Hiệp định Thương mại tự do giữa một bên là Việt Nam và bên kia là Liên minh Kinh tế Á – Âu và các quốc gia thành viên
Số hiệu: Khongso Loại văn bản: Điều ước quốc tế
Nơi ban hành: Chính phủ các nước, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Người ký: ***
Ngày ban hành: 29/05/2015 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Ngoại giao, điều ước quốc tế, Thương mại, đầu tư, chứng khoán, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HIỆP ĐỊNH

THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA MỘT BÊN LÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ BÊN KIA LÀ LIÊN MINH KINH TẾ Á-ÂU VÀ CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN

 

PHẦN MỞ ĐẦU

Một Bên là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (dưới đây gọi là Việt Nam) và Bên kia là các nước Cộng hòa Ác-men-ni-a, Cộng hòa Bê-la- rút, Cộng hòa Ka-dắc-xtan, Cộng hòa Cư-rơ-gư-xtan, Liên bang Nga và Liên minh kinh tế Á-Âu (dưới đây gọi là “Các quốc gia thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu” và Liên minh Kinh tế Á - Âu:

NHẬN THỨC tầm quan trọng của việc nâng cao tình hữu nghị lâu đời, bền vững và sự hợp tác truyền thống về nhiều mặt giữa hai Bên;

MONG MUỐN tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và đa dạng hóa thương mại giữa hai Bên, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác về kinh tế và thương mại trong các lĩnh vực đem lại lợi ích chung trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, không phân biệt đối xử và phù hợp với luật pháp quốc tế;

KHẲNG ĐỊNH LẠI các quyền và nghĩa vụ tương ứng của hai Bên theo Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới và các hiệp định quốc tế khác mà hiện tại hai Bên đang là thành viên;

NHẬN THỨC sự cần thiết phải duy trì các nguyên tắc và thực tiễn để thúc đẩy tự do và không cản trở thương mại một cách ổn định, minh bạch và không phân biệt đối xử;

TIN TƯỞNG RẰNG Hiệp định này sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế của hai Bên trên thị trường toàn cầu và tạo điều kiện khuyến khích các quan hệ về kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai Bên;

NHẬN THỨC được tầm quan trọng của việc tạo thuận lợi thương mại trong việc thiết lập các thủ tục hiệu quả và minh bạch nhằm giảm chi phí và đảm bảo khả năng có thể dự đoán trước;

NHẤN MẠNH sự bổ sung của các nền kinh tế giữa hai Bên và tiềm năng to lớn để thúc đẩy các mối quan hệ về kinh tế bằng cách phát triển hơn khuôn khổ về thương mại và đầu tư;

NHẬN THỨC vai trò và sự đóng góp quan trọng của đầu tư trong việc tăng cường thương mại và hợp tác giữa các Bên và sự cần thiết phải thúc đẩy, tạo điều kiện hợp tác hơn nữa và các cơ hội kinh doanh lớn hơn được tạo ra bởi Hiệp định này;

KHẲNG ĐỊNH LẠI tầm quan trọng của các sáng kiến hợp tác kinh tế đang được thực hiện giữa hai Bên và đồng ý để phát triển hơn nữa mối quan hệ đối tác kinh tế hiện tại trên các lĩnh vực mà cả hai Bên cùng quan tâm;

MONG MUỐN loại trừ các rào cản về thương mại và đầu tư giữa hai Bên, giảm các chi phí kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế; và

TIN TƯỞNG RẰNG những nỗ lực chung giữa hai Bên để hướng tới một hiệp định thương mại tự do tiên tiến sẽ phát triển một khung khổ cho việc thúc đẩy và phát triển các quan hệ thương mại và kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên Liên minh kinh tế Á-Âu trong lợi ích chung và vì lợi ích chung của các nước;

ĐÃ NHẤT TRÍ như sau:

Chương 1

CÁC ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 1.1. Các điều khoản chung và Định nghĩa

Trong phạm vi của Hiệp định này, trừ khi được quy định khác:

a) “cơ quan hải quan trung ương” nghĩa là cơ quan hải quan có thẩm quyền cao nhất của Việt Nam hoặc mỗi Quốc gia Thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu có chức năng thực hiện các chính sách liên quan của Chính phủ, các quy định, kiểm tra và giám sát trong lĩnh vực hải quan, phù hợp với các luật và quy định trong nước tương ứng;

b) “các cơ quan hải quan” nghĩa là các cơ quan hải quan của Việt Nam hoặc của các Quốc gia Thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu;

c) “thuế quan” nghĩa là bất kỳ loại hình thuế quan hoặc bất kỳ khoản phí nào được áp dụng với việc nhập khẩu hàng hóa, nhưng không bao gồm:

i. phí tương đương với thuế nội địa được áp dụng theo các quy định của Điều III.2 của GATT 1994;

ii. phí hoặc bất cứ khoản lệ phí nào khác liên quan đến việc nhập khẩu tương ứng với chi phí dịch vụ phải trả; và

iii. thuế áp dụng phù hợp với Chương 3 (Phòng vệ Thương mại) của Hiệp định này;

d) “ngày” nghĩa là ngày dương lịch, bao gồm cả các ngày cuối tuần và các ngày nghỉ lễ;

e) “người kê khai” nghĩa là người kê khai hàng hóa cho các thủ tục hải quan hoặc đại diện của người có hàng hóa được kê khai;

f) “Ủy ban Kinh tế Á-Âu” nghĩa là cơ quan quản lý thường trực của Ủy ban Kinh tế Á-Âu theo Hiệp định Liên minh Kinh tế Á-Âu ngày 29 tháng 5 năm 2014 (sau đây gọi tắt là “Hiệp định EAEU”);

g) “GATS” nghĩa là Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ, tại Phụ lục 1B của Hiệp định WTO;

h) “GATT 1994” nghĩa là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 và các ghi chú, tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO;

i) “hàng hóa” nghĩa là bất kỳ vật phẩm, sản phẩm, nguyên liệu, hoặc vật liệu nào;

j) “Hệ thống Hài hóa” hoặc “HS” nghĩa là Hệ thống Mô tả và Mã số

Hàng hóa hài hòa được nêu trong Công ước Quốc tế về Hệ thống Mô tả và Mã số Hàng hóa hài hòa, được thông qua vào ngày 14 tháng 6 năm 1983 và được các Bên thực hiện theo các luật và quy định tương ứng;

k) “các luật và quy định” bao gồm bất kỳ luật hoặc bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào khác;

l) “biện pháp” nghĩa là bất kỳ biện pháp nào được một Bên thi hành, dù dưới hình thức luật, quy định, quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động hành chính, thực tiễn hoặc bất kỳ hình thức nào khác;

m) “có xuất xứ” nghĩa là đáp ứng quy định về xuất xứ tại Chương 4 (Quy tắc xuất xứ) của Hiệp định này;

n) “Các Bên” nghĩa là Việt Nam, một bên, và các Quốc gia Thành viên của Liên minh Kinh tế Á – Âu) hành động tập thể hoặc riêng rẻ trong phạm vi thẩm quyền tương ứng được trao bởi Hiệp định EAEU, là một Bên và, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi tắt là “Việt Nam”), là một Bên;

o) “người” nghĩa là bao gồm cả thể nhân và pháp nhân;

p) “Hiệp định SCM” nghĩa là Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng, tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO;

q) “Hiệp định SPS” nghĩa là Hiệp định về Áp dụng các Biện pháp Vệ Sinh Dịch tễ, tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO;

r) “Hiệp định TBT” nghĩa là Hiệp định về các Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại, tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO;

s) “Hiệp định TRIPS” nghĩa là Hiệp định về các Khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ, tại Phụ lục 1C của Hiệp định WTO;

t) “WTO” nghĩa là Tổ chức Thương mại Thế giới được thành lập phù hợp với Hiệp định WTO;

u) “Hiệp định WTO” nghĩa là Hiệp định Marrakesh về Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới, hoàn thành ngày 15 tháng 4 năm 1994.

Điều 1.2. Thành lập Khu vực Thương mại Tự do

Phù hợp với Điều XXIV của GATT 1994Điều V của GATS, các Bên bằng Hiệp định này thiết lập một Khu vực Thương mại Tự do.

Điều 1.3. Mục tiêu

Các mục tiêu của Hiệp định này là:

a) nhằm đạt được sự tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại hàng hóa giữa các Bên thông qua, nhưng không hạn chế ở, việc cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan và đơn giản hóa thủ tục hải quan;

b) nhằm đạt được sự tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại dịch vụ giữa các Bên;

c) tạo thuận lợi, thúc đẩy và tăng cường cơ hội đầu tư giữa các Bên thông qua việc phát triển hơn nữa môi trường đầu tư thuận lợi;

d) hỗ trợ hợp tác thương mại và kinh tế giữa các Bên;

e) bảo hộ đầy đủ và hiệu quả sở hữu trí tuệ và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này;

f) thiết lập một khuôn khổ nhằm tăng cường hợp tác hơn nữa trong các lĩnh vực đã được thỏa thuận trong Hiệp định này và tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa các Bên.

Điều 1.4. Ủy ban Hỗn hợp

Các Bên trong Hiệp định này thành lập một Ủy ban Hỗn hợp bao gồm đại diện của mỗi Bên, và được đồng chủ tọa bởi hai đại diện – một đại diện từ phía Việt Nam và một đại diện từ phía Liên minh Kinh tế Á - Âu hoặc một Quốc gia Thành viên của Liên minh Kinh tế Á- Â. Các Bên sẽ được đại diện bởi các quan chức cấp cao được chỉ định để tham gia vào Ủy ban Hỗn hợp.

Điều 1.5. Chức năng của Ủy ban Hỗn hợp

1. Ủy ban Hỗn hợp có những chức năng sau:

a) xem xét các vấn đề liên quan đến việc thực thi và triển khai Hiệp định này;

b) giám sát công việc của tất cả các ủy ban và các cơ quan khác được thành lập theo Hiệp định này;

c) xem xét các cách thức để tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa các Bên;

d) xem xét và đề xuất sửa đổi Hiệp định này với các Bên; và

e) thực hiện các công việc khác ở những vấn đề có liên quan trong phạm vi của Hiệp định này được các Bên có thể thống nhất

2. Uỷ ban Hỗn hợp có thể thành lập các cơ quan trực thuộc, bao gồm các cơ quan được thành lập theo yêu cầu nhất thời, và gán với các nhiệm vụ về các vấn đề cụ thể. Ủy ban Hỗn hợp có thể, nếu cần thiết, quyết định tìm kiếm sự tư vấn của các thể nhân và pháp nhân thứ ba.

3. Trừ khi các Bên có ý kiến khác, Ủy ban Hỗn hợp sẽ tổ chức:

a) phiên họp thường kỳ hàng năm, các cuộc họp sẽ được tổ chức luân phiên tại lãnh thổ của mỗi Bên; và

b) phiên họp đặc biệt được tổ chức trong vòng 30 ngày kể từ khi có đề nghị của một Bên, phiên họp như vậy sẽ được tổ chức tại lãnh thổ của Bên kia hoặc tại địa điểm do các Bên nhất trí.

4. Ủy ban Hỗn hợp sẽ họp trong vòng 30 ngày kể từ ngày một Bên đưa ra thông báo theo Điều 15.3 của Hiệp định này để thảo luận về ý nghĩa hành động đó đối với các Bên và đối với bất kỳ thỏa thuận nào trong Hiệp định này.

5. Mọi quyết định của Ủy ban Hỗn hợp, các ủy ban và các cơ quan khác được thành lập theo Hiệp định này sẽ được thông qua dựa trên sự đồng thuận

Điều 1.6. Dự án đầu tư ưu tiên

1. Các dự án đầu tư ưu tiên phải được sự chấp thuận bởi một bên là Chính phủ Việt Nam và bên kia là Chính phủ của các quốc gia thành viên Liên minh Kinh tế Á-Âu.

2. Mặc dù có quy định khác của Hiệp định này và kết quả của tham vấn của các Bên nhằm hỗ trợ các dự án ưu tiên đầu tư, các Bên sẽ được cung cấp các ưu đãi bổ sung. Quyết định này được thực hiện bởi các cơ quan chức năng có liên quan của các Bên, trong thẩm quyền của họ.

Điều 1.7. Đầu mối liên lạc

1. Mỗi Bên sẽ chỉ định một đầu mối liên lạc để tạo điều kiện thông tin liên lạc giữa các Bên về bất kỳ vấn đề nào trong Hiệp định này và phải thông báo cho Uỷ ban Hỗn hợp các đầu mối liên lạc của mình.

