Nghị quyết 231/NQ-HĐND năm 2019 về kết quả giám sát công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2017 đến nay
Số hiệu: | 231/NQ-HĐND | Loại văn bản: | Nghị quyết |
Nơi ban hành: | Tỉnh Quảng Ninh | Người ký: | Nguyễn Xuân Ký |
Ngày ban hành: | 07/12/2019 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Trật tự an toàn xã hội, Y tế - dược, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 231/NQ-HĐND |
Quảng Ninh, ngày 07 tháng 12 năm 2019 |
NGHỊ QUYẾT
VỀ KẾT QUẢ GIÁM SÁT CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TỪ NĂM 2017 ĐẾN NAY
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
KHÓA XIII - KỲ HỌP THỨ 15
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015;
Sau khi xem xét Báo cáo số 04/BC-HĐND ngày 02/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về “Kết quả giám sát công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh từ năm 2017 đến nay” và ý kiến thảo luận thống nhất của các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh tán thành nội dung Báo cáo kết quả giám sát công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh từ năm 2017 đến nay và nhấn mạnh một số vấn đề sau đây:
1. Trong những năm qua, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành chức năng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các chính sách, pháp luật về công tác đảm bảo an toàn thực phẩm; trong đó có nhũng văn bản chỉ đạo mang tính chiến lược xuyên suốt trong cả giai đoạn; đồng thời Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành các nghị quyết về quy hoạch trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, phát triển thương mại và ban hành một số cơ chế chính sách đặc thù nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhờ đó, đến nay đã hình thành được các vùng trồng trọt tập trung; một số mô hình sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đã được hình thành, làm cơ sở để nhân rộng, phát triển chuỗi giá trị trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thực phẩm an toàn. Vai trò của các ngành tham mưu cho Ban chỉ đạo các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc đề xuất nhiều giải pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn thực phẩm có nhiều đổi mới với nhiều hình thức, nội dung phong phú, thiết thực. Từ năm 2017 đến nay, toàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tập thể lớn (trên 30 người), không có người tử vong do ngộ độc thực phẩm, dịch bệnh truyền qua thực phẩm cơ bản được kiểm soát. Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, quy định về trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính quyền địa phương, đến nay từ Ủy ban nhân dân tỉnh đến 14 huyện, thị xã, thành phố và 186/186 xã, phường, thị trấn đã bố trí Chủ tịch Ủy ban nhân dân trực tiếp làm Trưởng Ban chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm. Ban chỉ đạo liên ngành các cấp đã cơ bản quan tâm kiện toàn thành viên, xây dựng Quy chế hoạt động và phân công rõ trách nhiệm đến từng thành viên. Hoạt động thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm tiếp tục được tăng cường, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành chức năng và các lực lượng của ngành Công an, Quản lý thị trường, Bộ đội Biên phòng, Hải quan và Ủy ban nhân dân các địa phương. Từ 2017 đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện 4.644 cuộc thanh tra, kiểm tra, trong đó có 1.280 cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất tại gần 2.000 cơ sở; số tiền xử phạt trên 14,7 tỷ đồng. Cùng với việc xử phạt hành chính, các cơ quan chức năng đã kiên quyết xử lý tiêu hủy gần 25.000 tấn thực phẩm không đảm bảo an toàn thực phẩm.
2. Bên cạnh những kết quả đạt được còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới, đó là:
- Việc xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện quản lý an toàn thực phẩm ở cấp tỉnh đã cơ bản thường xuyên, kịp thời, tuy nhiên phần lớn các địa phương cấp huyện chưa ban hành được các văn bản mang tính chiến lược, xuyên suốt cho cả giai đoạn. Hoạt động của một số Ban chỉ đạo liên ngành cấp huyện, cấp xã chưa thực sự hiệu quả, còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, chưa quan tâm đến việc kiểm điểm, đánh giá định kỳ và có giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn, bất cập phát sinh.
- Công tác thông tin tuyên truyền về an toàn thực phẩm mặc dù đã được thực hiện thường xuyên, bằng nhiều biện pháp và hình thức, tập trung nhiều vào các dịp cao điểm, tháng hành động vì an toàn thực phẩm nhưng vẫn chưa chuyển tải sâu rộng đến doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, chế biến và người dân. Hiệu quả của đường dây nóng về an toàn thực phẩm chưa cao: Ngành Y tế mỗi năm chỉ có từ 05- 06 cuộc gọi phản ánh thông tin, ngành Nông nghiệp và ngành Công Thương từ ngày công bố số điện thoại đường dây nóng chưa tiếp nhận được cuộc gọi phản ánh nào.
- Việc lấy mẫu phục vụ đánh giá, kiểm soát nguy cơ gây mất an toàn thực phẩm và làm căn cứ để xử lý vi phạm còn mức độ, chưa sát với đòi hỏi của thực trạng an toàn thực phẩm.
- Công tác thanh tra, kiểm tra mặc dù đã được tăng cường, tuy nhiên số cuộc thanh kiểm tra đột xuất còn mức độ và chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh; hình thức xử phạt của các cơ quan quản lý nhà nước còn chủ yếu tập trung vào nhắc nhở, nhất là ở cấp xã, chưa xử lý nghiêm đối với các cơ sở vi phạm để đảm bảo tính răn đe cũng như chưa tạo được động lực khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn. Công tác hậu kiểm còn có việc mang tính hình thức, chưa thường xuyên, kịp thời.
- Công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực còn có mặt hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra, cụ thể: Trong lĩnh vực nông nghiệp: (1) Tỷ lệ cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm còn cao; (2) Một số dự án đầu tư vùng trồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, được hưởng chính sách hỗ trợ của tỉnh nhưng trên thực tế hiệu quả của dự án sau đầu tư chưa cao; (3) Tình trạng lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thuốc kích thích trong trồng trọt còn xảy ra ở nhiều nơi, kể cả những nơi sản xuất theo tiêu chuẩn rau sạch, rau an toàn; (4) Việc quản lý, giám sát an toàn thực phẩm ở các cơ sở giết mổ tập trung còn hạn chế, còn tồn tại 841 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ thuộc cấp huyện quản lý, các cơ sở này không được kiểm tra vệ sinh thú y, không được kiểm soát giết mổ về an toàn thực phẩm; (5) Quản lý an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thuộc chương trình OCOP có việc chưa được chú trọng. Trong lĩnh vực công thương: (1) Tỷ lệ cấp phép rượu thủ công còn rất thấp; (2) Công tác thẩm định trước khi cấp phép có lúc còn chưa chặt chẽ, chưa đảm bảo quy định; công tác hậu kiểm còn hạn chế dẫn đến nhiều cơ sở còn vi phạm trong quá trình sản xuất, kinh doanh; (3) Công tác quản lý các cơ sở kinh doanh rượu, thuốc lá, bánh kẹo ngoại không rõ nguồn gốc, xuất xứ còn chưa chặt chẽ, nhiều mặt hàng được bày bán công khai nhưng các đơn vị chức năng chưa có biện pháp xử lý mạnh, triệt để; (4) Công tác quản lý an toàn thực phẩm tại các chợ còn khó khăn, bất cập, liên quan đến nhiều cơ quan quản lý, còn thiếu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương; (5) Công tác kiểm soát nguồn gốc thực phẩm còn chưa chặt chẽ, thực phẩm được đưa đến từ nhiều nguồn khác nhau ở trong và ngoài địa bàn tỉnh (nhất là từ Trung Quốc sang) nên việc kiểm soát an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ thực phẩm vẫn tồn tại nhiều khó khăn. Trong lĩnh vực y tế: (1) Công tác quản lý các bếp ăn trong các nhà hàng, khách sạn, bếp ăn khu công nghiệp, bếp ăn trường học, các đơn vị cung cấp xuất ăn cho học sinh trường học và bếp ăn trên tàu du lịch còn có nhiều mặt hạn chế, khó khăn, bất cập; (2) Quản lý thức ăn đường phố, các loại đồ ăn nhanh, trà sữa... chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, phần lớn đều có vi phạm về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn thực phẩm cao.
