. Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà và mau chóng lật đổ tập đoàn phong kiến họ Trịnh thống trị đã ba trăm năm, lập lại nhà Lê. Mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789, với cuộc hành quân thần tốc, ông đập tan và quét sạch hai mươi vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, giải phóng Miền Bắc ra khỏi ách xâm lược. Nguyễn Huệ đã phá tan mọi âm mưu câu kết của các thế lực phản động trong nước và nước ngoài, chuẩn bị kế hoạch tiến đánh Nguyễn Ánh đang quấy phá ở Gia Định. Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc, không những ông là một thiên tài quân sự mà còn xuất sắc về chính trị, ngoại giao, kinh tế...

Nguyễn Huệ

53.

Phạm Hùng

Phạm Hùng (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, ông được bầu làm Bí thứ Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Phạm Hùng

54.

Phùng Hưng

Phùng Hưng, quê ở làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, khoảng năm 766 - 791, Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ đất Đường Lâm và cả một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ quan đầu não của bọn đô hộ nhà Đường.

Phùng Hưng

55.

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương được người đời mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, sinh sống ở phường Khán Xuân, thành Thăng Long vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Bà quê gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; giỏi thơ Nôm và có tài trào lộng, châm biếm, mang phong cách riêng biệt khác người, nhiều bài thơ Nôm được truyền tục rộng rãi trong dân gian.

Hồ Xuân Hương

56.

Lê Văn Hưu

Lê Văn Hưu (1230-1322) người làng Phủ - Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Năm 1272 ông soạn xong bộ Đại-việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đó là bộ sử ký qui mô đầu tiên của nước ta, đã được Trần Thánh Tông ban chiếu khen. Nhưng đáng tiếc hiện nay bộ sách đã thất lạc, chỉ còn một ít lời bình được Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một sử gia có lòng yêu nước, có cách nhìn tiến bộ đối với nhiều sự kiện lịch sử đương thời, bộ sử của ông đã đóng góp rất nhiều cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và đã để lại cho chúng ta nhiều nhận định quý báu về các sự kiện lịch sử cũng như những đoạn bình luận giàu tính chất văn học.

Lê Văn Hưu

57.

Tố Hữu

Tố Hữu (1920-2002), quê ở xã Quảng Tho, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ông là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam, Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật (1996), Huân chương Sao Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan (1996).

Tố Hữu

58.

Nguyễn Văn Huyên

Nguyễn Văn Huyên (1908-1975): hiệu Huy Vân, sinh tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội); tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng làm Giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1946-1975); Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; để lại nhiều tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ khoa văn trường đại học Xoóbon (Pháp).

Nguyễn Văn Huyên

59.

Nguyễn Thị Minh Khai

Nguyễn Thị Minh Khai còn có tên là Vịnh, quê gốc ở làng Mọc Quan Nhân (nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân), sinh tại thành phố Vinh. Năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách vận động vùng Trường Thi - Bến Thủy rồi sang công tác ở văn phòng Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản tại Hương Cảng, bị chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc bắt giam (1931-1934). Năm 1935, là đại biểu Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Matxcơva, làm bạn đời với Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, 1936 về nước, tham gia Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, chỉ đạo khởi nghĩa Nam Kỳ và bị bắt, Pháp xử bắn bà tại Hóc Môn.

Nguyễn Thị Minh Khai

60.

Trần Quang Khải

Trần Quang Khải (1241-1294): Trần Quang Khải, con thứ ba của Thái Tông Trần Cảnh, em ruột vua Trần Thánh Tông, làm tới chức Thượng tướng Thái sư; đảm nhận việc ngoại giao trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, trực tiếp chỉ huy trận thắng ở Chương Dương (1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh sư nổi tiếng. Trần Quang Khải có học lực cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc, bộc lộ hào khí của thời đại đất nước hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ phong phú, gắn bó với thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn sót lại hơn mười bài, có bài nổi tiếng.

Trần Quang Khải

61.

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947): nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ, quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Tác giả các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo, Trung Kỳ cựu sưu ký.

Huỳnh Thúc Kháng

62.

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491-1585), quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, làm quan đến Tả Thị lan Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau tám năm làm quan ông đã lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân, lấy tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Ông mở trường dạy học bên cạnh sông Hàn, sông ấy còn có tên Tuyết Giang, vì thế học trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu Tử. Học trò của ông rất đông và rất nhiều người trở thành nhân tài của nước như Trạng nguyên Giáp Hải, Phùng Khắc Khoan…Ông được phong tước Trình Quốc Công, hàm thượng thư bộ lại hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài). Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát luật đời bằng những phạm trù triết học.

Nguyễn Bỉnh Khiêm

63.

Phùng Khắc Khoan

Phùng Khắc Khoan (1528-1613): người làng Bùng (Phùng Xã), huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng. Năm 1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ hoàng giáp (1580), làm quan thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang nhà Minh (1597), lý lẽ cứng cỏi. Ông còn là nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm tuyền văn, miêu tả các loài cây cỏ. Ông đem nghề dệt dạy cho dân vùng quê ông.

Phùng Khắc Khoan

64.

Nguyễn Khoái

Nguyễn Khoái (Chưa rõ năm sinh, năm mất): Thế kỷ XIII, sinh trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên, có sức khoẻ phi thường, được vua Trần giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ, tham gia các trận đánh giặc Mông-Nguyên ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có tài thiện chiến trên bộ, dưới nước; lập chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng Long. Ông được vua Trần thưởng công và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời Trần chỉ để dùng để ban cho người trong hoàng tộc.

Nguyễn Khoái

65.

Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến (1835-1909): hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam trường nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau tới chức Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu. Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng nổi tiếng, để lại nhiều thơ hay.

Nguyễn Khuyến

66.

Phùng Chí Kiên

Phùng Chí Kiên (1901-1941), tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, được giác ngộ cách mạng rất sớm. Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân cách mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở nước ngoài. Năm 1936 vận động thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu quốc quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được truy phong quân hàm cấp tướng.

Phùng Chí Kiên

67.

Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (1019-1105), họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử cũng đã lưu lại tư tưởng quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là tác giả bài thơ bất hủ “Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất.

Lý Thường Kiệt

68.

Võ Văn Kiệt

Võ Văn Kiệt (1922-2008), quê ở xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Từ 1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh… Năm 1997, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.

Võ Văn Kiệt

69.

Yết Kiêu

Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế quê ở huyện Thanh Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên sông nước từ nhỏ nên ông bơi lội rất giỏi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội "nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ" (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều chiến công đóng góp cho chiến thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).

Yết Kiêu

70.

Trương Vĩnh Ký

Trương Vĩnh Ký (1837-1898), quê ở huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Ông là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học, khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông được phong Giáo sư Viện sĩ Pháp, là nhà bác học hàng đầu thế giới thế kỷ 19. Ông được coi là "ông tổ nghề báo Việt Nam", sáng lập và là Tổng biên tập tờ Gia Định báo.

Trương Vĩnh Ký

71.

Cù Chính Lan

Cù Chính Lan (1930-1952), quê xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; trong chiến dịch Quang Trung (1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt giặc”. Chiến dịch Hòa Bình (1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường số 6 năm 1952, anh tham gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn anh dũng chỉ huy đến hơi thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Cù Chính Lan

72.

Ỷ Lan

Nguyên phi Ỷ Lan (1044-1117), quê ở Gia Lâm, Hà Nội, tên thật là Lê Thị Yến, là một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính. Bà cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt lãnh đạo nhân dân đánh tan quân Tống xâm lược, xây dựng đất nước yên bình, giàu mạnh.

Ỷ Lan

73.

Lê Lai

Lê Lai quê ở xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí. Ông hy sinh khi giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa quân Lam Sơn rút khỏi núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được truy tặng là Sùng Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.

Lê Lai

74.

Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên; một nông dân, ham học, có ý chí, tình nguyện tham gia quân đội đánh giặc ngoại xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong hai lần chống Nguyên - Mông (1285-1288), sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên giới Lão Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở thành danh tướng đời Trần, được phong tước Quan nội hầu.

Phạm Ngũ Lão

75.

Ngô Sĩ Liên

Sống ở thế kỷ XV, người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm viện, rồi giữ chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh Tông, ông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử học nổi tiếng ở nước ta.

Ngô Sỹ Liên

76.

Nguyễn Văn Linh

Nguyễn Văn Linh (1915-1998), tên thật là Nguyễn Văn Cúc, quê quán: Thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Năm 1929, ông tham gia học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lãnh đạo. Năm 1930, ông bị bắt và kết án tù chung thân, bị đày ra Côn Đảo. Năm 1939, ông hoạt động ở Sài Gòn và tham gia Ban chấp hành Đảng bộ TP. Sài Gòn. Từ 1945 - 1986, ông hoạt động chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ, Sài Gòn với nhiều chức vụ: Bí thư Thành uỷ, Uỷ viên Xứ uỷ Nam Bộ, Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Năm 1986, ông được bầu làm tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương khác.

Nguyễn Văn Linh

77.

Cao Lỗ

Cao Lỗ quê quán: xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương Vương. Ông giỏi võ nghệ, là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa. Ông được tôn là vị tổ sư nghề rèn của Việt Nam.

Cao Lỗ

78.

Mai Thúc Loan

Mai Thúc Loan quê quán Hà Tĩnh, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào đầu thế kỉ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An. Sau đó, ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa, Chân Lạp chống giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống Bình. Bọn đô hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.

Mai Thúc Loan

79.

Phan Đăng Lưu

Phan Đăng Lưu (1902-1941), quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng, có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì, đồng thời viết nhiều sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.

Phan Đăng Lưu

80.

Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly (1336-1407), là một vị vua Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại thần dưới thời nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.

Hồ Quý Ly

81.

Đặng Thai Mai

Đặng Thai Mai (1902-1984), quê Lương Điền, huyện Thanh Chương, Nghệ An, dạy ở trường Quốc học (Huế), sau ra Hà Nội mở trường Thăng Long, lập Hội truyền bá quốc ngữ, viết báo công khai của Đảng. Sau cách mạng, ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông là nhà nghiên cứu văn học, sử học, triết học… có nhiều tác phẩm giá trị. Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Đặng Thai Mai

82.

Phạm Sư Mạnh

Phạm Sư Mạnh quê quán làng Thạnh Hiệp, Kinh Môn, Hải Dương, là nho sĩ nổi tiếng triều Trần, tên thật là Phạm Độ, tự Nghĩa Phu, hiệu Uý Trai,. Ông đỗ Thái học đời Trần Minh Tông, từng giữ chức: Chưởng bạ thư kiêm tham chính viện Khu mật, Nhập nội hành khiển tri Khu mật viện sự, Hành khiển Tả ti lang trung, Nhập nội nạp ngôn.

Phạm Sư Mạnh

83.

Hồ Tùng Mậu

Hồ Tùng Mậu (1896-1951), quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự, tham gia cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo Thanh niên. Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị bắt ba lần, tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt giải về nước giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại về hoạt động ở miền Trung. Ông đã giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi công tác ở Thanh Hóa.

Hồ Tung Mậu

84.

Hồ Chí Minh

Tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, còn có tên là Nguyễn Tất Thành, con trai thứ hai của cụ Nguyễn Sinh sắc và bà Hoàng Thị Loan; quê làng Kim Liên, nay là xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Đổi tên là Nguyễn Ái Quốc (cùng nhiều bí danh khác) để hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Cuối cùng lấy tên là Hồ Chí Minh. Lúc nhỏ học chữ Hán, được gần gũi các nhà chí sĩ Duy Tân, sau vào học Trường Quốc học Huế, dạy học Trường Dục Thanh ở Phan Thiết, vào Sài Gòn rồi ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 05/6/1911 trên tàu La Touch Treville. Người hoạt động cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng lâu nhất là ở các nước Pháp, Nga, Trung Quốc. Từ sau Đại chiến II, người bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921) và chủ bút báo Người cùng khổ (Le Paria). Năm 1923, sang Liên Xô, về Trung Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (1924). Năm 1927, trở sang Liên Xô rồi về Thái Lan (1928), Hương Cảng (1930), hợp nhất 03 Đảng Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau là Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, về nước thành lập Mặt trận Việt Minh. Đến ngày 19/8/1945, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thắng lợi, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02/9/1945), được bầu là Chủ tịch nước cho đến khi mất (02/9/1969). Hồ Chí Minh là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Ở trong nước, Người đã chỉ đạo tài tình công cuộc giải phóng dân tộc và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Người là hiện thân cho sự đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là hiện thân của sự đoàn kết các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Người là nhà chính trị, ngoại giao xuất sắc, là nhà văn hóa lớn, được UNESCO tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt suất - danh nhân văn hóa thế giới”. Ngay từ khi tại thế, Hồ Chí Minh đã đi vào tình cảm của nhân dân trong nước và trên thế giới như một nhân vật huyền thoại. Người cũng là một nhà thơ lớn với tác phẩm bất hủ Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký) viết bằng chữ Hán, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Hồ Chí Minh

85.

Đào Cam Mộc

Đào Cam Mộc quê xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, danh nhân sống vào cuối thời nhà Tiền Lê, đầu nhà Lý. Ông là người thông minh, có sức khỏe hơn người lại có chí lớn. Làm quan Chi hậu nhà Tiền Lê. Khi vua Lê Ngọa Triều mất, ông và thiền sư Vạn Hạnh cùng với các quan Trần Cảo, Đào Thạc Phụ suy tôn và nhất tề đưa quan Thân vệ Lý Công Uẩn lên ngôi báu, lập ra nhà Lý. Ông không chỉ có công đầu đưa Lý Công Uẩn lên làm vua mà còn là người chỉ đạo cuộc dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Ông được vua Lý Thái Tổ gả con gái đầu là công chúa An Quốc và phong tước Nghĩa Tín Hầu. Ông mất tại Cổ Loa, được vua Lý truy tặng chức Thái sư Á vương.

Đào Cam Mộc

86.

Hàm Nghi

 

Hàm Nghi (1871-1943), là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong Lịch sử Việt Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.

Hàm Nghi

 

87.

Trần Đại Nghĩa

Trần Đại Nghĩa (1913-1997), tên thật là Phạm Quang Lễ, quê tỉnh Vĩnh Long; học ở Pháp, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, tình nguyện về nước tham gia kháng chiến, được phong Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Quân giới, sáng chế ra súng không giật SKZ, Bazoca; là Viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Anh hùng Lao động, Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Trần Đại Nghĩa

88.

Nguyễn Bá Ngọc

Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm học 1964- 1965) trường phổ thông cấp I xã Quảng Trung. huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 04/4/1965 máy bay Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng Trung. Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to, bên nhà Khương, Khương là bạn của Ngọc. Không chút ngần ngừ Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của mình đã bị thương. Ngọc vội vừa bế vừa dìu 2 em của Khương xuống hầm. Ngọc bò gần tới nơi trú ẩn thì giặc lại thả bom bi và em đã bị 1 viên bi bắn vào lưng. Cứu được 2 em nhỏ rồi Ngọc mới tái mặt, lả đi, vết thương quá nặng, Ngọc đã hy sinh vào lúc 2 giờ sáng ngày 5/4/1965 ở bệnh viện.

Nguyễn Bá Ngọc

89.

Đặng Văn Ngữ

Đặng Văn Ngữ (1910-1967), giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà khoa học xuất sắc để lại nhiều công trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực nghiệm chống sốt rét cho quân Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đặng Văn Ngữ

90.

Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà, trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại; Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.

Ngô Thì Nhậm

91.

Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận (1922-1991), quê quán xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Opera. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm 1943, ông tham gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến thắng Điện Biên”… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến thắng hạng Nhì.