2. Theo yêu cầu của một Bên, đầu mối liên lạc của Bên kia phải nêu rõ cơ quan hoặc nhân viên chịu trách nhiệm đối với vấn đề này và hỗ trợ cần thiết cho Bên yêu cầu.

Điều 1.8. Thông tin mật

1. Mỗi Bên sẽ, phù hợp với luật và quy định của mình, duy trì tính bảo mật đối với các thông tin mật do Bên kia cung cấp theo Hiệp định này.

2. Không có quy định nào của Hiệp định này được hiểu là yêu cầu một Bên cung cấp thông tin mật mà việc tiết lộ thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến việc thực  thi luật hoặc đi ngược lại lợi ích của cộng đồng hoặc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp công và tư.

Điều 1.9. Ngoại lệ chung và Ngoại lệ an ninh

1. Điều 20 của Hiệp định GATT 1994Điều 14 của GATS sẽ được dẫn chiếu và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi cần thiết.

2. Điều 21 của Hiệp định GATT 1994Điều 14 bis của GATS sẽ được dẫn chiếu và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi cần thiết.

3. Ủy ban Hỗn hợp sẽ thông báo tới mức tối đa về các biện pháp được tiến hành theo đoạn 2 của Điều này và việc ngưng áp dụng các biện pháp đó .

Điều 1.10. Hàng hóa và dịch vụ sử dụng kép

Các Bên công nhận chủ quyền của Việt Nam và các quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu để điều chỉnh thương mại vê các hàng hóa và dịch vụ sử dụng kép theo nghĩa vụ quốc tế cũng như các luật kiểm soát xuất khẩu và quy định tương ứng của họ.

Điều 1.11. Cán cân thanh toán/Những biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán

Điều XII của Hiệp định GATT 1994 và cách hiểu đối với các điều khoản về Cán cân thanh toán của GATT 1994 sẽ được dẫn chiếu và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi cần thiết.

Điều 1.12. Mối quan hệ với các Hiệp định Quốc tế khác

1. Hiệp định này sẽ được áp dụng mà không làm phương hại đến các quyền và nghĩa vụ của các Bên phát sinh từ các thỏa thuận song phương và đa phương mà các Bên là thành viên, bao gồm Hiệp định WTO và các nghĩa vụ và cam kết WTO tương ứng của các Bên.

2. Không làm ảnh hưởng đến điều Khoản 4.7 của Hiệp định này, các điệu khoản của Hiệp định này sẽ không áp dụng giữa các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu hoặc giữa các quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế Á- Âu và Liên minh Kinh tế Á-Âu, cũng như không cho Việt Nam các quyền và đặc quyền mà các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu dành riêng cho nhau.

Điều 1.13. Minh bạch hóa

1. Mỗi Bên sẽ đảm bảo rằng, phù hợp với các luật và quy định trong nước của mình, luật và quy định mang tính áp dụng chung tương ứng với các thỏa thuận quốc tế với bất kỳ vấn đề nào được quy định trong Hiệp định này, sẽ ngay lập tức được đăng tải hoặc công bố công khai theo những cách khác, bao gồm có thể dưới hình thức thư điện tử

2. Trong chừng mực có thể, phù hợp với các luật và quy định trong nước của mình, mỗi Bên sẽ:

a) công bố trước các các luật và quy định trong nước nêu tại đoạn 1 của Điều này mà Bên đó dự kiến ban hành;và

b) tạo cơ hội hợp lý để các cá nhân có quan tâm và Bên kia đóng góp ý kiến đối với các luật và quy định được nêu ở đoạn 1 của Điều này mà Bên đó đề xuất thông qua.

3. Khi một Bên có yêu cầu, Bên kia sẽ ngày lập tức trả lời câu hỏi và cung cấp thông tin liên quan về các luật và quy định được nêu ở đoạn 1 của Điều này.

Chương 2

THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA

Điều 2.1. Đối xử Tối huệ quốc

1. Đối với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào được áp dụng hay có liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu hoặc được áp dụng đối với việc chuyển tiền quốc tế để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, đối với phương thức đánh thuế và các khoản thu nêu trên, đối với tất cả quy định, thủ tục liên quan đến nhập khẩu và xuất khẩu và đối với tất cả các vấn đề nêu tại Khoản 2 và Khoản 4 của Điều III của Hiệp định GATT 1994, bất kỳ lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay miễn trừ được bất kỳ Bên nào dành cho hàng hóa có xuất xứ từ hay được giao tới một nước thứ ba sẽ được dành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hóa tương tự đến từ hay được giao tới Bên kia.

2. Không một quy định nào tại Khoản 1 của Điều này buộc một Bên phải dành cho Bên kia các lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay miễn trừ trên cơ sở tối huệ quốc mà Bên đó dành cho bất kỳ một nước thứ ba đáp ứng các tiêu chí sau:

a) dành cho các nước láng giềng nhằm mục đích tạo thuận lợi cho giao thông biên giới;

b) dành cho các nước tham gia một liên minh hải quan, khu vực thương mại tự do hoặc các tổ chức kinh tế khu vực, hoặc bất kỳ hiệp định thương mại khu vực khác như được định nghĩa tại Điều XXIV của Hiệp định GATT 1994;

c) dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển theo quy định của GATT 1994, Hệ thống ưu đãi phổ cập trong khuôn khổ UNCTAD hoặc các luật lệ và quy định liên quan của các Bên.

Điều 2.2. Đối xử quốc gia

Điều III của Hiệp định GATT 1994 và các chú giải của Điều này sẽ trở thành một phần của Hiệp định này, với sự điều chỉnh phù hợp.

Điều 2.3. Cắt giảm và/hoặc Xóa bỏ thuế quan

1. Trừ phi được quy định khác trong Hiệp định này, mỗi Bên sẽ dần cắt giảm và/hoặc xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa có xuất xứ của Bên kia theo lộ trình cam kết thuế của mình tại Phụ lục 1 của Hiệp định này và sẽ không tăng thuế hoặc đưa ra một loại thuế mới dẫn tới kết quả là thuế suất đối với hàng hóa có xuất xứ của Bên kia vượt mức cam kết trong lộ trình cam kết thuế của mình tại Phụ lục 1 của Hiệp định này.

2. Một Bên, vào bất kỳ thời điểm nào, có thể đơn phương đẩy nhanh việc cắt giảm và/hoặc xóa bỏ thuế quan trong lộ trình cam kết thuế của mình tại Phụ lục 1 của Hiệp định này đối với hàng hóa có xuất xứ của Bên kia. Quy định này sẽ không ngăn cản một Bên tăng thuế lên mức đã xác định trong lộ trình cam kết thuế của mình tại Phụ lục 1 của Hiệp định này đối với năm tương ứng sau khi đã đơn phương đẩy nhanh cắt giảm. Bên cân nhắc thực hiện việc tăng, giảm và/hoặc xóa bỏ thuế quan này sẽ thông báo cho Bên kia sớm nhất có thể trước khi mức thuế quan mới có hiệu lực.

3. Các Bên có thể xem xét đẩy nhanh việc cắt giảm và/hoặc xóa bỏ thuế quan trong lộ trình cam kết thuế của mình tại Phụ lục 1 của Hiệp định này bằng cách sửa đổi Hiệp định phù hợp với Điều 15.5 của Hiệp định này.

4. Nếu mức thuế quan đối với hàng hóa có xuất xứ mà một Bên áp dụng theo Phụ lục 1 của Hiệp định này cao hơn mức thuế tối huệ quốc áp dụng đối với cùng loại hàng hóa, hàng hóa đó có thể được hưởng mức thuế suất thứ hai.

Điều 2.4. Thay đổi mã HS và Mô tả

1. Mỗi Bên sẽ đảm bảo rằng bất kỳ thay đổi về mã HS và mô tả của mình sẽ được thực hiện mà không làm giảm nhân nhượng về thuế quan đã cam kết theo Phụ lục 1 của Hiệp định này.

2. Những thay đổi về mã HS và mô tả của Việt Nam và thay đổi về mã HS và mô tả của Liên minh sẽ do Việt Nam và Ủy ban Kinh tế Á-Âu, tương ứng, thực hiện. Các Bên sẽ công bố kịp thời bất kỳ thay đổi về mã HS và mô tả và thông báo cho bên kia hàng quý.

Điều 2.5. Phí, lệ phí và các thủ tục liên quan đến Nhập khẩu và Xuất khẩu

1. Điều VIII của GATT 1994 và các chú giải của điều này sẽ trở thành một phần của Hiệp định này, với những thay đổi phù hợp.

2. Mỗi Bên sẽ đảm bảo các cơ quan liên quan công bố các thông tin liên quan đến phí và lệ phí mà Bên đó áp dụng trên trang web chính thức.

Điều 2.6. Quản lý các quy tắc thương mại

Mỗi Bên sẽ quản lý một cách đồng bộ, công bằng và hợp lý tất cả các luật, quy tắc, quyết định pháp luật và quy tắc hành chính có hiệu lực chung liên quan đến thương mại hàng hóa giữa các Bên phù hợp với Điều X của GATT 1994.

Điều 2.7. Trợ cấp

1. Quyền và nghĩa vụ của các Bên đối với các khoản trợ cấp cho hàng hóa không thuộc phạm vi của Hiệp định Nông nghiệp trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO sẽ được điều chỉnh bởi các quy định của Điều XVI của Hiệp định GATT 1994, Hiệp định SCM và các nghĩa vụ và cam kết WTO liên quan của mỗi Bên.

2. Các Bên chia sẻ mục tiêu đạt được một thỏa thuận đa phương về xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông nghiệp.

3. Quyền và nghĩa vụ của các Bên đối với các khoản trợ cấp cho hàng nông nghiệp được giao tới Bên kia sẽ được điều chỉnh bởi các nghĩa vụ và cam kết WTO liên quan của mỗi Bên.

4. Mỗi Bên sẽ đảm bảo minh bạch đối với các trợ cấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều này. Theo yêu cầu của một Bên, Bên kia, trong một khoảng thời gian hợp lý, sẽ cung cấp thông báo về một trợ cấp riêng biệt do Bên đó áp dụng hoặc duy trì như định nghĩa trong Hiệp định SCM. Thông báo này sẽ bao gồm các thông tin quy định tại Điều 25.3 của Hiệp định SCM.

Điều 2.8. Cấp phép nhập khẩu

1. Mỗi Bên phải đảm bảo rằng các thủ tục cấp phép nhập khẩu được định nghĩa tại Điều 1 đến Điều 3 của Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu trong Phụ lục 1A của Hiệp định WTO (sau đây được gọi là “Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu”) được thực hiện một cách minh bạch và có thể dự đoán được, và được áp dụng theo Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu.

2. Mỗi Bên sẽ công bố các nguyên tắc và thông tin liên quan đến thủ tục cấp phép của mình một cách nhất quán với Điều 1.4 của Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu. Một Bên, khi áp dụng thủ tục cấp phép mới hoặc thay đổi các thủ tục này, sẽ thông báo cho Bên kia các thủ tục cấp phép hoặc các thay đổi đó trong vòng 60 ngày kể từ khi công bố. Thông báo này sẽ bao gồm các thông tin như quy định tại Điều 5.2 và 5.3 của Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu. Các thông tin này sẽ được cung cấp thông qua đầu mối mà mỗi Bên phân công thực hiện việc này.

Điều 2.9.  Hạn chế định lượng

1. Không Bên nào được thông qua hoặc duy trì hạn chế định lượng, kể cả việc cấm hoặc hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ Bên kia hoặc xuất khẩu hàng hóa đến lãnh thổ của Bên kia, ngoại trừ theo nghĩa vụ và cam kết WTO của Bên đó. Theo tinh thần đó, Điều XI và XIII của Hiệp định GATT 1994 và các chú giải của Điều này sẽ được bổ sung và trở thành một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi phù hợp.

2. Mỗi Bên sẽ đảm bảo minh bạch đối với bất kỳ hạn chế định lượng được phép duy trì theo đoạn 1 của Điều này và sẽ đảm bảo biện pháp đó được dự thảo, ban hành hoặc áp dụng không nhằm mục đích, hoặc có tác động, tạo ra các rào cản không cần thiết đối với thương mại giữa các Bên.