- Các cơ sở thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được phân cấp quản lý còn tồn tại khá nhiều hạn chế, nhất là việc quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ còn lỏng lẻo, thiếu kiểm tra, giám sát thường xuyên, khi phát hiện vi phạm chưa xử lý triệt để, còn nể nang; hoạt động của Ban chỉ đạo ở một số đơn vị cấp huyện và phần lớn cấp xã còn nặng về hình thức, chưa chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm được phân công.
- Việc triển khai thực hiện các quy hoạch theo nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về quy hoạch trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, phát triển thương mại còn hạn chế, nhiều nội dung chương trình, dự án đề ra nhưng đến nay chưa được triển khai thực hiện.
- Về tình hình ngộ độc thực phẩm: Mặc dù, thời gian qua, toàn tỉnh không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm tập thể lớn (trên 30 người), không có người tử vong do ngộ độc thực phẩm tuy nhiên còn tiềm ẩn nguy cơ cao dẫn đến ngộ độc an toàn thực phẩm.
Điều 2. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế đã nêu trong báo cáo kết quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền trong thực hiện công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, Hội đồng nhân dân tỉnh giao Ủy ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện một số nội dung chủ yếu sau đây:
1. Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
- Chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, các ngành chức năng trong công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt nghiên cứu xây dựng Đề án đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh với những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mang tính đồng bộ, quyết liệt và lộ trình hợp lý để thực hiện hiệu Chiến lược quốc gia An toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn 2030 nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, rõ nét công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
- Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành các cấp về an toàn thực phẩm, phân rõ trách nhiệm, xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các ngành nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý, đặc biệt là trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương trong công tác đảm bảo an toàn thực phẩm; đưa chỉ tiêu bảo đảm an toàn thực phẩm vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, của các cấp, các ngành và coi đây là chỉ tiêu cần được ưu tiên thực hiện và kiểm điểm, đánh giá định kỳ.
- Chỉ đạo rà soát, đánh giá hệ thống các văn bản hiện hành của tỉnh liên quan đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo về an toàn thực phẩm, trên cơ sở đó đề xuất điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tiễn và các quy định pháp luật. Trong đó, cần sớm sơ kết, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TU, ngày 20/01/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trong tình hình mới; đồng thời, tập trung rà soát, đánh giá tình hình thực hiện một số quy hoạch liên quan đến vấn đề đảm bảo an toàn thực phẩm, nhằm góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
- Chỉ đạo hoàn thiện hệ thống quản lý về an toàn thực phẩm theo hướng kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm định chất lượng thực phẩm của các phòng kiểm nghiệm đã được đầu tư đạt chuẩn TCVN ISO/IEC, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Về lâu dài nghiên cứu, xem xét thành lập Ban Quản lý an toàn thực phẩm trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có chức năng, nhiệm vụ tương đương cấp sở trên cơ sở sử dụng nhân lực tại chỗ của 03 ngành Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương để không làm tăng biên chế, sử dụng hiệu quả nguồn lực và trang thiết bị hiện có để đủ tầm, đủ lực đảm đương vai trò, nhiệm vụ.
- Tăng cường quản lý chất lượng thực phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo hướng áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn quản lý; phấn đấu đến năm 2030, 100% cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm đạt điều kiện an toàn thực phẩm. Kiểm soát chặt chẽ nguồn thực phẩm sản xuất tại chỗ, nguồn thực phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, tỉnh ngoài vào địa bàn tỉnh. Quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm phải được thực hiện một cách chủ động, có hiệu quả dựa trên các bằng chứng và thực hiện kiểm soát theo chuỗi.
- Chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp để cải thiện rõ rệt tình trạng bảo đảm an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, đặc biệt tại các cơ sở giáo dục, các doanh nghiệp có tổ chức bữa ăn ca, các nhà hàng khách sạn, các chủ đầu mối, kiên quyết không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể lớn; không để xảy ra tử vong do ngộ độc thực phẩm. Phấn đấu đến hết năm 2021, 100% các địa phương xây dựng được cơ sở giết mổ tập trung phù hợp với điều kiện thực tiễn và cơ bản xóa bỏ các cơ sở giết mổ nhỏ lẻ trong khu dân cư trên địa bàn. Phát triển các sản phẩm OCOP bền vững cả về kinh tế, xã hội, môi trường; phấn đấu 100% các sản phẩm OCOP phải đảm bảo các quy định về an toàn thực phẩm.
2. Về công tác tuyên truyền, phối hợp hoạt động
- Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục truyền thông, đặc biệt là tuyên truyền làm thay đổi hành vi trong sản xuất, chế biến, kinh doanh, sử dụng thực phẩm. Tăng cường cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan có liên quan và chính quyền địa phương đảm bảo chặt chẽ hơn; tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động đường dây nóng của các cơ quan quản lý từ cấp tỉnh đến cấp xã để tiếp nhận phản ánh của nhân dân về các hành vi vi phạm.
- Tăng cường tập huấn nâng cao kiến thức và thực hành về an toàn thực phẩm cho các nhóm đối tượng gồm: người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm; người quản lý; người tiêu dùng... đảm bảo thiết thực, hiệu quả.
3. Về bố trí nguồn lực
- Quan tâm bố trí ngân sách nhà nước và tiếp tục duy trì sử dụng 100% nguồn kinh phí xử phạt hành chính để đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm từ cấp tỉnh đến cấp xã; chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị, phương tiện làm việc, dụng cụ để kiểm tra, kiểm soát thực phẩm cho các ngành chức năng, các đơn vị cấp huyện, cấp xã nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ về quản lý an toàn thực phẩm trong giai đoạn hiện nay.
- Thực hiện tốt các cơ chế, chính sách hiện có của Trung ương, của tỉnh liên quan đến đảm bảo an toàn thực phẩm, đồng thời tiếp tục nghiên cứu trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù, cần thiết để góp phần đẩy mạnh việc đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm.
4. Về công tác thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm
Chỉ đạo các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, hậu kiểm về an toàn thực phẩm, đặc biệt ở cấp huyện, cấp xã và xử lý nghiêm các vi phạm, kiên quyết không để các cơ sở không đủ điều kiện theo quy định hoạt động; chỉ đạo các lực lượng Công an, Hải quan, Biên phòng, Quản lý thị trường nắm bắt phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý và hỗ trợ các cơ quan quản lý xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, nhất là kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm theo quy định của Bộ luật Hình sự.
5. Về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực
- Đối với lĩnh vực nông nghiệp: (1) Kiểm tra, rà soát lại các khu giết mổ tập trung theo quy hoạch để khắc phục những tồn tại hạn chế, xây dựng tiêu chí giết mổ đảm bảo các điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm; đối với những cơ sở giết mổ không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm kiên quyết không cho hưởng hỗ trợ chi phí giết mổ theo Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh; có giải pháp quản lý và lộ trình cụ thể để dẹp bỏ các cơ sở chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ trong khu dân cư; chỉ đạo các địa phương nghiên cứu bố trí phù hợp quỹ đất theo quy hoạch để xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung đảm bảo tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm; (2) Kiểm soát chặt chẽ an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản trước khi đưa ra thị trường; (3) Thúc đẩy phát triển các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, phát triển sản xuất hàng hóa nông sản chất lượng cao, hướng tới giảm dần tỷ trọng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để quản lý thực phẩm theo chuỗi, nhất là đối với các loại ngũ cốc, rau, củ, quả, các sản phẩm từ thịt.
- Đối với lĩnh vực công thương: (1) Rà soát, đánh giá hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh, xây dựng mô hình chợ an toàn thực phẩm; ban hành các quy định và phân cấp quản lý đảm bảo an toàn thực phẩm, nguồn gốc xuất xứ đối với sản phẩm được đưa vào kinh doanh trong chợ; trang bị thiết bị kiểm tra nhanh về an toàn thực phẩm cho các ban quản lý chợ; nghiên cứu, xem xét đầu tư và kêu gọi đầu. tư xây dựng một số chợ đầu mối theo quy hoạch đã được phê duyệt đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia để đáp ứng nhu cầu của xã hội và quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn; kiên quyết xóa bỏ và ngăn chặn việc phát sinh các loại chợ tạm, chợ cóc không đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; (2) Tăng cường kiểm soát thực phẩm nhập lậu, đặc biệt là ở các địa bàn biên giới; kiểm soát chặt chẽ an toàn thực phẩm tại các siêu thị, cửa hàng tiện ích, các cơ sở kinh doanh rượu, bánh kẹo, thuốc lá, hoa quả nhập ngoại... kịp thời phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả việc kinh doanh thực phẩm giả, thực phẩm nhập lậu không rõ nguồn gốc để xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định; (3) Có giải pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy phép đối với các cơ sở sản xuất rượu thủ công theo quy định.
- Đối với lĩnh vực y tế: (1) Xây dựng, phát triển các mô hình điểm bảo đảm an toàn thực phẩm bếp ăn tập thể, bếp ăn trường học, nhà hàng khách sạn để nhân rộng. Trước mắt, rà soát tổng thể các bếp ăn tập thể trong các khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, các bếp ăn khu lán trại, công trường, bếp ăn trên tàu du lịch... để đánh giá và có giải pháp đảm bảo điều kiện an toàn thực phẩm; (2) Chỉ đạo các nhà trường, các đơn vị cung cấp xuất ăn cho trường học kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc thực phẩm và các khâu: chế biến, bảo quản, vận chuyển thực phẩm; tuân thủ quy trình giao - nhận, kiểm thực ba bước, lưu mẫu thức ăn; (3) Siết chặt quản lý việc sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm chức năng, xử lý nghiêm các cơ sở kinh doanh thực phẩm chức năng không rõ nguồn gốc xuất xứ; (4) Đẩy mạnh việc điều tra, phân tích, giám sát nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm; xây dựng cơ sở dữ liệu về quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn toàn tỉnh.
6. Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền địa phương, cơ sở và các cơ quan đơn vị liên quan; tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra đột xuất để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm về an toàn thực phẩm thuộc phạm vi quản lý; tích cực triển khai các giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn; tập trung xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm an toàn: mô hình tuyến phố ẩm thực an toàn thực phẩm; mô hình xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí an toàn thực phẩm, đưa nội dung đảm bảo an toàn thực phẩm là một tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới, khu dân cư văn hóa, bổ sung vào tiêu chí công nhận là gia đình văn hóa đối với các hộ sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm cấp huyện, cấp xã trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn.
Điều 3. Hội đồng nhân dân tỉnh giao:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết.
2. Thường trực, các ban, các tổ và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh khoá XIII, Kỳ họp thứ 15 thông qua ngày 07 tháng 12 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày thông qua./.
|
CHỦ TỊCH |
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2020 về tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống dịch COVID-19 trong tình hình mới Ban hành: 11/03/2020 | Cập nhật: 12/03/2020
Nghị quyết 194/2019/NQ-HĐND sửa đổi Điều 1 Nghị quyết 158/2019/NQ-HĐND sửa đổi Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 83/2017/NQ-HĐND về kế hoạch đầu tư công trung hạn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016-2020 và chủ trương đầu tư một số dự án Ban hành: 06/12/2019 | Cập nhật: 20/12/2019
Nghị quyết 194/2019/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ xóa bỏ các lò vôi thủ công trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020 Ban hành: 16/10/2019 | Cập nhật: 09/11/2019
Nghị quyết 194/2019/NQ-HĐND về chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh Ban hành: 30/07/2019 | Cập nhật: 13/08/2019
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2019 về phát triển bền vững Ban hành: 20/05/2019 | Cập nhật: 21/05/2019
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2018 về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 Ban hành: 24/05/2018 | Cập nhật: 25/05/2018
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2017 về tăng cường sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thầu dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn nhà nước Ban hành: 04/04/2017 | Cập nhật: 05/04/2017
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2016 về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Ban hành: 09/05/2016 | Cập nhật: 10/05/2016
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2015 về tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách thủ tục hành chính Ban hành: 10/06/2015 | Cập nhật: 12/06/2015
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2014 đẩy nhanh thực hiện giải pháp và giải quyết thủ tục hỗ trợ, giúp đỡ doanh nghiệp bị thiệt hại tại một số địa phương Ban hành: 01/06/2014 | Cập nhật: 02/06/2014
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2013 xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2014 Ban hành: 25/06/2013 | Cập nhật: 27/06/2013
Chỉ thị 13/CT-TTg năm 2012 thực hiện Chiến lược Phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 Ban hành: 18/05/2012 | Cập nhật: 22/05/2012