Đỗ Nhuận

92.

Trần Đăng Ninh

Trần Đăng Ninh là một nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955. Ông được Nhà nước tặng thưởng các Huân chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng nhất, truy tặng Huân chương sao Vàng năm 2003.

Trần Đăng Ninh

93.

Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá, huyện Yên M, tỉnh Hưng Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.

Hải Thượng Lãn Ông

94.

Lê Hồng Phong

Tên thật là Lê Huy Doãn, quê xã Thông Lạng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu học trường Hoàng Phố - Trung Quốc, tốt nghiệp Sĩ quan lục quân, sang Liên Xô học trường Không quân Lêningrat, Đại học Phương Đông, phụ trách Ban Hải ngoại của Đảng, đại biểu dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương, ông được cử là người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương. Về Sài Gòn lãnh đạo phong trào, bị địch bắt, ông bị đày ra Côn Đảo và hy sinh.

Lê Hồng Phong

95.

Trần Phú

Trần Phú, quê huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh; đỗ đầu Cao đẳng Tiểu học (1922), dạy ở trường Tiểu học Cao Xuân Dục, tham gia hội Phục Việt (sau đổi là Tân Việt), được cử sang Quảng Châu (1926) rồi sang học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Tháng 4/1930, về nước được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương (hội nghị ở Hương Cảng tháng 10/1930), soạn thảo bản Luận cương Chính trị đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tháng 4/1931, bị địch bắt, tra tấn dã man và mất tại nhà thương Chợ Quán khi mới 27 tuổi (06/9/1931).

Trần Phú

96.

Phan Đình Phùng

Phan Đình Phùng (1847-1895), người làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tiến sĩ năm 1877, làm quan Ngự sử triều Nguyễn. Năm 1883 bị cách chức vì không ủng hộ Tôn Thất Thuyết phế vua Dục Đức lập Hiệp Hòa. Ông về quê theo Hàm Nghi mộ quân Cần Vương, lãnh chức Hiệp thống quân vụ. Nghĩa quân của ông hoạt động khắp vùng núi Hương Sơn, Hương Khê, duy trì cuộc kháng chiến gần 10 năm, đánh Pháp, Ông mất tại căn cứ Núi Quạt, trong dãy Trường Sơn.

Phan Đình Phùng

97.

Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng (1912-1939): quê gốc ở huyện Mĩ Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất chúng, với các tác phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo như: Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố, Làm đĩ …

Vũ Trọng Phụng

98.

Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Tri Phương (1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; hồi trẻ, ông làm thơ lại ở huyện Phong Điền, tiến đến làm thơ lại ở Bộ hộ, sau được người tiến cử và vua Minh Mạng đã thu dụng ông. Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Ông xây dựng đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25-10-1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19-11-1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp Hà Nội. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm hy sinh tại trận, ông bị trọng thương. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối và nói rằng: “Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và mất vào 20-12-1873. Yêu nước, thương dân, bất khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với nước.

Nguyễn Tri Phương

99.

Lạc Long Quân

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".

Lạc Long Quân

100.

Cao Bá Quát

Cao Bá Quát (1808-1855), tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người đời tôn ông là “Thánh Quát”.

Cao Bá Quát

101.

Ngô Quyền

Ngô Quyền (899-944), quê quán làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, là một tướng tài và con rể của Dương Đình Nghệ. Trong cuộc đấu tranh chống triều đình Nam Hán do Dương Đình Nghệ lãnh đạo nhằm giành độc lập dân tộc vào những năm 930-931, ông đã góp một phần công sức rất quan trọng. Sau khi đã thắng lợi, Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ (931), và cử ông trông coi châu Ái. Cuối năm 938, Ngô Quyền kéo quân từ châu Ái ra Bắc diệt giặc và lập một chiến công lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, quét sạch đội thủy quân Nam Hán do Vạn vương Hoằng Thao, con vua Nam Hán dẫn đầu.

Ngô Quyền

102.

Võ Thị Sáu

Võ Thị Sáu (1935-1952), tên thật: Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là anh hùng Lực lượng vũ trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ. Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù thực dân Pháp, dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5.1948, tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14.7.1949, cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5.1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến Khám Chí Hoà, Sài Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết người công an cách mạng. Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn động dư luận xã hội lúc đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã khước từ rửa tội, từ chối bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng. Võ Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23.1.1952 và được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.

Võ Thị Sáu

103.

Trương Hán Siêu

Trương Hán Siêu, quê huyện Yên Ninh (nay là Thành phố Ninh Bình), Ninh Bình; được Trần Hưng Đạo nuôi dưỡng và tiến cử, sau làm tới chức Hành khiển, Tả Tham tri Chính sự; trở thành nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng thời Trần, là tác giả Hoàng Triều đại điển, Bạch Đằng giang phú …

Trương Hán Siêu

104.

Nguyễn Văn Siêu

Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên, rồi về dạy học, lập trường Phương Đình. Ông giỏi văn chương, học rộng, được người đời gọi là Thần Siêu, cùng với Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều những câu đối và đại tự do ông viết.

Nguyễn Văn Siêu

105.

Nguyễn Sơn

Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người được phong quân hàm tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và học Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc từ đó tham gia vào cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1934, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Tháng 11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ như: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm 1948, ông được Nhà nước phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Ông mất năm 1956 và sau đó được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Nguyễn Sơn

106.

Lý Quốc Sư

Lý Quốc Sư (1065-1141), quê quán: Gia Viễn, Ninh Bình, là pháp danh của thiền sư Nguyễn Minh Không. Quốc sư đã có công lớn chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông. Ngài là ông tổ nghề y, đúc đồng, thủ công nghiệp, trồng lúa nước, đã có công truyền nghề cho dân vùng Nam Định, được nhân dân Nam Định ghi nhớ công ơn, lập đền thờ.

Lý Quốc Sư

107.

Duy Tân

Vua Duy Tân (1900-1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn. Năm 1916, lúc Châu Âu  có đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, ông dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunionn ĐDương. Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống Phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất ở Cộng hòa Trung Phi.

Duy Tân

 

108.

Tống Duy Tân

Tống Duy Tân (1837- 1892), quê quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà yêu nước kháng Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc học Thanh Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh Thanh Hoá, có lúc ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất thủ, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập căn cứ và trở thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa quân của ông bị Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra Bắc, lúc chạy vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách ghi là Lễ) làm phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành quyết ông vào ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất ông có câu đối: "Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn truyền".

Tống Duy Tân

109.

Lê Trọng Tấn

Là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13 tháng 3 năm 1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm quân đội ta đã cắm là cờ chiến thắng trên nóc Hầm Đờ Cát Tơ Ri vào ngày 07/5/1954.

Lê Trọng Tấn

110.

Hà Huy Tập

Hà Huy Tập (1902-1941) quê ở Hà Tĩnh, tham gia cách mạng, học trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva, tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ nhất ở Ma Cao được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng rồi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông về Sài Gòn lãnh đạo phong trào cách mạng, năm 1938, ông bị Pháp bắt giam. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại (11-1940) ông bị Pháp bắt lần thứ hai, chúng xử bắn ông và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần…Hà Huy Tập tích cực đấu tranh tuyên truyền cho Đảng Cộng sản. Ông đã viết Sơ thảo lịch sử phong trào Cộng sản Đông Dương bằng tiếng Pháp, ký tên là Hồng Thế Công (1932). Năm 1937, ông viết cuốn Tơ-rốt-xki và phản cách mạng, ký tên Thanh Hương. Ông cộng tác với báo La lutte (1937).

Hà Huy Tập

111.

Nguyễn Cơ Thạch

Nguyễn Cơ Thạch (1921-1998), quê quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị giam tại nhà lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1040-1945). Năm 1943 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng, Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các cơ quan của Liên khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông được nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…

Nguyễn Cơ Thạch

112.

Phạm Ngọc Thạch

Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp (1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm 1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và tham gia phong trào cách mạng, phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi (1957), Moscow (1958) và Paris (1968).

Phạm Ngọc Thạch

113.

Hoàng Văn Thái

Hoàng Văn Thái (1915-1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau Cách mạng tháng Tám, được giao phụ trách Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh kiêm Chính ủy quân khu 5. Phó Bí thư Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hoàng Văn Thái

114.

Hoàng Hoa Thám

Hoàng Hoa Thám (1836 -1913), quê ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; năm 16 tuổi, ông tham gia khởi nghĩa của Đại Trận (1870-1875). Khi Pháp chiếm Bắc Ninh (3-1884) Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh, rồi nghĩa quân của Hoàng Đình Kinh (1882-1888), sau đó ông đứng dưới cờ nghĩa Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài. Tháng 4-1892, Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại và Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế. Trong ba năm (1893-1895) giặc Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du kích tài tình đã đã gây cho giặc những tổn thất nặng nề. Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27-6-1908 của binh lính yêu nước ở Hà Nội (gọi là vụ Hà thành đầu độc), sự kiện làm chấn động khắp cả nước. Cuối tháng 12-1912, Lương Tam Kỳ, một tên trùm thổ phỉ đã đầu hàng Pháp, cùng với bọn chỉ điểm sát hại Hoàng Hoa Thám ngày 10-2-1913.

Hoàng Hoa Thám

115.

Tôn Đức Thắng

Tôn Đức Thắng (1888-1980), quê ở xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, bị thực dân Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1946 - 1980, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Mặt trận Liên Việt, Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Trưởng ban thường trực Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam. Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1958), Huân chương Xu khe bato - huân chương cao quý nhất của Mông Cổ (năm 1978). Ông cũng là người đầu tiên được nhận giải thưởng Hoà bình Quốc tế Lênin.

Tôn Đức Thắng

116.

Cao Thắng

Cao Thắng (1864-1893), quê ở làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông hy sinh trong một trận đánh đồn Pháp ở Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách nhiệm chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng, nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng, mở rộng địa bàn, thanh thế vang dội ở 4 tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng đã tìm mọi cách chế tạo được súng trường để trang bị cho nghĩa quân. Súng của Cao Thắng chế tạo làm cho các sĩ quan Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.

Cao Thắng

117.

Nguyễn Chí Thanh

Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), quê ở Thừa Thiên Huế là một tướng lĩnh kiệt xuất của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là người đề xuất chiến thuật đánh áp sát của Quân giải phóng miền Nam với phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Bộ chính trị và Ban bí thư. Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Ông mất năm 1967.

Nguyễn Chí Thanh

118.

Tô Hiến Thành

Tô Hiến Thành (1102-1179), người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội), làm quan Thái úy thời vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ. Chỉ huy quân dẹp loạn và bọn xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là người trung trực, thanh liêm nổi tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga Sơn (Thanh Hóa).

Tô Hiến Thành

119.

Bà Huyện Thanh Quan

 

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông, Hà Nội. Bà nổi tiếng về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế, bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho công chúa và các cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã để lại gồm 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất nước như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh Hương sơn.

Bà Huyện Thanh Quan

 

120.

Nguyễn Gia Thiều

Nguyễn Gia Thiều (1741-1798): người làng Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh, thông minh, hiểu nhiều ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm Hiệu úy rồi thăng Tổng binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn thống nhất đất nước, ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc nổi tiếng.

Nguyễn Gia Thiều

121.

Nguyễn Hữu Thọ

Ông làm Quyền Chủ tịch nước từ tháng 4 năm 1980 cho đến tháng 7 năm 1981. Năm 1981, ông là Chủ tịch Quốc hội cho đến năm 1987. Ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước khóa VII, VIII.

Nguyễn Hữu Thọ

 

122.

Lê Đức Thọ

Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ, nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Hòa Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở miền Nam, giữ cương vị chủ chốt trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam. Năm 1955 ông được bổ sung vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của Trung ương Đảng, Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung ương, sau trở lại miền Nam công tác. Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn Chính phủ ta tại hội nghị Paris, ký hiệp định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Năm 1975, ông vào Nam chỉ đạo cuộc tổng tiến công mùa xuân và chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước.

Lê Đức Thọ

123.

Hoàng Văn Thụ

Hoàng Văn Thụ (1906-1944): bậc tiền bối cách mạng, dân tộc Tày, quê xã Nhân Lý, huyện Văn Yên, nay là Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, tham gia cách mạng từ năm 1927, đại biểu dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng ở Ma Cao, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng, năm 1943 ông bị Pháp bắt tại Hà Nội, kiên cường bất khuất, bị chúng kết án tử hình. Những hoạt động của Hoàng Văn Thụ rất đa dạng. Ông rất giàu kinh nghiệm đối với công tác tuyên truyền trong công nhân, binh sĩ. Ông là chủ bút nhiều tờ báo bí mật như: Tranh đấu, Lao động nhằm phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng cho đồng bào miền núi. Ông cũng sử dụng thơ ca phục vụ cho lý tưởng cách mạng. Có nhiều bài Sli, lượn do Hoàng Văn Thụ sáng tác đã trở thành phổ biến và đi vào kho tàng văn nghệ dân gian.

Hoàng Văn Thụ

124.

Xuân Thủy

Xuân Thủy (1912-1985), tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại các tác phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …

Xuân Thủy

125.

Tôn Thất Thuyết

Tôn Thất Thuyết (1839-1913), quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu nước. Năm 1869, ông làm án sát Hải Dương, Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. Ông được phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước Nam. Ông ráo riết chuẩn bị chống Pháp. Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh mở đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.

Tôn Thất Thuyết

126.

Lê Văn Thịnh

Lê Văn Thịnh (chưa rõ năm sinh, mất năm 1096), là người tài năng, đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của Nho học Việt Nam có công lao lớn làm quan tới chức Thái sư Thời Lý Nhân Tông. Năm 1084, được cử lên trại Vĩnh Bình (Lạng Sơn) giải quyết vấn đề biên giới với quan chức nhà Tống. Theo "Đại Việt sử kí toàn thư", nhà Tống phải trả cho Đại Việt 6 huyện, 3 động. Đền thờ Ông hay Đền thờ Quan Trạng ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Lê Văn Thịnh

127.

Tuệ Tĩnh

Tuệ Tĩnh (1341-1385), tên thật là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu (nay thuộc huyện Cẩm Giàng), tỉnh Hải Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng hậu, bị lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả các bộ sách về thuốc Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.

Tuệ Tĩnh

128.

Lê Thái Tổ

Lê Thái Tổ (1385-1433) tên húy là Lê Lợi, là người khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành vị vua đầu tiên của vương triều nhà Hậu Lê, triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Năm 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú… tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa. Đồng thời ông tự xưng là Bình Định Vương và kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược nhà Minh.

Lê Thái Tổ

129.

Ngô Tất Tố

Ngô Tất Tố (1894-1954), nhà báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm báo, viết văn dịch thuật. Những tác phẩm nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng với bài báo bình luận xuất sắc ký nhiều bút danh; những sách nghiên cứu phê bình như Nho giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ văn Hán - Nôm và truyện Trung Quốc, đã đưa ông thành cây bút hiện thực lớn. Ông tham gia Văn hóa cứu quốc, đi kháng chiến chống Pháp, làm báo cách mạng và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.

Ngô Tất Tố

130.

Lý Thái Tổ

Lý Thái Tổ tức Lý Công Uẩn sinh năm (974-1028), quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, nơi vẫn còn lưu giữ ngôi đền Lý Bát Đế nổi tiếng thờ 8 vị vua triều Lý. Theo truyền thuyết Ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Lý Công Uẩn mới nhận lời lên ngôi vua, lập ra triều Lý. Lên ngôi báu, nhận thấy đất Hoa Lư chật hẹp, bốn bề núi giăng, không xứng là đất định đô của một quốc gia độc lập, càng khó để xây dựng đất nước phồn thịnh, Lý Thái Tổ nghĩ tới việc dời đô. “Xem khắp đất Việt”, thấy chỉ có Đại La là “nơi thắng địa”, “ở trung tâm của trời đất”, “được thế rồng chầu hổ phục, đã thuận hướng nam bắc đông tây, lại tiện nghi núi sông sau trước”, “mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa”, Lý Thái Tổ bèn soạn thiên chiếu dời đô nổi tiếng sử sách để tham vấn ý kiến quần thần. Vua tôi nhất trí đồng lòng, quyết dời đô từ Hoa Lư ra Đại La.

Lý Thái Tổ

131.

Nguyễn Trường Tộ

Nguyễn Trường Tộ (1830 -1871), quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản. Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.

Nguyễn Trường Tộ

132.

Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản (1267-1285), quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống Nguyên Mông. Năm 1282, lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp nước ta, vua Trần Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản cũng là Hầu tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được vào họp bàn. Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội về, ông tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề 6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh giặc. Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương vang dội trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức, ông bị trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn Vương. Trần Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Ông là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.

Trần Quốc Toản

133.

Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông (1442-1497), là vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị vì từ năm 1460 đến 1497. Ông là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người xây dựng bộ Luật Hồng Đức. Đây là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.

Lê Thánh Tông

134.

Lý Thánh Tông

Lý Thánh Tông (1023-1072) quê ở Cổ Pháp, Từ Sơn, Bắc Ninh, là vị vua thứ 3 của nhà Lý, cai trị từ năm 1054 đến 1072. Ông tên thật là Lý Nhật Tân, là người văn võ song toàn, ông nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam. Công lao của ông là đặt quốc hiệu Đại Việt, xây dựng Văn Miếu, phá Tống (1069), bình Chiêm (1069) và lấy được ba châu của Chiêm Thành.

Lý Thánh Tông

135.

Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (1258-1308), vị vua thứ ba triều Trần, con cả Trần Thánh Tông, lãnh đạo quân và dân Đại Việt hai lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông (1285-1288), sau nhường ngôi cho con, đi tu ở núi Yên Tử, trở thành vị Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc Lâm.

Trần Nhân Tông

136.

Trần Thái Tông

Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường ngôi cho con để tập trung nghiên cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.

Trần Thái Tông

137.

Trần Thánh Tông

Trần Thánh Tông (1240-1290), vua thứ hai triều Trần, nhân từ, có nhiều chính sách tích cực, và là một nhà thơ lớn, trị vì 20 năm (1258-1278), sau nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.

Trần Thánh Tông

138.

Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), quê quán: Chí Linh, Hải Dương. Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều H. Sau khi đất nước bị rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách Minh thuộc. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di Tam tộc trong vụ án Lệ chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông. Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất ở Việt Nam, ông cũng là danh nhân văn hoá của Việt Nam và thế giới.

Nguyễn Trãi

139.

Huyền Trân

Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời, Huyền Trân được cứu đưa về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản, tỉnh Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà được nhân dân thờ phụng tại đó.

Huyền Trân

140.

Đặng Thùy Trâm

Đặng Thùy Trâm (1942-1970), tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung phong vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy thuốc trong thời gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ. Trong hành trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến trường huyện Đức Phổ tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau đó đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.

Đặng Thùy Trâm

141.

Bà Triệu

Bà Triệu (226-248) tên thật là Triệu Thị Trinh, người Sơn Trung (Nông Cống - Thanh Hóa). Năm 247 cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân thống trị nhà Ngô, ở Ngàn Nưa, lập căn cứ Bồ Điền (Hậu Lộc), sau bị Lục Dận đem quân sang bao vây. Thế cùng lực tận, bà tuẫn tiết trên ngọn Tùng Sơn (Hậu Lộc - Thanh Hóa). Nay ở đó còn lăng mộ và đền thờ bà.

Bà Triệu

142.

Phan Châu Trinh

Phan Châu Trinh (1872-1926), quê ở Quảng Nam. Năm 28 tuổi Phan Châu Trinh đỗ Cử nhân (1900), 29 tuổi đỗ Phó bảng (1901. Năm 1902, Phan Châu Trinh được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm Thừa Biện (một chức quan nhỏ) Bộ Lễ và đến năm 1904 ông xin từ quan. Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc vận động duy tân ở Quảng Nam với 3 mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước, nhân dân Sài Gòn nhất là học sinh nồng nhiệt chào đón cụ. Khi Phan Bội Châu bị Hội đồng đề hình Pháp xử mức án “khổ sai chung thân”, Phan Châu Trinh gửi điện cho Toàn quyền Đông Dương đề nghị ân xá cho Phan Bội Châu. Tháng 11-1925, Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội thanh niên Sài Gòn về “Đạo đức luân lý Đông - Tây”; “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.

Phan Châu Trinh

143.

Nguyễn Văn Trỗi

Nguyễn Văn Trỗi (1940-1964), quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử Tây Nam Sài Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa được trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài.

Nguyễn Văn Trỗi

144.

Lý Tự Trọng

Lý Tự Trọng (1915-1932) , quê ở Xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc liên lạc giữa Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ, các cán bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức chuyển thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí đang diễn thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám Pháp và bị bắt. Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử bắn khi mới 17 tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy làm lẽ sống cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng không có con đường nào khác”.

Lý Tự Trọng

145.

Trần Bình Trọng

Trần Bình Trọng (1259-1285), danh tướng đời Trần, quê huyện Thanh Liêm, Hà Nam, vốn họ Lê do có công lớn nên được ban họ vua; trong trận đánh ở sông Thiên Mặc bị giặc Nguyên bắt dụ hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và chịu chết.

Trần Bình Trọng

146.

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ (1778-1858), hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài thao lược, có công khai hoang lấn biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập ra các huyện mới: Tiền Hải, Kim Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều bài ca trù nổi tiếng.

Nguyễn Công Trứ

147.

Nguyễn Trung Trực

Nguyễn Trung Trực (1838-1868), người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay thuộc Long An); còn có tên Nguyễn Văn Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp; hăng hái chống Pháp khi chúng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm hạm Hy Vọng (Espérence) trên sông Vàm Cỏ (1861); được giao trấn thủ Hà Tiên. Pháp chiếm xong Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị Pháp bắt và đem hành hình ở Rạch Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.

Nguyễn Trung Trực

148.

Hai Bà Trưng

Trưng Trắc và Trưng Nhị (14-43), nữ anh hùng dân tộc. Hai Bà dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn mùa xuân năm 40, đánh thủ phủ Luy Lâu của quân Hán thống trị, rồi thu lại 65 thành. Bà Trưng Trắc lên làm vua, lập đô ở Mê Linh (nay là xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội). Năm 42, Mã Viện mang quân sang đàn áp, Hai Bà chống lại không nổi, đã anh dũng tuẫn tiết ở Cấm Khê.

Hai Bà Trưng

149.

Hồ Nguyên Trừng

Hồ Nguyên Trừng (1347-1446), quê ở Thanh Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Sau đó, được cử làm Tả tướng quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là nhà kỹ thuật quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt Nam. Ông cũng chỉ huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài ra ông còn là nhà văn Việt Nam thế kỷ 15, là người mở đường cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.

Hồ Nguyên Trừng

150.

Đào Duy Từ

Đào Duy Từ (1572-1634), quê huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong chống họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy Trường Dực, Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là Khai quốc công thần. Tác giả Hồ trướng khu cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu, khúc ngâm Ngọc Long Cương Văn…

Đào Duy Từ

151.

Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị; năm 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế Lan Viên lập trường thơ Loạn. Ông sử dụng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Tác phẩm gồm có: Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu học ở Qui Nhơn, trung học ở Huế, có thời gian làm ở Sở Đạc điền (Qui Nhơn). Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách trang văn báo Sài Gòn), về sau trở ra Qui Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong, phải vào nhà thương Qui Hòa và qua đời ở đó.

Hàn Mặc Tử

152.