Điều 2.10. Các biện pháp phòng vệ theo ngưỡng

1. Liên minh Kinh tế Á Âu có thể áp dụng một biện pháp phòng vệ theo ngưỡng đối với một số mặt hàng có xuất xứ của Việt Nam được liệt kê trong Phụ lục 2 của Hiệp định này và được nhập khẩu vào trong lãnh thổ của các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á Âu nếu số lượng nhập khẩu trong bất kỳ năm nào vượt quá mức ngưỡng tương ứng của năm đó được quy định trong Phụ lục 2 của Hiệp định này.

2. Biện pháp phòng vệ theo ngưỡng sẽ được áp dụng theo hình thức các mặt hàng liên quan bị áp thuế quan tương đương với thuế suất tối huệ quốc bắt đầu từ ngày biện pháp phòng vệ theo ngưỡng có hiệu lực.

3. Biện pháp phòng vệ theo ngưỡng sẽ được áp dụng trong một khỏang thời gian không quá sáu tháng.

4. Ngoài những trường hợp quy định tại Mục 3 Điều khoản này, nếu số lượng nhập khẩu vượt quá 150% mức ngưỡng theo quy định vào ngày áp dụng biện pháp phòng vệ theo ngưỡng, thời gian áp dụng biện pháp này có thể được kéo dài thêm ba tháng.

5. Ủy ban Kinh tế Á - Âu sẽ công bố dữ liệu về khối lượng nhập khẩu liên quan có thể sẵn sàng truy cập được cho Việt Nam. Nếu những Điều nêu tại Mục 1 của Điều này xảy ra, Ủy ban Kinh tế Á - Âu sẽ ngay lập tức thông báo bằng văn bản về việc đó. Ủy ban Kinh tế Á - Âu cũng sẽ thông báo bằng văn bản tối thiểu 20 ngày trước khi quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ theo ngưỡng, và 3 ngày sau khi ra quyết định áp dụng, với điều kiện quyết định này có hiệu lực không trước 30 ngày kể từ ngày quyết định được đưa ra và không làm ảnh hưởng đến quyền áp dụng biện pháp này của Liên minh Kinh tế Á Âu. Nếu Liên minh Kinh tế Á Âu quyết định không áp dụng biện pháp phòng vệ theo ngưỡng, Liên minh sẽ thông báo bằng văn bản kịp thời cho Việt Nam về quyết định của mình.

6. Theo yêu cầu của một trong hai Bên, Bên kia sẽ tham gia kịp thời vào việc tham vấn và/hoặc cung cấp thông tin được yêu cầu với mục đích chứng minh các điều kiện tuân thủ và áp dụng biện pháp phòng vệ theo ngưỡng theo quy định từ Mục 1 đến Mục 4 của Điều Khoản này.

7. Mỗi ba năm sau ngày Hiệp định có hiệu lực, các Bên sẽ rà soát lại việc thực thi Điều Khoản này và, nếu cần thiết, cùng quyết định sửa đổi Điều Khoản này cũng như Phụ lục 2 của Hiệp định này, phù hợp với Điều Khoản 15.5 của Hiệp định.

Điều 2.11. Doanh nghiệp thương mại nhà nước

Mỗi Bên sẽ đảm bảo các doanh nghiệp thương mại nhà nước của mình hoạt động phù hợp với Điều XVII của GATT 1994 và các nghĩa vụ và cam kết WTO của Bên đó.

Điều 2.12. Ủy ban về Thương mại hàng hóa

1. Các Bên theo quy định trong Hiệp định này thành lập một Ủy ban về Thương mại Hàng hóa((sau đây được gọi là “Ủy ban Hàng hoá”), gồm đại diện của mỗi Bên.

2. Ủy ban Hàng hóa sẽ gặp theo yêu cầu của một Bên để xem xét bất kỳ vấn đề nào phát sinh trong Chương này và trong các Chương (Phòng vệ thương mại, Quy tắc xuất xứ, Hải quan và Thuận lợi hóa thương mại, SPS, TBT)

3. Ủy ban Hàng hóa sẽ có các chức năng sau:

a) Rà soát và giám sát việc triển khai và thực hiện các Chương như được đề cập tại đoạn 2 của Điều này;

b) Rà soát và đưa ra các đề xuất phù hợp, nếu cần, lên Ủy ban Hỗn hợp đối với bất kỳ sửa đổi nào của các Điều Khoản trong Chương này và các biểu cam kết thuế quan tại Phụ lục 1 của Hiệp định này nhằm mục đích thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường;

c) Xác định và đề xuất các biện pháp nhằm xử lý bất kỳ vấn đề nào phát sinh;

d) Báo cáo các vấn đề phát sinh từ việc triển khai Chương này lên Ủy ban Hỗn hợp.

Chương 3

PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

Điều. 3.1. Các biện pháp đối kháng

1. Các Bên cần phải áp dụng các biện pháp đối kháng tuân thủ các Điều Khoản quy định tại Điều VI và Điều XVI của Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định SCM.

2. Trong trường hợp Việt Nam tiến hành điều tra và áp dụng biện pháp đối kháng, các Thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu phải được điều tra riêng rẽ chứ không phải với tư cách là cả Liên minh trừ khi Việt Nam xác định được rằng có tồn tại các chương trình trợ cấp được quy định tại Điều XVI của GATT và Hiệp định SCM do Liên minh Kinh tế Á-Âu cấp cho tất cả các Thành viên của Liên minh này.

Điều. 3.2. Các biện pháp chống bán phá giá

1. Các Bên cần phải áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tuân thủ các điều Khoản quy định tại Điều VI của GATT 1994 và Hiệp định về Thực thi Điều VI của GATT 1994, được nêu tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.

2. Trong trường hợp Việt Nam tiến hành điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá, các Thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu phải được xem là từng thành viên riêng rẽ chứ không phải với tư cách khối Liên minh Kinh tế Á Âu trừ khi cả hai Bên có thỏa thuận khác.

Điều 3.3. Các biện pháp tự vệ toàn cầu

Các Bên cần phải áp dụng các biện pháp tự vệ toàn cầu tuân thủ các Điều Khoản quy định tại Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định về các biện pháp tự vệ, được nêu tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.

Điều 3.4. Các biện pháp tự vệ song phương

1. Trong trường hợp do kết quả của việc cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan theo cam kết của Hiệp định này, bất kỳ hàng hóa có xuất xứ từ một Bên được nhập khẩu vào lãnh thổ của Bên còn lại có sự gia tăng tương đối hoặc tuyệt đối về lượng so với sản xuất nội địa của Bên nhập khẩu và sự gia tăng đó là nguyên nhân dẫn tới thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của Bên nhập khẩu, Bên nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương trong giai đoạn chuyển đổi đối với hàng hóa đó với mức độ cần thiết nhằm khắc phục hoặc ngăn chặn thiệt hại dựa trên các quy định tại Điều Khoản này.

2. Các biện pháp tự vệ song phương chỉ có thể được áp dụng khi có bằng chứng rõ ràng để chứng minh rằng sự gia tăng nhập khẩu là nguyên nhân chính gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng.

3. Khi một Bên có ý định áp dụng biện pháp tự vệ song phương theo quy định của điều này cần phải nhanh chóng thông báo cho Bên kia và Ủy ban Hỗn hợp, trong mọi trường hợp thì việc thông báo này phải được thực hiện trước khi áp dụng biện pháp tự vệ song phương. Thông báo phải bao gồm đầy đủ các thông tin cần thiết, cụ thể gồm: các bằng chứng chứng minh thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại do sự gia tăng nhập khẩu; mô tả chính xác hàng hóa thuộc đối tượng bị điều tra; đề xuất biện pháp áp dụng và đề xuất thời điểm áp dụng biện pháp, thời hạn áp dụng biện pháp cũng như lộ trình cho việc xóa bỏ dần biện pháp.

4. Bên chịu ảnh hưởng bởi biện pháp tự vệ song phương sẽ được Bên áp dụng biện pháp tự vệ song phương bồi thường dưới hình thức tự do hóa thương mại tương đương đáng kể đối với hàng hóa nhập khẩu từ Bên bị tác động. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông báo biện pháp được nêu tại đoạn 3 của Điều này, Bên áp dụng biện pháp tự vệ phải xem xét các thông tin được cung cấp để thúc đẩy nhanh chóng một giải pháp hợp lý cho vấn đề này. Trong trường hợp không đạt được giải pháp nào, Bên nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương để khắc phục thiệt hại gây ra do sự gia tăng nhập khẩu; và trong trường hợp không đạt được thỏa thuận về vấn đề bồi thường, Bên chịu tác động của việc áp dụng biện pháp tự vệ song phương có thể áp dụng biện pháp trả đũa. Cả biện pháp tự vệ song phương cũng như biện pháp trả đũa phải được thông báo ngay lập tức cho các Bên liên quan. Biện pháp trả đũa có thể bao gồm việc đình chỉ thực thi các cam kết tương đương với tác động về mặt thương mại mà bên bị áp dụng phải chịu và/hoặc đình chỉ thực hiện các cam kết tương đương với trị giá khỏan thuế nhập khẩu của biện pháp tự vệ song phương. Biện pháp trả đũa chỉ được áp dụng trong khỏang thời gian cần thiết tối thiểu để đạt được mục tiêu nêu trên và chỉ được áp dụng khi biện pháp tự vệ song phương được quy định tại đoạn 5 của Điều này được áp dụng.

5. Nếu thỏa mãn các điều kiện được quy định tại đoạn 1 của Điều này, Bên nhập khẩu có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương dưới hình thức:

a) đình chỉ cắt giảm thuế nhập khẩu đang có hiệu lực theo quy định trong Hiệp định này đối với hàng hóa nhập khẩu bị điều tra; hoặc

b) tăng mức thuế nhập khẩu đang có hiệu lực đối với hàng hóa nhập khẩu bị điều tra với một mức độ cần thiết nhưng không được vượt quá mức thuế cơ bản được nêu trong Phụ lục 1 của Hiệp định này.

Các Bên có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương theo một trong các khoảng thời gian như sau:

a) Đối với hàng hóa có mức thuế nhập khẩu đạt đến mức cắt giảm thuế cuối cùng (final reduction rate) trong vòng 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, một Bên có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương đối với hàng hóa đó trong khỏang thời gian tối đa là 2 năm. Một Bên không được tái áp dụng biện pháp tự vệ song phương trong vòng một năm kể từ ngày hết hạn biện pháp tự vệ song phương. Bất kỳ biện pháp tự vệ song phương nào cũng không được áp dụng quá hai lần đối với cùng một loại hàng hóa.

b) Đối với hàng hóa có mức thuế nhập khẩu đạt đến mức cắt giảm thuế cuối cùng (final reduction rate) sau 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, một Bên có thể áp dụng biện pháp tự vệ song phương đối với hàng hóa đó trong khoảng thời gian tối đa là 2 năm. Thời gian áp dụng biện pháp tự vệ song phương có thể được gia hạn tối đa thêm 01 năm nếu có đầy đủ bằng chứng rằng việc gia hạn là cần thiết để ngăn cản hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng và ngành sản xuất trong nước nhập khẩu đang trong quá trình điều chỉnh. Một Bên không được tái áp dụng biện pháp tự vệ song phương trong khỏang thời gian bằng thời gian áp dụng biện pháp ban đầu. Bất kỳ biện pháp tự vệ song phương nào cũng không được áp dụng quá hai lần đối với cùng một loại hàng hóa.

6. Khi kết thúc việc áp dụng biện pháp tự vệ song phương, mức thuế suất nhập khẩu sẽ là mức thuế đang có hiệu lực tại thời điểm chấm dứt biện pháp.

7. Các Bên không được áp dụng đồng thời đối với cùng một hàng hóa:

a) biện pháp tự vệ song phương; và

b) biện pháp theo quy định Điều XIX của GATT và Hiệp định Tự vệ, tại Phụ lục 1A của Hiệp định WTO.

8. Ngành sản xuất trong nước được nêu trong đoạn 1 của Điều này được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp hoạt động trên lãnh thổ của một Bên hoặc tập hợp các nhà sản xuất mà tổng lượng sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp chiếm tỷ lệ đa số và chiếm trên 25% tổng sản lượng toàn ngành sản xuất trong nước của hàng hóa đó.

9. Giai đoạn chuyển đổi của hàng hóa là đối tượng của biện pháp tự vệ song phương nêu tại đoạn 1 của Điều này là:

a) Khoảng thời gian kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực cho đến 07 năm sau ngày hoàn thành việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế đối với nhóm hàng hóa có lộ trình cắt giảm đến mức thuế cuối cùng trong vòng 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực;

b) Khoảng thời gian kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực cho đến 05 năm sau ngày hoàn thành việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế đối với nhóm hàng hóa có lộ trình cắt giảm đến mức thuế cuối cùng trong hoặc sau 03 năm nhưng chỉ đến 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực

c) Khoảng thời gian kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực cho đến 03 năm sau ngày hoàn thành việc xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế đối với nhóm hàng hóa có lộ trình cắt giảm đến mức thuế cuối cùng sau 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực

Điều 3.5. Thông báo

1. Tất cả các trao đổi chính thức và các tài liệu được trao đổi giữa các Bên liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi của Chương này phải được thực hiện giữa các cơ quan có liên quan có thẩm quyền pháp lý khởi xướng và tiến hành cuộc điều tra theo quy định của Chương này (sau đây được gọi là “cơ quan điều tra”). Trong trường hợp Việt Nam dự định áp dụng một biện pháp được quy định trong Chương này, Bên kia có thể chỉ định một cơ quan có thẩm quyền khác và thông báo cho Việt Nam về việc chỉ định này.

2. Các Bên phải trao đổi thông tin về tên, thông tin liên hệ của các cơ quan điều tra trong vòng 30 ngày kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực. Các Bên phải nhanh chóng thông báo cho bên kia bất kỳ sự thay đổi nào liên quan đến cơ quan điều tra.

3. Bên nào có dự định áp dụng biện pháp tự vệ toàn cầu phải ngay lập tức cung cấp cho Bên kia một bản thông báo bằng văn bản có đầy đủ các thông tin về việc khởi xướng điều tra, kết luận sơ bộ cũng như kết luận cuối cùng của vụ việc

Chương 4

QUY TẮC XUẤT XỨ

PHẦN I. QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 4.1. Phạm vi

Quy tắc xuất xứ trong Chương này sẽ chỉ được áp dụng cho mục đích hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này.

Điều 4.2. Định nghĩa

Theo mục đích của Chương này

a) Nuôi trồng thủy sản là việc nuôi trồng các sinh vật sống dưới nước bao gồm cá, động vật thân mềm, loài giáp xác, động vật không xương sống dưới nước khác và thực vật thủy sinh từ các loại con giống như trứng, cá hồi hai năm tuổi, cá hồi nhỏ và ấu trùng bằng cách can thiệp vào các quá trình nuôi trồng hoặc tăng trưởng nhằm thúc đẩy sinh sản như nuôi cấy, cho ăn, hoặc bảo vệ khỏi các động vật ăn thịt;

b) Cơ quan được ủy quyền là cơ quan có thẩm quyền được chỉ định bởi một bên để phát hành Giấy chứng nhận xuất xứ trong Hiệp định;

c) Trị giá CIF là trị giá hàng hóa nhập khẩu đã bao gồm cả cước vận tải và phí bảo hiểm tính đến cảng hoặc cửa khẩu của nước nhập khẩu;

d) Lô hàng có nghĩa là các hàng hóa được gửi cùng một thời gian trên một hoặc nhiều chứng từ vận tải từ người xuất khẩu đến người nhận hàng, và hàng hóa được gửi trên cùng một hóa đơn bưu điện hoặc được chuyển bằng hành lý của người qua biên giới.

e) Người xuất khẩu là người thường trú hoặc có trụ sở tại lãnh thổ của một bên, nơi hàng hóa được xuất khẩu bởi chính người đó.

f) Trị giá FOB là trị giá hàng hóa đã giao qua mạn tàu, bao gồm phí vận tải đến cảng hoặc địa điểm cuối cùng trước khi tàu chở hàng rời bến;

g) Người nhập khẩu là người thường trú hoặc có trụ sở tại lãnh thổ của một bên, nơi hàng hóa được nhập khẩu bởi chính người đó.

h) Nguyên vật liệu là bất kỳ vật liệu hay chất liệu nào bao gồm thành phần, nguyên liệu thô, linh kiện, phụ tùng được sử dụng hoặc tiêu tốn trong quá trình sản xuất hàng hóa hoặc được dùng để tạo thành một hàng hóa khác hoặc tham gia vào một quy trình sản xuất ra hàng hóa khác;

i) Hàng hóa không có xuất xứ hoặc nguyên vật liệu không có xuất xứ là hàng hóa hoặc nguyên vật liệu không đáp ứng tiêu chí xuất xứ của chương này.

j) Hàng hóa có xuất xứ hoặc nguyên vật liệu có xuất xứ là hàng hóa hoặc nguyên vật liệu đáp ứng các tiêu chí xuất xứ của chương này.

k) Người sản xuất là người thực hiện việc sản xuất tại lãnh thổ của một bên.

l) Sản xuất là phương thức để thu được hàng hóa bao gồm nuôi trồng, khai thác mỏ, thu hoạch, chăn nuôi, gây giống, chiết xuất, thu nhặt, săn bắt, đánh bắt, săn bắt, sản xuất, gia công hoặc lắp ráp hàng hóa;

m) Cơ quan xác minh là cơ quan chính phủ có thẩm quyền được chỉ định bởi một bên để thực hiện các thủ tục xác minh;

Điều 4.3. Tiêu chí xuất xứ

Theo mục đích của Chương này, hàng hóa sẽ được coi là có xuất xứ tại một Bên nếu:

a) Có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại một bên theo quy định tại Điều 4.4 của Hiệp định này; hoặc

b) Được sản xuất toàn bộ tại một hay hai Bên, từ những nguyên vật liệu có xuất xứ từ một hay hai Bên; hoặc

c) Được sản xuất tại một Bên, sử dụng nguyên vật liệu không có xuất xứ và đáp ứng các yêu cầu về quy tắc mặt hàng cụ thể tại Phụ lục 3 của Hiệp định.

Điều 4.4. Hàng hóa có xuất xứ thuần túy

Theo mục đích của Điều Khoản 4.3 của Hiệp định này, các hàng hóa sau đây sẽ được coi là hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại một bên:

a) Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng, bao gồm quả, hoa, rau cỏ, cây, tảo biển, nấm và các loại cây trồng khác được trồng, thu hoạch hoặc thu lượm trong lãnh thổ của một Bên.

b) Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại lãnh thổ của một Bên. c) Hàng hóa được chế biến từ động vật sống tại lãnh thổ của một Bên.

d) Hàng hóa được thu lượm, săn bắn, săn bắt, đánh bắt, nuôi trồng, nuôi dưỡng, nuôi trồng thủy sản tại lãnh thổ của một Bên.

e) Khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên khác được chiết xuất hoặc lấy ra từ không khí, đất, nước, đáy biển và lòng đất tại lãnh thổ của một bên.

f) Sản phẩm đánh bắt và các sản phẩm biển khác lấy từ bên ngoài vùng biển cả, theo pháp luật quốc tế, bằng tàu được đăng ký hoặc có ghi hồ sơ tại một bên và treo cờ của bên đó;

g) Sản phẩm được sản xuất từ hàng hóa đã nêu tại Khoản f) của Điều Khoản này, trên tàu chế biến được đăng ký hoặc có ghi hồ sơ tại một bên và treo cờ của bên đó;

h) Phế thải và phế liệu thu được từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng tại một lãnh thổ của một bên, với điều kiện hàng hóa đó chỉ phù hợp làm nguyên vật liệu thô.

i) Hàng hóa đã qua sử dụng được thu nhặt tại lãnh thổ của một bên, với điều kiện hàng hóa đó chỉ phù hợp làm nguyên vật liệu thô;

j) Các sản phẩm được sản xuất từ không gian vũ trụ trên một tàu vũ trụ với điều kiện tàu vũ trụ đó được đăng ký tại một bên.

k) Hàng hóa được sản xuất hoặc thu được tại lãnh thổ của một bên từ các hàng hóa được quy định từ Mục a) đến j)

Điều 4.5. Hàm lượng giá trị gia tăng

Theo mục đích của Chương này và quy tắc cụ thể mặt hàng theo Phụ lục 3 của Hiệp định này, công thức để tính hàm lượng giá trị gia tăng (sau đây viết tắt là VAC) sẽ là:

Trị giá FOB – Trị giá nguyên vật liệu không có xuất xứ

x

100%

Trị giá FOB

Trong đó, trị giá của nguyên vật liệu không có xuất xứ sẽ là:

a) Trị giá CIF tại thời điểm nhập khẩu nguyên vật liệu tại một Bên; hoặc

b) Giá mua hoặc có thể trả đầu tiên của nguyên vật liệu không có xuất xứ tại lãnh thổ của một bên nơi diễn ra việc sản xuất hoặc chế biến.

Trong lãnh thổ của một Bên, khi các nhà sản xuất của hàng hóa mua các nguyên vật liệu không có xuất xứ trong một bên đó, trị giá của những nguyên vật liệu đó sẽ không bao gồm phí vận chuyển, bảo hiểm, chi phí đóng gói và các chi phí phát sinh khác cho việc vận chuyển những vật liệu từ địa điểm của các nhà cung cấp đến nơi sản xuất.

Điều 4.6. Công đoạn gia công chế biến đơn giản

1. Các công khoản sau đây được thực hiện độc lập hoặc kết hợp với nhau được coi là không đủ điều kiện để đáp ứng yêu cầu của Điều Khoản 4.3 của Hiệp định này

a) Những công khoản bảo quản để đảm bảo hàng hóa trong điều kiện tốt trong quá trình vận chuyển và lưu kho.

b) Làm đông lạnh và tan băng

c) Đóng gói và đóng gói lại

d) Rửa, lau chùi, tẩy bụi và các chất ô xít, dầu, sơn và các chất tráng, phủ bề mặt khác.

e) Là, ép hàng dệt may.

f) Nhuộm, đánh bóng, đánh véc-ni, bôi dầu.

g) Bóc vỏ một phần hoặc làm tróc toàn bộ, đánh bóng và làm láng ngũ cốc và gạo.

h) Các công khoản để nhuộm đường và tạo đường miếng.

i) Bóc vỏ và tróc đá, vỏ của hoa quả, các loại hạt và rau.

j) Mài sắc, mài giũa đơn giản

k) Cắt

l) Giần, sàng, lựa chọn, phân loại.

m) Đóng vào chai, lon, khuôn, túi, hộp hoặc gắn lên bề mặt và các công khoản đóng gói bao bì đơn giản khác.

n) Dán hoặc in nhãn, mác hoặc lô-gô và các dấu hiệu phân biệt tương tự lên sản phẩm hoặc lên bao bì.

o) Trộn đơn giản các sản phẩm (linh kiện, phụ tùng) mà không dẫn đến sự khác biệt đầy đủ giữa sản phẩm với các linh kiện, phụ tùng ban đầu.

p) Lắp ráp đơn giản sản phẩm hoặc tháo rời sản phẩm thành từng phần.

q) Giết mổ động vật, lựa chọn thịt.

2. Theo mục đích Khoản 1 của Điều Khoản này, “đơn giản” mô tả các hoạt động mà không đòi hỏi các kỹ năng hoặc máy móc, dụng cụ, thiết bị đặc biệt được thiết kế chuyên để thực hiện các hoạt động này.

Điều 4.7. Cộng gộp xuất xứ

Không trái với Điều 4.3 của Hiệp định này, hàng hóa hoặc nguyên vật liệu có xuất xứ tại một Bên, được sử dụng như nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm tại một Bên khác, sẽ được coi là có xuất xứ tại một Bên nơi diễn ra công khoản cuối cùng khác với các công khoản được đề cập đến tại khoản 1 của Điều 4.6 của Hiệp định này. Xuất xứ của những nguyên vật liệu này sẽ được xác nhận bởi Giấy chứng nhận xuất xứ (Mẫu EAV) được phát hành bởi cơ quan được ủy quyền.

Điều 4.8. Tỷ lệ không đáng kể nguyên vật liệu không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi chương

1. Các sản phẩm không trải qua công khỏan chuyển đổi mã số hàng hóa theo phụ lục 3 của Hiệp định này sẽ vẫn được coi là hàng hóa có xuất xứ nếu:

a) Trị giá của tất cả nguyên vật liệu không có xuất xứ được sử dụng để sản xuất hàng hóa không đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi mã số hàng hóa không vượt quá tỷ lệ 10% trị giá FOB của hàng hóa; và

b) Hàng hóa đáp ứng tất cả các điều kiện khác quy định trong Chương này.

2. Trị giá của các nguyên vật liệu theo Điểm a của Khoản 1 Điều này sẽ được tính vào trị giá nguyên vật liệu không có xuất xứ khi tính VAC.

Điều 4.9. Vận chuyển trực tiếp

1. Hàng hóa có xuất xứ sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan theo Chương này với điều kiện hàng hóa đó được vận chuyển trực tiếp từ lãnh thổ của Bên xuất khẩu đến lãnh thổ của Bên nhập khẩu.

2. Không xét đến Khoản 1, hàng hóa có xuất xứ có thể được vận chuyển qua lãnh thổ của một hay nhiều lãnh thổ của nước thứ 3 với điều kiện:

a) Quá cảnh qua lãnh thổ của một Bên không phải thành viên là cần thiết vì lý do địa lý hoặc các yêu cầu về vận tải có liên quan.

b) Hàng hóa không tham gia vào giao dịch thương mại hoặc tiêu thụ tại đó; và

c) Hàng hóa không trải qua các công khoản nào khác ngoài việc dỡ hàng, bốc lại hàng, lưu kho hoặc các công khoản cần thiết khác để bảo quản điều kiện của hàng hóa.

3. Người khai báo phải nộp các chứng từ phù hợp cho cơ quan hải quan của bên nhập khẩu để chứng minh đáp ứng các điều kiện tại Khoản 2 của Điều Khoản này. Các chứng từ được cung cấp cho cơ quan hải quan của bên nhập khẩu bao gồm:

a) Chứng từ vận tải bao gồm các đoạn từ lãnh thổ của một Bên đến lãnh thổ của một Bên khác bao gồm:

i) Mô tả chính xác hàng hóa

ii) Ngày dỡ hàng, bốc hàng lại (nếu các chứng từ vận tải không có thông tin về ngày dỡ hàng, bốc hàng lại, các chứng từ hỗ trợ khác có các thông tin này sẽ được nộp bổ sung với chứng từ vận tải).

iii) Nếu có thể:

- Tên tàu, hoặc các phương thức vận tải khác được sử dụng;

- Số container;

- Điều kiện hàng hóa được lưu giữ tại nước quá cảnh không phải thành viên trong điều kiện phù hợp.

- Dấu của cơ quan hải quan nước quá cảnh.

b) Hóa đơn thương mại của hàng hóa.

4. Người khai báo có thể nộp các chứng từ hỗ trợ khác để chứng minh đáp ứng các yêu cầu của Khoản 2 Điều Khoản này.

5. Trong trường hợp không thể cung cấp chứng từ vận tải, người khai báo phải nộp văn bản được phát hành bởi cơ quan hải quan nước quá cảnh bao gồm tất cả các thông tin theo phần a) của Khoản 3.

6. Hàng hóa sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan nếu người khai báo không cung cấp đầy đủ cho cơ quan hải quan bên nhập khẩu các chứng từ chứng minh vận chuyển trực tiếp.

Điều 4.10. Mua bán trực tiếp

1. Bên nhập khẩu sẽ cho hàng hóa có xuất xứ được hưởng ưu đãi thuế quan trong trường hợp hóa đơn được phát hành bởi người thường trú hoặc có trụ sở tại nước thứ 3, với điều kiện hàng hóa đáp ứng các yêu cầu của chương này.

2. Không xét đến Khoản 1 của Điều Khoản, Bên nhập khẩu sẽ không cho hưởng ưu đãi trong trường hợp hóa đơn được phát hành bởi người thường trú hoặc có trụ sở tại nước, vùng lãnh thổ thứ 3 trong danh sách các quốc đảo theo một Nghị định thư chung. Cơ quan có thẩm quyền của các Bên sẽ được ủy quyền để thông qua Nghị định thư này theo thỏa thuận chung và công bố công khai.

3. Không trái với Khoản 2 của Điều này, trước khi Nghị định thư nêu trên được thông qua, danh sách các quốc đảo theo Phụ lục 4 của Hiệp định sẽ được áp dụng.

Điều 4.11. Vật liệu đóng gói để bán lẻ

1. Vật liệu đóng gói và container trong đó hàng hóa được đóng gói để bán lẻ, nếu được phân loại cùng với hàng hóa đó, sẽ không được tính đến khi xác định các nguyên vật liệu không có xuất xứ được sử dụng để sản xuất hàng hóa có đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi mã số hàng hóa theo Phụ lục 3 của Hiệp định này.

2. Không xét đến Khoản 1 của Điều này khi xác định xuất xứ hàng hóa theo tiêu chí VAC, trị giá của bao bì sử dụng để bán lẻ sẽ được tính là nguyên vật liệu có xuất xứ hoặc nguyên vật liệu không có xuất xứ, tùy theo từng trường hợp, khi tính tỷ lệ VAC của hàng hóa.

Điều 4.12. Vật liệu đóng gói để vận chuyển

Vật liệu đóng gói và container trong trường hợp hàng hóa được đóng gói để vận chuyển sẽ không được tính đến khi xác định xuất xứ của hàng hóa.

Điều 4.13. Phụ kiện, phụ tùng, dụng cụ và tài liệu hướng dẫn hoặc tài liệu mang tính thông tin khác

1. Trường hợp xác định hàng hóa có đáp ứng yêu cầu xuất xứ về chuyển đổi mã số hàng hóa theo Phụ lục 3 của Hiệp định này, các phụ kiện, phụ tùng, dụng cụ và tài liệu hướng dẫn hoặc tài liệu mang tính thông tin khác là một phần của thiết bị thông thường và bao gồm trong giá FOB hoặc không được thanh toán riêng, sẽ được coi là một phần của sản phẩm và không được tính đến khi xác định xuất xứ của hàng hóa.

2. Không xét đến Khoản 1 Điều Khoản này, trường hợp xác định xuất xứ hàng hóa theo tiêu chí VAC, trị giá của các phụ kiện, phụ tùng, dụng cụ và tài liệu hướng dẫn hoặc tài liệu mang tính thông tin khác sẽ được tính là nguyên vật liệu có xuất xứ hoặc nguyên vật liệu không có xuất xứ, tùy theo từng trường hợp, khi tính VAC của hàng hóa.

3. Điều Khoản này chỉ áp dụng khi:

a) Các phụ kiện, phụ tùng, dụng cụ và tài liệu hướng dẫn hoặc tài liệu mang tính thông tin khác đi kèm theo hàng hóa không thanh toán riêng với hàng hóa có xuất xứ; và

b) Số lượng và trị giá của các phụ kiện, phụ tùng, dụng cụ và tài liệu hướng dẫn hoặc tài liệu mang tính thông tin khác đi kèm theo hàng hóa là thông lệ với hàng hóa đó.

Điều 4.14. Bộ hàng hóa

Bộ hàng hóa, được định nghĩa theo Quy tắc chung số 3 giải thích Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, sẽ được coi là có xuất xứ khi tất cả các sản phẩm thành phần đều có xuất xứ. Tuy nhiên, khi một bộ hàng hóa bao gồm cả hàng hóa có xuất xứ và hàng hóa không có xuất xứ, cả bộ hàng hóa này sẽ vẫn được coi là có xuất xứ với điều kiện trị giá của các sản phẩm không có xuất xứ không vượt quá 15% trị giá FOB của bộ hàng hóa.

Điều 4.15. Nguyên vật liệu gián tiếp

Khí xác định xuất xứ của hàng hóa, xuất xứ của các nguyên vật liệu gián tiếp sau sẽ không được tính đến mặc dù có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất và không cấu thành hàng hóa đó:

a) Nhiên liệu và năng lượng

b) Dụng cụ, khuôn rập và khuôn đúc

c) Phụ tùng và nguyên vật liệu dùng để bảo dưỡng thiết bị, nhà xưởng.

d) Dầu nhờn, chất bôi trơn, hợp chất và các nguyên vật liệu khác dùng trong sản xuất hoặc dùng để vận hành thiết bị, nhà xưởng

e) Găng tay, kính, giày dép, quần áo, các thiết bị an toàn

f) Các thiết bị, dụng cụ dùng để kiểm tra hoặc thử nghiệm hàng hóa

g) Chất xúc tác và dung môi; và

h) Bất kỳ hàng hóa nào khác không cấu thành hàng hóa nhưng việc sử dụng chúng phải được chứng minh là một phần trong quá trình sản xuất ra hàng hóa.

PHẦN II. CHỨNG TỪ CHỨNG MINH XUẤT XỨ

Điều 4.16. Hưởng ưu đãi thuế quan

1. Để được hưởng ưu đãi về thuế quan, người khai báo phải nộp Giấy chứng nhận xuất xứ cho Cơ quan hải quan của bên nhập khẩu, theo yêu cầu của Phần này.

2. Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa nộp cho cơ quan Hải quan bên nhập khẩu phải là bản gốc, hợp lệ và phù hợp với thể thức quy định tại Phụ lục 5 của Hiệp định này và phải được điền đầy đủ theo yêu cầu tại phụ lục 5 của Hiệp định.

3. Cơ quan được ủy quyền của bên xuất khẩu phải đảm bảo Giấy chứng nhận xuất xứ được điền đầy đủ theo yêu cầu tại Phụ lục 5 của Hiệp định này.

4. Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa sẽ có hiệu lực trong thời gian 12 tháng kể từ ngày được phát hành và phải được nộp cho cơ quan hải quan bên nhập khẩu trong thời gian này nhưng không chậm hơn thời điểm nộp tờ khai hải quan nhập khẩu, ngoại trừ các trường hợp được nêu tại Khoản 2 của Điều 4.20 của Hiệp định này.

5. Khi cơ quan hải quan trung ương và cơ quan được ủy quyền của các Bên đã xây dựng và áp dụng Hệ thống xác minh và chứng nhận xuất xứ điện tử (sau đây viết tắt là EOCVS), theo Điều 4.29 của Hiệp định này, cơ quan hải quan của bên nhập khẩu theo pháp luật và quy định của từng bên có thể không yêu cầu nộp bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ nếu tờ khai hải quan được nộp qua hình thức điện tử. Trong trường hợp này, ngày và số của Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được ghi trong tờ khai hải quan. Khi cơ quan hải quan bên nhập khẩu có nghi ngờ về xuất xứ hàng hóa đã được hưởng ưu đãi và (hoặc) có sự khác biệt thông tin được xác định trên EOCVS, cơ quan hải quan của bên nhập khẩu có thể yêu cầu nộp Giấy chứng nhận xuất xứ bản giấy.

ĐIỀU 4.17. Trường hợp miễn nộp Giấy chứng nhận xuất xứ

Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ không phải nộp để hưởng ưu đãi thuế quan đối với việc nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ thương mại và phi thương mại nếu trị giá hải quan không quá hai trăm Đô la Mỹ (200USD) hoặc trị giá tiền tệ tương đương của bên nhập khẩu hoặc cao hơn do bên nhập khẩu thiết lập, với điều kiện việc nhập khẩu không phải là một phần của một hay nhiều lô hàng có thể được coi là thực hiện hoặc sắp xếp với mục đích tránh nộp Giấy chứng nhận xuất xứ.

Điều 4.18. Cấp Giấy chứng nhận xuất xứ

1. Người sản xuất, người xuất khẩu hàng hóa hoặc đại diện được ủy quyền của họ sẽ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ tại cơ quan được ủy quyền bằng hình thức văn bản hoặc điện tử nếu áp dụng.

2. Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được cơ quan được ủy quyền cấp cho người sản xuất, người xuất khẩu của bên xuất khẩu hoặc đại diện được ủy quyền của họ trước hoặc tại thời điểm xuất khẩu khi hàng hóa xuất khẩu có thể được coi là có xuất xứ tại một bên theo quy định của Chương này.

3. Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ bao gồm hàng hóa trong một lô hàng.

4. Mỗi Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ có số tham chiếu riêng của cơ quan có thẩm quyền.

5. Nếu tất cả hàng hóa trong Giấy chứng nhận xuất xứ không thể liệt kê trong một mặt giấy, tờ khai bổ sung theo Phụ lục 5 của Hiệp định sẽ được áp dụng.

6. Giấy chứng nhận xuất xứ (Mẫu EAV) sẽ gồm 1 bản chính và 2 bản sao.

7. Một bản sao sẽ được lưu tại cơ quan được ủy quyền của bên xuất khẩu. Bản sao còn lại sẽ được lưu bởi người xuất khẩu.

8. Không trái với Khoản 4 Điều 4.16 của Hiệp định này, trong trường hợp ngoại lệ, nếu Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (Mẫu EAV) không được phát hành trước hoặc tại thời điểm xuất khẩu, Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được cấp sau và phải đánh dấu “ISSUED RETROACTIVELY”.

9. Bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được lưu tại cơ quan hải quan của bên nhập khẩu, ngoại trừ các trường hợp được quy định theo pháp luật và quy định của mỗi Bên.

Điều 4.19. Khác biệt nhỏ

1. Khi không có nghi ngờ về xuất xứ của hàng hóa, các khác biệt nhỏ giữa thông tin trên Giấy chứng nhận xuất xứ và các chứng từ nộp cho cơ quan hải quan của bên nhập khẩu sẽ không làm mất hiệu lực của Giấy chứng nhận xuất xứ, nếu các thông tin trên thực tế tương ứng với hàng hóa được nộp.

2. Trong trường hợp có nhiều hàng hóa được khai trên cùng Giấy chứng nhận xuất xứ, vướng mắc với một trong các hàng hóa được liệt kê sẽ không ảnh hưởng hoặc làm chậm việc hưởng ưu đãi thuế quan của các hàng hóa còn lại trên Giấy chứng nhận xuất xứ.

Điều 4.20. Các trường hợp đặc biệt cấp Giấy chứng nhận xuất xứ

1. Trong trường hợp Giấy chứng nhận xuất xứ bị mất cắp, thất lạc hoặc hư hỏng, người sản xuất, người xuất khẩu hoặc đại diện được ủy quyền của họ có thể đề nghị cấp bản sao chứng thực của bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ tại cơ quan được ủy quyền và nêu rõ lý do. Bản sao sẽ được cấp trên cơ sở Giấy chứng nhận xuất xứ đã cấp và các chứng từ kèm theo. Bản sao chứng thực sẽ ghi rõ cụm từ “DUPPLICATE OF THE CERTIFICATE OF ORIGIN NUMBER __DATE__ ”. Bản sao chứng thực Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ có hiệu lực không quá 12 tháng kể từ ngày phát hành bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ.

2. Nếu do lỗi hoặc sai sót vô tình trên bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ, cơ quan được ủy quyền sẽ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ thay thế cho bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ. Trong trường hợp này, Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ phải ghi rõ cụm từ “ISSUED IN SUBSTITUTION FOR THE CERTIFICATE OF ORIGIN NUMBER  DATE  ”. Giấy chứng nhận xuất xứ cấp thay thế này sẽ có hiệu lực không quá 12 tháng kể từ ngày phát hành bản gốc Giấy chứng nhận xuất xứ.

Điều 4.21. Sửa đổi Giấy chứng nhận xuất xứ

Không được phép tẩy xóa hoặc viết thêm lên Giấy chứng nhận xuất xứ. Mọi sửa đổi phải được thực hiện bằng việc gạch bỏ những chỗ sai và bổ sung những thông tin cần thiết. Những thay đổi này phải được chấp nhận bởi người được ủy quyền ký Giấy chứng nhận xuất xứ và được chứng thực bởi con dấu của cơ quan được ủy quyền thích hợp.

Điều 21. Yêu cầu về lưu trữ hồ sơ

1. Người sản xuất và (hoặc) người xuất khẩu đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ phải LƯU tất cả hồ sơ và bản so chứng từ nộp cho cơ quan được ủy quyền tối thiểu 3 năm kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận xuất xứ.

2. Người nhập khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan phải giữ bản sao Giấy chứng nhận xuất xứ, dựa theo ngày được hưởng ưu đãi thuế quan, trong thời gian tối thiểu 3 năm.

3. Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận xuất xứ và tất cả các chứng từ có liên quan phải được lưu tại cơ quan được ủy quyền tối thiểu 3 năm kể từ ngày cấp.

PHẦN III. HƯỞNG ƯU ĐÃI THUẾ QUAN

Điều 4.23. Hưởng ưu đãi thuế quan

1. Hàng hóa có xuất xứ sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định nếu đáp ứng các quy định của Chương này.

2. Cơ quan Hải quan bên nhập khẩu sẽ cho hưởng ưu đãi thuế quan đối với hàng hóa có xuất xứ của một bên khác với điều kiện:

a) Hàng hóa nhập khẩu đáp ứng tiêu chí xuất xứ theo Điều 4.3 của Hiệp định;

b) Người khai báo chứng minh được việc tuân thủ các quy định của Chương này;

c) Giấy chứng nhận xuất xứ bản gốc còn hiệu lực và được điền đầy đủ theo quy định của Phần II [Chứng từ chứng minh xuất xứ] của Chương này phải được nộp cho cơ quan hải quan của bên nhập khẩu. Giấy chứng nhận xuất xứ có thể không cần phải nộp bản gốc nếu các Bên đã áp dụng EOCVS theo quy định tại Khoản 5 Điều 4.16.

3. Không trái với Khoản 2, khi cơ quan Hải quan bên nhập khẩu có lý do thích đáng về xuất xứ của hàng hóa đề nghị được hưởng ưu đãi và (hoặc) tính chính xác của Giấy chứng nhận xuất xứ được nộp, cơ quan Hải quan bên nhập khẩu có thể từ chối hoặc tạm thời không cho hưởng ưu đãi thuế quan cho hàng hóa đó. Tuy nhiên, hàng hóa có thể được giải phóng theo pháp luật và quy định của từng bên.

Điều 4.24. Từ chối cho hưởng ưu đãi

1. Trong trường hợp hàng hóa không đáp ứng các quy định của Chương này hoặc khi người nhập khẩu hoặc xuất khẩu không tuân thủ các quy định của chương này, cơ quan Hải quan của bên nhập khẩu có thể từ chối cho hưởng ưu đãi và truy thu thuế hải quan theo pháp luật và quy định của từng Bên.

2. Cơ quan Hải quan của bên nhập khẩu có thể từ chối cho hưởng ưu đãi thuế quan nếu:

a) Hàng hóa không đáp ứng các quy định của chương để được coi là có xuất xứ của bên xuất khẩu; và (hoặc)

b) Không đáp ứng các quy định khác của chương, bao gồm:

i. Yêu cầu theo Điều 4.9 của Hiệp định;

ii. Yêu cầu theo Điều 4.10 của Hiệp định;

iii. Nộp Giấy chứng nhận xuất xứ không được khai báo đầy đủ thông tin theo Phụ lục 5 của Hiệp định;

c) Thực hiện các quy trình xác minh theo Điều [Xác minh xuất xứ] và Điều [Xác minh thực tế] không thể xác định được xuất xứ của hàng hóa hoặc thể hiện không thống nhất với tiêu chí xuất xứ.

d) Cơ quan Xác minh của bên xuất khẩu xác nhận rằng Giấy chứng nhận xuất xứ không được cấp (ví dụ: làm giả) hoặc đã bị hủy bỏ (thu hồi);

e) Cơ quan hải quan của nước nhập khẩu không nhận được trả lời trong thời hạn tối đa 6 tháng sau ngày gửi đề nghị xác minh cho cơ quan xác minh của bên xuất khẩu, hoặc nếu nội dung trả lời không đủ thông tin để kết luận hàng hóa có xuất xứ của một bên.

f) Cơ quan Hải quan của bên nhập khẩu trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi thông báo, theo Khoản 2 của Điều 4.31 của Hiệp định này, không nhận được văn bản chấp thuận của cơ quan xác minh, theo Khoản 5 của Điều 4.31 của Hiệp định này, để thực hiện xác minh thực tế hoặc nhận được từ chối thực hiện xác minh thực tế này.

3. Khi bên nhập khẩu xác định qua quy trình xác minh rằng người xuất khẩu hoặc người sản xuất đã tham gia vào việc cung cấp thông tin sai hoặc không đầy đủ để được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, cơ quan Hải quan của bên nhập khẩu có thể từ chối cho hưởng ưu đãi với những hàng hóa giống hết trong Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp cho người sản xuất hoặc người xuất khẩu theo các luật và quy định của từng Bên.

4. Trong trường hợp được quy định tại Điểm b Khoản 2 của Điều này và Khoản 1 của Điều 4.25 của Hiệp định, cơ quan hải quan của bên nhập khẩu không cần phải thực hiện yêu cầu xác minh theo quy định tại Điều 4.30 của Hiệp định, cho cơ quan được ủy quyền để quyết định từ chối cho hưởng ưu đãi.

Điều 4.25. Tạm ngừng ưu đãi thuế quan

1. Khi một Bên xác định

a) Gian lận có tính hệ thống để được hưởng ưu đãi thuế quan trong Hiệp định đối với hàng hóa xuất khẩu hoặc được sản xuất bởi một người của Bên còn lại; hoặc

b) Bên còn lại từ chối không chính đáng và mang tính hệ thống để thực hiện các nghĩa vụ theo Điều 4.30 và 4.31 của Hiệp định, Trong trường hợp ngoại lệ, Bên đó có thể tạm ngừng cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định.

2. Tạm ngừng cho hưởng ưu đãi thuế quan theo Khoản 1 Điều này có thể được áp dụng đối với hàng hóa có liên quan đến:

a) Người mà bên nhập khẩu đã kết luận rằng người đó của bên xuất khẩu đã thực hiện những gian lận mang tính hệ thống để được hưởng ưu đãi của Hiệp định;

b) Người có liên quan đến việc đề nghị xác minh và xác minh thực tế theo Điểm b) Khoản 1 của Điều Khoản này.

3. Khi bên nhập khẩu đã kết luận rằng việc ngừng ưu đãi đã áp dụng theo Điểm a) Khoản 2 của Điều này không có đủ để ngăn chặn gian lận mang tính hệ thống để hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định, bên nhập khẩu có thể tạm ngừng cho hưởng ưu đãi thuế quan đối với hàng hóa giống hệt được phân loại theo dòng thuế tương tự ở cấp độ 8-10 số theo phân loại danh mục hàng hóa của từng bên.

4. Theo mục đích của Điều Khoản này:

a) Việc phát hiện gian lận mang tính hệ thống có thể được đưa ra khi một bên kết luận rằng có người của bên còn lại đã cung cấp một cách có hệ thống thông tin sai hoặc không chính xác để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định theo kết quả của cuộc điều tra dựa trên thông tin khách quan, thuyết phục và có thể xác minh.

b) Từ chối có hệ thống và không chính đáng thực hiện nghĩa vụ theo Điều 4.30 và/hoặc 4.31 của Hiệp định này nghĩa là việc từ chối có hệ thống việc xác  minh xuất xứ và/hoặc xác minh thực tế hàng hóa có liên quan theo đề nghị của một bên hoặc không phản hồi đề nghị xác minh và xác minh thực tế.

c) Hàng hóa giống hệt bao gồm hàng hóa giống nhau về mọi mặt bao gồm tính chất vật lý, chất lượng và danh tiếng.

5. Một Bên khi phát hiện lý do theo Khoản 1 hoặc 3 của Điều này sẽ:

a) Thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Bên còn lại và cung cấp các thông tin và chứng cứ theo lý do đó;

b) Thực hiện tham vấn với bên còn lại để đạt được giải pháp có thể chấp nhận chung.

6. Nếu các cơ quan có thẩm quyền không đạt được giải pháp có thể chấp nhận chung trong vòng 30 ngày kể từ ngày bắt đầu tham vấn theo Điểm b) Khoản 5, bên đưa ra lý do sẽ nêu vấn đề này lên Ủy ban hỗn hợp.

7. Nếu Ủy ban hỗn hợp không giải quyết được vấn đề này trong vòng 60 ngày, bên đưa ra lý do có thể tạm ngừng ưu đãi thuế quan trong Hiệp định theo quy định tại Khoản 2 và 3 của Điều Khoản này. Khi đưa ra quyết định tạm ngừng, bên quyết định sẽ thông báo cho bên còn lại và Ủy ban hỗn hợp. Việc tạm ngừng ưu đãi sẽ không áp dụng đối với các hàng hóa đã được xuất khẩu kể từ ngày việc tạm ngừng ưu đãi có hiệu lực. Ngày của các lô hàng xuất khẩu sẽ là ngày chứng từ vận tải được phát hành.

8. Tạm ngừng cho hưởng ưu đãi theo Hiệp định có thể được áp dụng đến khi bên xuất khẩu cung cấp các chứng từ thuyết phục về khả năng tuân thủ các quy định của chương này và đảm bảo người xuất khẩu, người sản xuất hàng hóa sẽ đáp ứng tất cả các quy định của Chương này, nhưng thời hạn không quá thời gian 4 tháng và có thể được gia hạn tối đa 3 tháng.

9. Mọi quyết định tạm ngừng và gia hạn tạm ngừng theo Điều Khoản này sẽ được tham vấn định kỳ giữa các Bên để giải quyết vấn đề.

PHẦN IV. HỢP TÁC HÀNH CHÍNH

Điều 4.26. Ngôn ngữ hợp tác hành chính

Mọi thông báo hoặc liên hệ theo phần này sẽ được thực hiện giữa các Bên thông qua các cơ quan liên quan bằng ngôn ngữ tiếng Anh.

Điều 4.27. Cơ quan được ủy quyền và Cơ quan Xác minh

Kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, Chính phủ của các Bên sẽ chỉ định và giữ nguyên Cơ quan được ủy quyền và Cơ quan xác minh.

Điều 4.28. Thông báo

1. Trước khi cơ quan được ủy quyền cấp bất kỳ Giấy chứng nhận xuất xứ nào theo Hiệp định, các Bên sẽ cung cấp thông qua Bộ Công Thương của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Ủy ban kinh tế Á Âu tên, địa chỉ của từng cơ quan được ủy quyền và cơ quan xác minh, kèm theo mẫu con dấu chính thức và rõ ràng của các cơ quan này, mẫu Giấy chứng nhận xuất xứ và các đặc điểm bảo mật của Giấy chứng nhận xuất xứ.

2. Việt Nam cung cấp cho Ủy ban Kinh tế Á Âu các thông tin gốc theo Khoản 1 bằng 6 bản. Ủy ban Kinh tế Á Âu có thể đề nghị Việt Nam cung cấp bổ sung của các thông tin này.

3. Việt Nam và Ủy ban kinh tế Á Âu sẽ công khai thông tin về tên và địa chỉ của các cơ quan được ủy quyền và cơ quan xác minh trên Internet của từng bên.

4. Mọi thay đổi về thông tin theo quy định ở trên sẽ được cung cấp trước qua các cơ quan theo Khoản 1 và theo cùng cách thức.

Điều 4. 29. Phát triển và áp dụng Hệ thống Xác minh và chứng nhận xuất xứ điện tử

1. Các bên sẽ nỗ lực để áp dụng EOCVS trong vòng tối đa 2 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

2. Mục tiêu của EOCVS là việc xây dựng cơ sở dữ liệu mạng ghi lại thông tin của tất cả Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp bởi cơ quan được ủy quyền và cơ quan hải quan nước nhập khẩu có thể truy cập và kiểm tra tính hiệu lực và nội dung của bất kỳ Giấy chứng nhận xuất xứ đã được cấp nào.

3. Theo mục đích này, các Bên sẽ thành lập nhóm làm việc để xây dựng và áp dụng EOCVS.

Điều 4.30. Xác minh Xuất xứ

1. Khi Cơ quan Hải quan của bên nhập khẩu có nghi ngờ hợp lý về tính chính xác của Giấy chứng nhận xuất xứ và (hoặc) sự tuân thủ của hàng hóa theo các tiêu chí xuất xứ trên C/O, theo Điều 4.3 của Hiệp định, và trong trường hợp kiểm tra ngẫu nhiên, họ có thể gửi đề nghị cho cơ quan xác minh hoặc cơ quan được ủy quyền của bên xuất khẩu để xác nhận tính chính xác của Giấy chứng nhận xuất xứ và (hoặc) sự tuân thủ theo tiêu chí xuất xứ của hàng hóa và (hoặc) cung cấp các chứng từ chứng minh từ người xuất khẩu và (hoặc) người sản xuất hàng hóa nếu được yêu cầu.

2. Tất cả đề nghị xác minh sẽ được kèm theo thông tin đầy đủ để xác định hàng hóa có liên quan. Đề nghị đối với cơ quan xác minh của bên xuất khẩu sẽ kèm theo bản sao Giấy chứng nhận xuất xứ và ghi rõ trường hợp và lý do xác minh.

3. Người nhận được đề nghị theo Khoản 1 Điều này sẽ trả lời cơ quan hải quan đề nghị của bên nhập khẩu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày đề nghị xác minh.

4. Khi trả lời đề nghị theo Khoản 1, cơ quan xác minh của bên xuất khẩu sẽ thể hiện rõ Giấy chứng nhận xuất xứ là chính xác và (hoặc) hàng hóa có thể được coi là có xuất xứ tại một bên bao gồm cung cấp các chứng từ được yêu cầu từ người xuất khẩu và (hoặc) người sản xuất. Trước khi trả lời đề nghị xác minh, Khoản 3 của Điều 4.23 của Hiệp định sẽ có thể được áp dụng. Thuế hải quan đã nộp sẽ được hoàn lại nếu kết quả quá trình xác minh xác nhận và thể hiện rõ ràng rằng hàng hóa đủ Điều kiện xuất xứ và đáp ứng các yêu cầu khác của chương.

Điều 4.31. Xác minh thực tế

1. Nếu cơ quan hải quan của bên nhập khẩu không thỏa mãn với kết quả xác minh theo Điều 4.30 của Hiệp định, trong trường hợp ngoại lệ, cơ quan hải quan bên nhập khẩu có thể đề nghị xác minh thực tế tại bên xuất khẩu để xem xét hồ sơ theo Điều 4.22 của Hiệp định và quan sát các thiết bị được sử dụng để sản xuất hàng hóa.

2. Trước khi thực hiện xác minh thực tế theo Khoản 1, cơ quan hải quan bên nhập khẩu sẽ gửi thông báo đề nghị xác minh thực tế bằng văn bản cho cơ quan xác minh của bên còn lại thông báo địa điểm thực hiện xác minh thực tế.

3. Thông báo bằng văn bản theo Khoản 2 Điều này sẽ bao gồm đầy đủ các thông tin sau:

a) Tên của cơ quan hải quan của bên gửi thông báo;

b) Tên của người sản xuất và/hoặc người xuất khẩu nơi đến xác minh;

c) Ngày dự kiến xác minh thực tế;

d) Phạm vi xác minh thực tế, bao gồm cả dẫn chiếu đến hàng hóa xác minh và các nghi ngờ về xuất xứ;

e) Tên và chỉ định cán bộ thực hiện xác minh thực tế.

4. Cơ quan xác minh sẽ gửi đề nghị xác minh cho người sản xuất và/hoặc người xuất khẩu nơi đến xác minh và gửi bên đề nghị thư chấp thuận bằng văn bản trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi thông báo theo Khoản 2 của Điều Khoản.

5. Trong trường hợp văn bản chấp thuận của cơ quan xác minh không được nhận trong vòng 60 ngày kể từ ngà y gửi thông báo theo Khoản 2 của Điều này, hoặc bên thông báo bị từ chối thực hiện xác minh thực tế, bên thông báo sẽ từ chối ưu đãi thuế quan đối với hàng hóa theo Giấy chứng nhận xuất xứ được tiến hành xác minh.

6. Mọi xác minh thực tế phải được tiến hành trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý và kết thúc trong một thời gian hợp lý.

7. Cơ quan thực hiện xác minh phải, trong thời gian tối đa 90 ngày kể từ ngày đầu tiên thực hiện xác minh thực tế, cung cấp cho người sản xuất và/hoặc người xuất khẩu có hàng hóa và cơ sở được tiến hành xác minh, và cơ quan xác minh của bên xuất khẩu kết quả xác minh thực tế bằng văn bản.

8. Xác minh thực tế bao gồm đi thực tế và xác định xuất xứ của hàng hóa có liên quan sẽ được thực hiện và gửi kết quả cho cơ quan xác minh trong vòng tối đa 210 ngày. Trước khi có kết quả việc xác minh thực tế, Khoản 3 Điều 4.23 sẽ được áp dụng.

9. Mọi ưu đãi thuế quan đã bị dừng hoặc bị từ chối sẽ được hoàn lại theo văn bản xác nhận rằng hàng hóa đủ điều kiện có xuất xứ và đáp ứng các tiêu chí xuất xứ theo Hiệp định.

10. Nhóm xác minh phải được hình thành bởi cơ quan hải quan trung ương của bên nhập khẩu theo pháp luật và quy định từng bên.

11. Cơ quan xác minh hay cơ quan được ủy quyền của bên xuất khẩu sẽ hỗ trợ khi cơ quan hải quan bên nhập khẩu thực hiện xác minh thực tế.

12. Người sản xuất và người xuất khẩu đã đồng ý thực hiện xác minh thực tế sẽ hỗ trợ trong việc thực hiện, tiếp cận cơ sở, tài chính (kế toán) và các chứng từ sản xuất liên quan đến xác minh thực tế và cung cấp thông tin bổ sung nếu được yêu cầu.

13. Nếu có những trở ngại bởi cơ quan hoặc tổ chức của Bên được điều tra trong quá trình xác minh thực thể, mà gây ra việc không thể thực hiện xác minh thực tế, bên nhập khẩu có quyền từ chối cho hưởng ưu đãi đối với hàng hóa liên quan.

14. Tất cả chi phí liên quan đến việc xác minh thực tế sẽ do bên nhập khẩu chịu.

Điều 4.32. Bảo mật thông tin

Tất cả thông tin cung cấp theo Chương này sẽ được các Bên đối xử theo chế độ mật theo pháp luật và quy định của từng bên. Các thông tin này sẽ không được tiết lộ nếu không có sự cho phép của cá nhân hoặc cơ quan cung cấp thông tin của một bên.

Điều 4.33. Hình phạt hoặc các biện pháp khác đối với hành vi gian lận

Mỗi bên sẽ cung cấp các biện pháp xử phạt hành chính hoặc hình sự đối với hành vi vi phạm theo pháp luật và quy định của từng bên liên quan đến Chương này.

Điều 4.34. Tiểu ban về Quy tắc xuất xứ

1. Để thực hiện và áp dụng Chương này một cách hiệu quả, Tiểu ban về Quy tắc xuất xứ (sau đây gọi là “Tiểu ban ROO”) sẽ được thành lập.

2. Tiểu ban ROO sẽ có các chức năng sau:

a) Rà soát và kiến nghị phù hợp lên Ủy ban hỗn hợp và Ủy ban hàng hóa về:

i) Chuyển đổi Phụ lục 3 của Hiệp định theo phân loại danh mục HS sửa đổi sau sửa đổi định kỳ của HS. Chuyển đổi này sẽ được thực hiện mà không làm ảnh hưởng đến các cam kết hiện tại và sẽ được hoàn thành kịp thời.

ii) Thực hiện và áp dụng Chương này, bao gồm các đề xuất để thiết lập các thỏa thuận về thực thi.

iii) Không thực hiện nghĩa vụ của các Bên tham gia, như được xác định trong Phần này;

iv) Sửa đổi kỹ thuật của Chương;

v) Sửa đổi Phụ lục 3 của Hiệp định;

vi) Các tranh chấp phát sinh giữa các Bên trong quá trình thực thi Hiệp định.

vii) Bất kỳ sửa đổi nào đối với quy định của Chương và các Phụ lục 3,4,5 của Hiệp định.

b) Xem xét bất kỳ vấn đề nào của một bên đưa ra liên quan đến Chương này;

c) Báo cáo kết quả Tiểu ban về Quy tắc xuất xứ lên Ủy ban về Thương mại hàng hóa;

d) Thực hiện các chức năng khác theo ủy quyền của Ủy ban hỗn hợp theo Điều 1.5 của Hiệp định.

3. Tiểu ban ROO sẽ bao gồm đại diện của các Bên, và có thể mời đại diện của các đơn vị khác của các Bên có vấn đề chuyên môn cần thiết để thảo luận theo thỏa thuận chung giữa các Bên.

4. Tiểu ban ROO sẽ họp vào thời gian và địa điểm theo thống nhất của các Bên nhưng không ít hơn 1 năm 1 lần.

5. Một Chương trình tạm thời cho mỗi cuộc họp phải được gửi cho các Bên không muộn hơn 1 tháng trước phiên họp, theo một quy tắc thống nhất.

PHẦN V. QUY ĐỊNH CHUYỂN ĐỔI

Điều 4.35. Hàng hóa trong quá trình vận chuyển và lưu trữ

Hàng hóa có xuất xứ đang trong quá trình vận chuyển từ bên xuất khẩu đến bên nhập khẩu, hoặc đang được lưu kho tạm thời trong khu vực phi thuế quan của bên nhập khẩu sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan nếu hàng hóa này được nhập khẩu vào bên nhập khẩu vào ngày hoặc sau ngày có hiệu lực của hiệp định này, với điều kiện phải nộp Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau cho cơ quan Hải quan nước thành viên nhập khẩu và theo quy định pháp luật hoặc thủ tục hành chính của bên nhập khẩu

Chương 5

QUẢN LÝ HẢI QUAN VÀ TẠO THUẬN LỢI THƯƠNG MẠI

Điều 5.1. Phạm vi

Chương này áp dụng đối với các biện pháp quản lý hành chính hải quan, việc thực hiện các hoạt động hải quan cần thiết cho hoạt động thông quan hàng hóa giao dịch giữa các Bên, nhằm thúc đẩy:

a) minh bạch các quy trình và thủ tục hải quan;

b) tạo thuận lợi thương mại và hài hòa hóa các hoạt động hải quan;

c) hợp tác hải quan bao gồm cả trao đổi thông tin giữa các Cơ quan Hải quan Trung ương của các Bên.

Điều 5.2. Định nghĩa

Vì mục đích của Chương này, các định nghĩa dưới đây được hiểu như sau:

a) «quản lý hải quan» có nghĩa là các hoạt động tổ chức và quản lý của Cơ quan Hải quan của mỗi Bên, cũng như các hoạt động thực hiện trong khuôn khổ pháp lý khi thực thi các mục tiêu trong lĩnh vực hải quan;

b) «luật và quy định hải quan» có nghĩa là bất kỳ Điều luật và quy định pháp lý thực thi bởi Cơ quan Hải quan các Bên bao gồm luật, quyết định, nghị định, pháp lệnh, quy tắc, nguyên tắc và quy định khác;

c) «hàng chuyển phát nhanh» có nghĩa là hàng hóa vận chuyển thông qua hệ thống giao thông tốc độ cao dưới bất kể hình thức vận chuyển nào, sử dụng hệ thống quản lý thông tin điện tử và theo dõi việc di chuyển của hàng hóa để vận chuyển hàng hóa đến người nhận theo một hóa đơn riêng lẻ trong một khoảng thời gian ngắn nhất có thể, hoặc một thời gian cố định, trừ hàng hóa gửi qua bưu điện quốc tế;

d) «gia công sản xuất trong nước» có nghĩa là thủ tục hải quan khi hàng hóa nước ngoài có thể được đưa vào lãnh thổ hải quan một Bên với điều kiện miễn nộp thuế hải quan, các khoản thuế khác và hàng hóa đó phải được gia công hoặc sửa chữa để khi hoàn thành hàng hóa đó phải được xuất ra khỏi lãnh thổ hải quan một Bên trong một khỏang thời gian nhất định;

e) «gia công sản xuất ở nước ngoài» có nghĩa là thủ tục hải quan khi hàng hóa trong nước, đang được lưu thông tự do trong lãnh thổ hải quan một Bên, có thể được tạm xuất khẩu để chế biến ở nước ngoài và sau đó lại tái nhập khẩu và được miễn toàn bộ thuế hải quan, các khoản thuế khác;

f) « tạm nhập» có nghĩa là thủ tục hải quan khi hàng hóa nước ngoài có thể được đưa vào lãnh thổ hải quan của một Bên với điều kiện miễn hoàn toàn hoặc một phần việc nộp thuế hải quan, các thuế khác. Hàng hóa đó phải được tái xuất khẩu trong một khoảng thời gian cụ thể theo quy định của pháp luật hải quan Bên đó;

Điều 5.3. Tạo thuận lợi cho các Biện pháp Quản lý hải quan

1. Mỗi Bên phải bảo đảm rằng, các biện pháp quản lý hải quan được cơ quan hải quan của mình áp dụng phải dự đoán được, nhất quán và minh bạch.

2. Nếu có thể và trong phạm vi cho phép của pháp luật hải quan của mình, các biện pháp quản lý hải quan của mỗi Bên, phải dựa trên cơ sở các chuẩn mực và thông lệ được khuyến nghị của Tổ chức Hải quan Thế giới.

3. Các cơ quan Hải quan Trung ương của mỗi Bên phải nỗ lực rà soát các biện pháp quản lý hải quan với mục đích đơn giản hóa để tạo thuận lợi thương mại.

Điều 5.4. Giải phóng hàng

1. Mỗi Bên phải áp dụng hoặc duy trì việc thực hiện các thủ tục và nghiệp vụ hải quan sao cho giải phóng hàng hóa hiệu quả nhằm tạo thuận lợi thương mại giữa các Bên. Khoản này không yêu cầu một Bên giải phóng hàng khi các yêu cầu về giải phóng hàng chưa được đáp ứng.

2. Theo Khoản 1 của Điều này, mỗi Bên phải:

(a) cho phép giải phóng hàng trong khỏang thời gian không quá bốn mươi tám (48) giờ từ khi đăng ký tờ khai hải quan ngoại trừ các trường hợp quy định khác trong luật pháp hải quan của các Bên;

(b) nỗ lực áp dụng hoặc duy trì việc nộp và xử lý thông tin hải quan theo hình thức điện tử trước khi hàng đến để đẩy nhanh việc giải phóng hàng khi hàng đến.

Điều 5.5. Quản lý rủi ro

Cơ quan Hải quan của các Bên phải áp dụng hệ thống quản lý rủi ro theo hình thức đánh giá rủi ro có hệ thống nhằm tập trung kiểm tra đối với hàng hóa có rủi ro cao và đơn giản hóa việc thực hiện các nghiệp vụ hải quan đối với hàng hóa có rủi ro thấp.

Điều 5.6. Hợp tác hải quan

1. Với mong muốn tạo thuận lợi cho việc thực hiện có hiệu quả Hiệp định này, cơ quan hải quan trung ương của các Bên sẽ nổ lực hợp tác với nhau về các lĩnh vực hải quan chính có ảnh hưởng đến thương mại giữa hai Bên.

2. Trường hợp theo quy định của luật pháp tương ứng của mình mà cơ quan hải quan trung ương của một Bên có một nghi ngờ hợp lý về hoạt động bất hợp pháp, cơ quan hải quan trung ương đó có thể yêu cầu cơ quan trung ương của Bên kia cung cấp thông tin nghiệp vụ bảo mật vẫn thường được thu thập liên quan đến việc nhập khẩu hàng hóa.

3. Yêu cầu của một Bên theo Khoản 2 của Điều này phải được làm thành văn bản, trong đó đưa ra mục đích yêu cầu thông tin, và phải được gửi kèm các thông tin đầy đủ để xác định rõ hàng hóa có liên quan.

4. Bên được yêu cầu cung cấp thông tin theo Khoản 2 của Điều này phải, cung cấp một văn bản trả lời có các thông tin được yêu cầu.

5. Cơ quan việc tuân thủ luật pháp và các quy định điều chỉnh về hoạt động bất kể các thông tin nào cho cơ quan hải quan trung ương tuân thược yêu cầu phải nỗ lực cung cấp bất kể các thônịnh liệu hàng hóa nhập khẩu từ hoặc xuất khẩu ra Bên yêu cầu là tuân thủ với pháp luật tương ứng của Bên đó.

6. Các cơ quan hải quan trung ương của các Bên phải nỗ lực thành lập và duy trì các kênh trao đổi thông tin phục vụ cho hợp tác hải quan, bao gồm thành lập các đầu mối liên hệ để đảm bảo việc trao đổi thông tin nhanh chóng và an toàn đồng thời tăng cường hợp tác về các vấn hải quan.

Điều 5.7. Trao đổi thông tin

1. Nhằm tạo thuận lợi trong việc thực hiện các nghiệp vụ hải quan, nhằm thúc đẩy giải phóng hàng hóa và ngăn chặn các vi phạm pháp luật hải quan, cơ quan hải quan trung ương của các Bên sẽ xây dựng và tiến hành trao đổi thông tin điện tử một cách thường xuyên với nhau (sau đây gọi là “trao đổi thông tin điện tử”) trong vòng 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

2. Thay mặt cho Liên minh kinh tế Á – Âu, Ủy ban kinh tế Á-Âu sẽ phối hợp trong việc thành lập và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động trao đổi thông tin điện tử.

3. Theo mục đích của Điều này, “thông tin” có nghĩa là các dữ liệu chính xác hoặc có liên quan từ tờ khai hải quan và các chứng từ vận tải.

4. Trong vòng 1 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, cơ quan hải quan trung ương của các Quốc gia Thành viên của Liên minh kinh tế Á – Âu với sự trợ giúp của Ủy ban kinh tế Á – Âu và cơ quan hải quan trung ương của Việt Nam sẽ cùng tham vấn nhằm tiến hành trao đổi thông tin điện tử theo quy định tải Khoản 6 của Điều này .

5. Tất cả các yêu cầu và quy định cụ thể nhằm tiến hành trao đổi thông tin điện tử cũng như là các nội dung thông tin cụ thể được trao đổi phải được quy định tại các nghị định thư riêng biệt giữa các cơ quan hải quan trung ương của các Bên. Các thông tin đó phải phù hợp để xác định được các hàng hóa đã vận chuyển và việc tiến hành các hoạt động kiểm soát hải quan có hiệu quả.

6. Việc thực hiện trao đổi thông tin điện tử sẽ tiến hành theo các lộ trình sau:

a) Không muộn hơn 2 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, cơ quan có liên quan sẽ tiến hành trao đổi thông tin điện tử thử nghiệm giữa các bộ phận hải quan riêng lẻ của các Bên phụ trách về giải phóng hải quan của hàng hóa cụ thể nào đó được giao dịch giữa các Bên. Các cơ quan hải quan trung ương của các Bên sẽ quyết định việc chỉ định bộ phận hải quan riêng lẻ và hàng hóa cụ thể trong một nghị định thư theo Khoản 5 của Điều này.

b) Không muộn hơn 3 năm từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, trao đổi thông tin điện tử phải bao gồm các hàng hóa mà luồng thương mại giữa các Bên sẽ tăng hơn 20% kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực

c) Không muộn hơn 5 năm từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, cơ quan hải quan trung ương của các Bên sẽ tiến hành áp dụng trao đổi thông tin điện tử bao gồm toàn bộ hàng hóa giao dịch giữa các Bên cho tất cả các bộ phận hải quan có liên quan.

7. Bất kỳ thông tin nào trao đổi theo các quy định của Điều này phải được coi là mật và chỉ được sử dụng cho các mục đích hải quan.

8. Hoạt động trao đổi thông tin điện tử sẽ không ngăn cản việc áp dụng hoặc tiến hành trao đổi thông tin trên cơ sở các nghĩa vụ quốc tế của các Bên.

Điều 5.8. Công khai

1. Các cơ quan có thẩm quyền của mỗi Bên sẽ phải công bố công khai, trên mạng hoặc thông qua các phương tiện truyền thông thích hợp khác, tất cả các thông tin liên quan đến pháp luật hải quan của mình.

2. Các cơ quan có thẩm quyền của mỗi Bên phải chỉ định hoặc duy trì một hoặc nhiều đầu mối để xử lý các yêu cầu từ những người quan tâm về đến các vấn đề hải quan, và phải công bố công khai thông tin trên mạng về các đầu mối đó.

3. Các cơ quan có thẩm quyền của mỗi Bên sẽ chuyển cho nhau thông tin liên lạc của các đầu mối đã được chỉ định.

4. Mỗi Bên phải, ở mức có thể, công khai bất kể các quy định pháp lý áp dụng chung nào liên quan đến các vấn đề hải quan mà mình dự kiến áp dụng và phải  cung cấp cho các cá nhân có quan tâm cơ hội tham gia góp ý trước khi áp dụng các quy định pháp lý đó.

Điều 5.9. Xác định trước

1. Cơ quan Hải quan của các Bên phải ban hành văn bản xác định trước cho bất kỳ người nộp đơn nào đã đăng ký tại Bên nhập khẩu về phân loại thuế quan, xuất xứ hàng hóa và các vấn đề khác mà mỗi Bên nhận thấy rằng phù hợp để ban hành văn bản xác định trước. Các Bên sẽ cố gắng áp dụng và duy trì việc ban hành văn bản xác định trước liên quan đến việc áp dụng phương pháp để xác định trị giá hải quan.

2. