Nghị quyết 14/2008/NQ-HĐND điều chỉnh Nghị quyết 7e/2002/NQ-HĐND, Nghị quyết 65/2005/NQ-HĐND về Giải phóng mặt bằng để xây dựng tuyến đường giao thông theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Số hiệu: 14/2008/NQ-HĐND Loại văn bản: Nghị quyết
Nơi ban hành: Tỉnh Quảng Trị Người ký: Nguyễn Viết Nên
Ngày ban hành: 24/07/2008 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Đất đai, Giao thông, vận tải, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG TRỊ

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số:14/2008/NQ-HĐND

Đông Hà, ngày 24 tháng 07 năm 2008

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC BỔ SUNG, ĐIỀU CHỈNH NGHỊ QUYẾT SỐ 7E/2002/NQ-HĐND NGÀY 31/01/2002 VÀ NGHỊ QUYẾT SỐ 65/2005/NQ-HĐND NGÀY 15/12/2005 CỦA HĐND TỈNH VỀ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG ĐỂ XÂY DỰNG CÁC TUYẾN ĐƯỜNG GIAO THÔNG THEO PHƯƠNG CHÂM "NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN CÙNG LÀM"

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ KHÓA V, KỲ HỌP THỨ 13

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Căn cứ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải quyết khiếu nại về đất đai;

Căn cứ Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế tổ chức huy động quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, thị trấn;

Trên cơ sở Đề án của UBND tỉnh kèm theo Tờ trình số l669/TTr-UBND ngày 07 tháng 7 năm 2008 về Bổ sung, điều chỉnh Nghị quyết số 7e/2002/NQ-HĐND ngày 31/01/2002 và Nghị quyết số 6.5/2005/NQ-HĐND ngày 15 tháng 12 năm 2005 của HĐND tỉnh về Giải phóng mặt bằng để xây dựng các tuyến đường giao thông theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm"; Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế- Ngân sách và ý kiến của đại biểu HĐND tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thông qua Đề án Bổ sung, điều chỉnh Nghị quyết số 7e/2002/NQ-HĐND ngày 31/01/2002 và Nghị quyết số 6.5/2005/NQ-HĐND ngày 15/12/2005 của HĐND tỉnh về Giải phóng mặt bằng để xây dựng các tuyến đường giao thông theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm" với các nội dung chủ yếu sau:

1. Đối tượng điều chỉnh

Tất cả các đối tượng có đất và tài sản trên đất bị ảnh hưởng khi giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án xây dựng các tuyến đường giao thông.

2. Phạm vi điều chỉnh

Áp dụng để giải phóng mặt bằng xây dựng các tuyến đường giao thông theo Chương trình kiên cố hóa giao thông tỉnh Quảng Trị với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" giai đoạn 2002- 2015 được HĐND tỉnh khóa IV, kỳ họp thứ 7 thông qua tại Nghị quyết 7e/2002/NQ-HĐND ngày 31/01/2002.

Các dự án xây dựng vỉa hè đường phố theo chương trình "Nhà nước và nhân dân cùng làm" được vận dụng thực hiện theo quy định của Nghị quyết này.

3. Điều kiện để thực hiện

- Tất cả các dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Đề án có 100% số đối tượng bị ảnh hưởng thống nhất theo phương án giải phóng mặt bằng của Đề án này thì sẽ được triển khai thực hiện.

4. Phương án đóng góp, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

4.1. Về đất

- Đối với thị xã, thị trấn:

Khi xây dựng đường giao thông đối tượng bị ảnh hưởng về đất đóng góp với mức tối đa là 3.000.000 đồng giá trị thiệt hại của đất hợp pháp bị thu hồi. Phần còn lại nếu đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ thiệt hại thì bồi thường, hỗ trợ cho các đối tượng.

- Đối với vùng nông thôn:

Các đối tượng bị ảnh hưởng về đất khi xây dựng đường giao thông đóng góp với mức tối đa là 1.500.000 đồng giá trị thiệt hại của đất hợp pháp bị thu hồi. Phần còn lại nếu đủ điều kiện thì được bồi thường, hỗ trợ thiệt hại theo quy định.

Các đối tượng ở góc đường giao nhau mà không trực tiếp hưởng lợi từ đường thuộc dự án thì mức đóng góp bằng 50% mức tối đa quy định nêu trên.

4.2. Về tài sản trên đất

a) Đối với nhà ở và vật kiến trúc được xây dựng bằng gạch, bê tông xi măng mà bị ảnh hưởng thì được bồi thường, hỗ trợ bằng 100% giá trị hiện hành;

b) Đối với nhà ở bị cắt xén nhưng không ảnh hưởng nhiều đến công năng sử dụng thì được thực hiện việc cắt xén và hỗ trợ cải tạo lại mặt tiền đối với tất cả các loại nhà được xây dựng bằng bê tông xi măng.

- Mức được bồi thường và hỗ trợ cho nhà bị cắt xén như sau:

+ Bồi thường bằng mức 100% giá trị hiện hành của phần phải cắt xén;

+ Hỗ trợ chi phí cải tạo lại mặt tiền: Bằng 50% đơn giá của cấp nhà bị cắt xén.

Diện tích hỗ trợ cải tạo mặt tiền: Bằng diện tích mặt cắt đứng của ngôi nhà theo vệt giải tỏa.

c) Vật kiến trúc khác: Không bồi thường, hỗ trợ, đối tượng bị ảnh hưởng tự di chuyển;

d) Hệ thống điện sinh hoạt, hệ thống điện thoại, hệ thống nước máy bị ảnh hưởng: Được hỗ trợ chi phí nhân công di dời và vật tư hao hụt khi di chuyển;

e) Giếng nước sinh hoạt, mồ mã: Được bồi thường, hỗ trợ di chuyển bằng 100% giá trị hiện hành;

g) Cây cối hoa màu bị ảnh hưởng:

- Các loại cây công nghiệp, cây ăn quả dài ngày: Được bồi thường, hỗ trợ bằng mức 100% giá trị hiện hành;

- Các loại cây khác và hoa màu: Không bồi thường, hỗ trợ và được tính vào giá trị đóng góp của các đối tượng;

h) Các đối tượng ở địa bàn các xã thuộc chương trình 134 và 135 giai đoạn II: Được hỗ trợ 100% toàn bộ giá trị tài sản hợp pháp bị thiệt hại.

4.3. Các khoản hỗ trợ khác: Giữ nguyên như Nghị quyết 6.5/2005/NQ-HĐND ngày 15/12/2005 của HĐND tỉnh khóa V.

Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày được thông qua; các quy định trước đây trái với nội dung quy định của Nghị quyết này đều bị bãi bỏ.

Điều 3. HĐND tỉnh giao trách nhiệm cho UBND tỉnh hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết này.

Thường trực HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh, đại biểu HĐND tỉnh có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Nghị quyết.

Nghị quyết này đã được HĐND tỉnh khóa V, kỳ họp thứ 13 thông qua ngày 24 tháng 7 năm 2008./.

 

 

CHỦ TỊCH




Nguyễn Viết Nên