Ngô Gia Tự

Ngô Gia Tự (1908-1935), quê ở Bắc Ninh, ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ Bắc Ninh. Cuối năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại Sài Gòn, đến tháng 5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.

Ngô Gia Tự

 

153.

Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987), Nhà văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng sống với gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm báo, viết văn, đóng phim từ năm 1930. Nổi tiếng với thể loại tùy bút mang phong cách riêng độc đáo trước Cách mạng, trong kháng chiến và sau hòa bình. Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến; thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội dự các chiến dịch sông Thao, đường số 4. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị: Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tóc chi Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ giỏi….

Nguyễn Tuân

154.

Ngụy Khắc Tuần

Ngụy Khắc Tuần (1799-1854), quê quán xã Xuân Viên, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Năm Tân Sửu (1841 đời Thiệu Trị thứ nhất) ông dâng sớ: “…Châu Ninh Biên thuộc vào đồ bản nước ta lâu rồi, không phải mới một ngày thôi. Duy nước Nam Chưởng nhận làm đất cũ, rồi gây rối hiềm khích. Khi trước, thổ quan mưu cầu cho vô sự, nên đem vàng bạc đút lễ họ. Đến khi ta đặt lưu quan, thì họ không được gì, mới viện dẫn người Xiêm kéo đến lấn cướp. Vả lại, đồn ở châu ấy không có thành trì vững chắc, sức binh thì yếu và không đủ dùng, dân cư thì không thành thôn trại gì, vừa mới nghe tin giặc đến là chạy trốn liền ngay. Nếu không qua một phen xếp đặt lại, thì mối lo ở cõi ven còn chưa trừ hết được. Huống chi châu ấy đất rộng, người ít, lại ở thượng du, làm phên che cho 10 châu ở phía Bắc Sông Đà, thì không gì bằng mộ dân đến ở nơi ấy cho đông, để tự phòng thủ lấy mới là kế sách dài lâu. Nay xin đem đồn ở châu ấy đặt làm phủ Điện Biên, kiêm lí châu Ninh Viễn, và lấy nơi Lai Châu gần đấy, lại thêm vào châu Tuần Giáo nữa, đặt chức Tri phủ, Quan phủ, mộ 300 binh dũng đóng giữ. Rồi lại chiêu tập dân lưu tán, dân trú ngụ cày và khẩn ruộng, đổi chác, buôn bán, để dần dần làm thành cơ chỉ, ngõ hầu việc phòng bị ở cõi biên ngày có thể hoàn toàn được…”. Vua y theo, xuống dụ rằng: “…Ngụy Khắc Tuần vỗ họp dân cõi biên, mở thành một phủ, có công lao kiến nghị ra trước, việc sắp được thành, giao cho Bộ Lại bàn xét công ấy. Rồi Khắc Tuần về kinh theo triều ban…”. Vua cho khắc công lao của ông vào bia đá để lưu truyền đời sau. Ông được thờ trong đền Hiền Lương (đền nằm trên sườn gần chân núi Hồng Lĩnh). Sinh thời, ông có tâm hồn của kẻ sĩ, làm nhiều thơ, để lại 4 đầu sách và 20 bài thơ khác hiện có ở thư viện Viện Hán Nôm.

Ngụy Khắc Tuần

155.

Tôn Thất Tùng

Tôn Thất Tùng (1912-1982) là một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô. Ông là giáo sư, đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng tại trường Đại học Y khoa Hà Nội.

Tôn Thất Tùng

156.

Dã Tượng

Dã Tượng có công trong sự nghiệp chống quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi tiếng trung thành, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô. Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một điểm đến khi chủ tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn tin yêu. Theo truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn đều thờ Dã Tượng tiên sư.

Dã Tượng

157.

Tô Ngọc Vân

Tô Ngọc Vân (1906-1954), quê ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên; sinh ở Hà Nội, học khóa II trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1931), sau trở thành giáo sư hội họa của trường. Ông tham gia hoạt động bán công khai trong Mật trận Việt Minh, sau Cách mạng tháng Tám là một trong những họa sĩ đầu tiên được vào vẽ Bác Hồ. Ông mất trong kháng chiến chống pháp, sau 28 năm cống hiến cho hội họa Việt Nam hiện đại; để lại nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được lưu giữ trong các bảo tàng quốc gia và thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Tô Ngọc Vân

158.

Chế Lan Viên

Chế Lan Viên (1920-1989), chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư. Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi, với tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV rồi chuyển ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách bao gồm thơ, bút ký, lý luận - phê bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và giàu chất trí tuệ. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Chế Lan Viên

159.

Hoàng Quốc Việt

Hoàng Quốc Việt (1905-1992), quê ở Đáp Cầu, tỉnh Bắc Ninh tên thật là Hạ Bá Cang. Ông tham gia cách mạng từ năm 1925. Năm 1930, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Chủ tịch đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu quốc hội từ khoá V, VI, VII, VIII. Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.

Hoàng Quốc Việt

160.

Lương Thế Vinh

Lương thế Vinh (1441-1496) quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng “thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh còn có những công trình về âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.

Lương Thế Vinh

161.

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê quán xã Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà văn hiện đại của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn, được dàn dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng HCMinh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.

Lưu Quang Vũ

162.

An Dương Vương

An Dương Vương tên thật là Thục Phán, là vị vua lập lên nược Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nược thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm (từ 257 TCN đến 208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông là người xây thành Cổ Loa và phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế vững chắc cho Cổ Loa.

An Dương Vương

163.

Hùng Vương

Theo truyền thuyết, là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.

Hùng Vương

164.

Kinh Dương Vương

Kinh Dương Vương là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khoẻ phi thường. Kinh Dương Vương thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879TCN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Thống, Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó rời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.

Kinh Dương Vương

165.

Triệu Việt Vương

Triệu Việt Vương là miếu hiệu của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, trước phò Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên ngôi, xây căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà Lương; sau bị Lí Phật Tử đánh bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.

Triệu Việt Vương

166.

Nguyễn Viết Xuân

Nguyễn Viết Xuân sinh ngày 20/1/1933 tại thôn Thượng xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 05/11/1952, Ông nhập ngũ và trở thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó Ông trở thành chiến sỹ trinh sát của C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa phòng không miền Tây tỉnh Quảng Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa ném bom. Anh em trong đơn vị chưa quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã kịp thời động viên: “các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay mà bắn.

Ngày 19/11/1964, Nguyễn Viết Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông Nhằm thẳng quân thù, bắn ! còn vang vọng. Cảm phục trước tấm gương hy sinh anh dũng, toàn quân đã noi gương Ông. Tổ quốc ghi nhớ công lao của Ông. Ngày 01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ Nguyễn Viết Xuân.

Nguyễn Viết Xuân

167.

Nguyễn Xí

Nguyễn Xí (1396-1465), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong những tướng có công đánh tan cuộc tấn công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi. Năm 1427, ông đã phối hợp với tướng Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to lớn vào việc đánh chặn viện binh giặc, tạo điều kiện cho đại quân hạ thành Đông Quan, giải phóng đất nước vào năm 1427. Tháng 6.1460, ông cùng đại thần Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi Dân đưa Gia vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là một tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ cho đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và chính trị.

Nguyễn Xí

168.

Lê Anh Xuân

Lê Anh Xuân (1940 - 1968), là nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học tổng hợp Hà Nội sau đó, được cử đi học ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê hương chiến đấu. Anh hy sinh ngày 25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài Gòn, ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Lê Anh Xuân có 3 tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà gáy", "Hoa dừa", "Trường ca Nguyễn Văn Trỗi", trong đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng đứng Việt Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và được truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang năm 2011.

Lê Anh Xuân

169.

Trần Tế Xương

Trần Tế Xương (1870-1907) tên thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc, Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi thi 8 lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.

Trần Tế Xương

b) Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động của tỉnh Điện Biên

TT

Họ và tên

Quê quán

Chiến công

Đơn vị công tác

Tên dự kiến đặt

170.

Phạm Thanh Bình

Gia Lộc, Tứ Lộc, Hải Dương

Hy sinh 17/8/1996 trong khi dũng cảm cứu dân vùng lũ, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh hùng LLVT Quyết định số 341KT/CTN ngày 22/7/1998 của Chủ tịch nước.

Công an huyện Mường Chà.

 

Phạm Thanh Bình

171.

Nguyễn Văn Bôn

Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh

Cuối tháng 9-1959, thầy giáo trẻ Nguyễn Văn Bôn cùng các đồng nghiệp khác đã vượt rừng, lội suối vào huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu - vùng đất xa xôi và hoang vu để dạy chữ. Lúc đó, muốn đi từ bản nọ sang bản kia của xã Mù Cả, huyện Mường Tè phải hết 1 ngày đường. Thấy dân cư quá thưa thớt, thầy giáo Bôn tính chuyện tập trung học trò lại để học. Rồi ông kéo học sinh về “ký túc xá” của trường ở bản Mù Cả, vận động bà con đóng góp dựng lều lán cho con em mình ở, cho các em mang gạo đến trường tự thổi cơm, đi học. Học sinh lớp 3 đã biết tự sản xuất lúa gạo, thu hoạch được hàng tấn thóc, lập thành những kho lúa khổng lồ lúc ấy. Nhà trường còn đổi thóc lấy đèn măng xông, máy phát nhạc phục vụ việc học, đổi lấy trâu bò để cày cấy nữa”… Với những thành tích trong thời gian dạy học ở xã Mù Cả, năm 1962 thầy giáo Nguyễn Văn Bôn được về thủ đô Hà Nội để báo cáo điển hình, được gặp Bác Hồ, được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh ký phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục nước nhà và là Anh hùng Lao động của tỉnh Lai Châu.

 

Nguyễn Văn Bôn

172.

Phạm Văn Cường

An Thành, Tứ Kỳ, Hải Dương

Hy sinh 17/8/1996, trong khi truy bắt tội phạm ma túy đặc biệt nguy hiểm, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh hùng LLVT Quyết định số 879/2002/QĐ-CTN ngày 10/12/2002 của Chủ tịch nước

Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Điện Biên.

Phạm Văn Cường

173.

Quàng Văn Dinh

Xã Quài Cang, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên

 

Đã đạt thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào thi đua cải tiến sản xuất nông nghiệp giai đoạn (1957-1967), góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

Quàng Văn Dinh

174.

Vừ A Dính

Xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, Điện Biên

Năm 1949, Vừ A Dính được các đội viên Đội xung phong Quyết Tiến khi vào hoạt động ở các xã vùng cao của huyện Tuần Giáo giác ngộ và tham gia cách mạng. Năm 1950, khi Đội công tác Tuần Giáo (sau là Ban cán sự Đảng huyện Tuần Giáo, Ban Cán sự Đảng liên huyện Tuần - Lai) vào hoạt động thay cho Đội xung phong Quyết Tiến đi nhận nhiệm vụ khác thì Vừ A Dính làm liên lạc cho Đội công tác Tuần Giáo và Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu. Đến tháng 12-1951, sau hơn hai năm hoạt động cách mạng Vừ A Dính đã bị địch bắt trong khi đang thực hiện nhiệm vụ và đã hy sinh để bảo vệ cán bộ Đảng, bảo vệ cơ sở cách mạng khi mới 17 tuổi, để lại trong lòng dân tộc Việt Nam và đồng bào các dân tộc tỉnh Lai Châu một tấm gương sáng ngời. Năm 1952, Vừ A Dính được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì. Năm 1953, tại Hội nghị liên hoan các chiến sĩ xuất sắc của tỉnh Lai Châu, Vừ A Dính được bầu là chiến sĩ du kích danh dự của tỉnh, ngày 8-11-2000, Vừ A Dính được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 

Vừ A Dính

175.

Quàng Văn Hao

Xã Mường Mùn, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên

Đã đạt thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào thi đua cải tiến sản xuất nông nghiệp giai đoạn (1975-1985), góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước.

 

Quàng Văn Hao

176.

Nguyễn Văn Hiền

Thiệu Long, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa

Sáng 17/2/1979 quân Trung Quốc có xe tăng, pháo yểm trợ, ồ ạt tấn công đồn Công an VTND số 33 Lai Châu. Đ/c chỉ huy một phân đội dũng cảm chặn đánh địch ở mũi chính diện. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, phân đội đã đẩy lùi được 15 đợt tấn công liên tiếp của địch, diệt 500 tên, bắn cháy 2 xe tăng. Riêng đồng chí diệt 40 tên. Ngày 18/2/1979 địch tăng quân, vẫn có xe tăng, pháo binh yểm trợ, ồ ạt tấn công. Đ/c chỉ huy đơn vị ngoan cường chiến đấu, đẩy nhiều đợt tấn công của địch. Bị thương vào tay, đồng chí tự băng bó tiếp tục chỉ huy chiến đấu, lần thứ ba bị thương gẫy cả hai chân, đồng chí vẫn không rời vị trí động viên chiến sỹ biến căm thù thành sức mạnh phản kích địch quyết liệt. Lực lượng quá chênh lệch, địch dùng chiến thuật biển người; đạn sắp hết đồng chí lệnh cho 12 chiến sỹ phá vòng vây rút về phái sau cồn mình tiếp tục chiến đấu đồng chí đã anh dũng hy sinh.

Cán bộ đồng công an vũ trang nhân dân số 33

Nguyễn Văn Hiền

177.

Tòng Văn Kim

Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Sáng 17/2/1979, khi quân Trung Quốc ồ ạt tấn công qua biên giới, đồng chí được guiao nhiệm vụ chỉ huy một tổ (6 đồng chí) vận động gấp từ Đồn Biên Phòng lên trạm phối hợp đánh địch. Lợi dụng địa hình và trận địa vững chắc, đồng chí chỉ huy tổ đánh địch, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên.

Trung sỹ tiểu đội trưởng công binh CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

 

Tòng Văn Kim

178.

Quàng Văn Liên

 

Huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

 

Cùng đồng đội chiến đấu đồng chí tích cực góp phần bắt 17 tên biệt kích, gián điệp, kêu gọi 11 tên phỉ về hàng, thu giữ nhiều vũ khí, tài liệu của địch. Đồng chí, là một cán bộ luôn kiên định, vững vàng, gan dạ, dũng cảm phẩm chất đạo đức trong sáng mẫu mực được đồng đội và nhân dân tin yêu.

Chính trị viên phó Đồn 1 Công an nhân dân vũ trang Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

Quàng Văn Liên

 

179.

Lầu A Phừ

Tả Phình-huyện Sìn Hồ-tỉnh Lai Châu

Sáng ngày 17/2/1979 quân Trung quốc bắn pháo cấp tập rồi ào ạt chàn sang đánh chiếm Đồn 1. Nhận nhiệm vụ chỉ huy 1 tổ chốt giữ điểm cao, đồng chí đã cùng đồng đội đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch. Cuộc chiến đấu ác liệt kéo dài, bản thân cùng bị thương nhưng đồng chí cùng đồng đội cơ động tiếp tục chiến đấu tiêu diệt được nhiều tên địch giành giật từng đoạn hào, dùng nhiều loại vũ khí như B40, B41, súng AK, lựu đạn.. sau đó đồng chí bị thương nặng. Đêm ấy chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, đồng chí dẫn đầu đơn vị di chuyển trận địa, tổ chức đưa thương binh cùng đi an toàn.

Chuẩn úy tiểu đội trưởng nuôi quân Đồn 1 CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

 

Lầu A Phừ

180.

Sùng Phái Sinh

Xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo

Tháng 9-1951, bốn lần địch càn vào xã, tuy chỉ có một mình nhưng Sùng Phái Sinh đã chủ động đánh địch ngay từ khi chúng chưa vào tới bản, bắn chết 10 tên, buộc chúng phải rút chạy. Lần thứ tư, chúng huy động 300 quân từ ba hướng càn vào xã; Sùng Phái Sinh báo cho cán bộ và nhân dân tạm lánh, còn mình khôn khéo lợi dụng rừng cây, di chuyển cả trên ba hướng. Sau khi bắn chết 3 tên, bắn bị thương nhiều tên và quan sát thấy chúng đã bắt đầu bắn lẫn nhau, đồng chí nhanh nhẹn lẩn vào rừng. Tháng 2-1952, địch lên cướp phá ở Mai Thuận, Sùng Phái Sinh chỉ huy tổ du kích diệt 4 tên tại chỗ, buộc chúng phải rút. Ngày hôm sau chúng lên 150 tên, thấy lực lượng địch đông, đồng chí cho chiến sĩ rút, còn mình ở lại luồn rừng, lợi dụng núi cao, khe đá, ẩn nấp bắn tiêu diệt 7 tên, trong đó có tên quan ba chỉ huy là Đèo Văn Phát, em trai tên vua Thái phản động Đèo Văn Long, làm cho địch hoang mang, tháo chạy. Cuối năm 1952, Sùng Phái Sinh gọi hàng được 25 tên, sau đó Sùng Phái Sinh còn chỉ huy du kích truy quét bọn tàn binh, bắt sống 1 tên Pháp, lấy được 60 khẩu súng và nhiều đạn. Năm 1953, địch rút chạy khỏi Nà Sản, Sùng Phái Sinh chỉ huy du kích xuyên rừng, đón đường, vây bắt được 20 tên giặc, ông đã vận động xây dựng được cơ sở cách mạng ở 16 bản, giáo dục tinh thần tương trợ lẫn nhau và lập được 50 tổ sản xuất, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc Mông và dân tộc Thái. Sùng Phái Sinh đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Nhất, 2 lần là Chiến sĩ thi đua của Quân khu Tây Bắc. Ngày 7-5-1956, ông được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

 

Sùng Phái Sinh

181.

Khoàng Văn Tấm

Lay Nưa, Mường Lay, Điện Biên

Hy sinh ngày 06/3/1979. Có nhiều thành tích trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc tại biên giới Việt - Trung, được phong tặng danh hiệu anh hùng tại Quyết định số 158-LCT ngày 14/8/1990.

Tiểu đoàn cảnh sát cơ động, công an tỉnh Điện Biên

Khoàng Văn Tấm

182.

Tao Văn Tem

Xã Chà Tở, huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên

Là trinh sát viên của đồn, đồng chí đã xây dựng được nhiều cơ sở, luôn chủ động nắm chắc tình hình. Đồng chí đã cùng đơn vị, chính quyền địa phương quản lý chắc địa bàn phụ trách. Khi quân Trung quốc tràn sang, được giao nhiệm vụ chỉ huy một tổ chiến đấu chặn đánh địch, đồng chí đã mưu trí chỉ huy đơn vị diệt được nhiều tên địch, riêng đồng chí diệt được 10 tên, toàn tổ đã nêu cao ý trí tiến công địch giữ vững được trận địa. Chấp hành chỉ thị của trên, đồng chí đã mưu trí dũng cảm, luồn sau lưng địch, vừa nắm chắc tình hình, vừa phòng ngừa âm mưu, thủ đoạn mới của địch. Dựa vào cơ sở đồng chí đã bắt, xử lý nhiều tên phản động, chỉ điểm thám báo.

Thượng sỹ, trinh sát viên đồn 1CANDVT Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

 

Tao Văn Tem

183.

Hà Ngọc Thao

Thiệu Minh, Thiệu Hóa, Thanh Hóa

Hy sinh 12/1994 trong khi truy bắt tội phạm truy nã đặc biệt nguy hiểm, được phong tặng danh hiệu anh hiệu anh hùng LLVT tại Quyết định số 341KT/CTN ngày 22/7/1998 của Chủ tịch nước.

Công an huyện Điện Biên, Điện Biên

 

Hà Ngọc Thao

184.

Trần Văn Thọ

 

Nỗ Lực, Cẩm Khê, Phú Thọ

 

Thành tích nổi bật của anh là tham gia phát động quần chúng, tiễu phỉ, trừ gian. Vận động quần chúng nhân dân đấu tranh, vạch trần tội ác của các loại đối tượng, gọi phỉ về hàng, riêng Anh vận động gọi được 2 tên phỉ trở về đầu thú. Theo đề nghị của anh cấp trên đã phê duyệt bắt 6 tên đặc vụ Tưởng trao trả cho phía Trung quốc, bắt 7 đối tượng đi tập trung cải tạo. Anh vận động đồng bào các dân tộc xóa mù chữ, trực tiếp dạy văn hóa cho dân, vận động dân cai nghiện thuốc phiện, xóa bỏ hủ tục lạc hậu.

Tiểu đội trưởng Đồn công an nhân dân Leng Su Sìn, Mường Nhé, Điện Biên.

 

Trần Văn Thọ

185.

Nguyễn Vũ Tráng

Minh Đức, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

Ngày 6/3/1979 lợi dụng sương mù địch cho nhiều mũi tấn công vào Đồn và Đại đội 5 của CANDVT Lai Châu. Hiệp đồng chặt chẽ với Đại đội 5, đồng chí đã chỉ huy đơn vị đánh địch quyết liệt, tiêu diệt 150 tên, thấy khẩu 12,7mm của chốt bạn bị hỏng, đồng chí đã băng qua lưới đạn của địch đến sửa chữa súng cho đồng đội, bị thương gẫy cả hai chân đồng chí vẫn ngoan cường chỉ huy đơn vị chiến đấu. Thấy chỉ còn một mình đồng chí bám trụ, địch hò hét sông lên, đồng chí dùng lựu đạn và súng AK đánh trả địch và diệt được nhiều tên nữa và sau đó đã anh dũng hy sinh.

Chính trị viên phó Đồn 1 Công an nhân dân vũ trang Lai Châu (nay là 02 tỉnh Điện Biên và Lai Châu)

Nguyễn Vũ Tráng

C) Các Bà mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh Điện Biên

TT

Họ và tên - năm sinh, năm mất

Quê quán

Tổ quốc ghi công

Năm công nhận

Tên dự kiến đặt

186.

Giàng Thị Chom (1910-1945)

Mường Tùng, Mường Chà, Điện Biên

Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 841/QĐ-CTN ngày 24/4/1996 của Chủ tịch nước

1996

Giàng Thị Chom

187.

Lò Thị Inh (1922-2009)

Nà Sáy, Tuần Giáo, Điện Biên

Có một con nuôi duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994

1994

Lò Thị Inh

188.

Lò Thị Lón (1915-1979)

Búng Lao, Tuần Giáo, Điện Biên

Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994

1994

Lò Thị Lón

 

189.

Cà Thị Mấng (1914-2010)

Quài Nưa, Tuần Giáo, Điện Biên

Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 630/QĐ-CTN ngày 25/5/2006 của Chủ tịch nước

2006

Cà Thị Mấng

 

190.

Lò Thị Pánh (1915-2011)

Phù Yên, Sơn La, thường trú: bản Phượng, Thanh Yên, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 630/QĐ-CTN ngày 25/5/2006 của Chủ tịch nước

2006

Lò Thị Pánh

 

191.

Sùng Thị PLây (1894-1955)

Pú Nhung, Tuần Giáo, Điện Biên

Một con đẻ, chồng, bản thân là liệt sỹ, Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994

1994

Sùng Thị

PLây

 

192.

Cà Thị Sy (1920-1989)

Mường Pồn, Điện Biên

Có một con duy nhất là liệt sĩ, Quyết định số 394/CTN ngày 17/12/1994

1994

Cà Thị Sy

 

Tổng cộng: 352 tên (Mục I: 13 tên + Mục II: 32 tên + Mục III: 68 tên +Mục IV: 47 tên + Mục V: 192 tên)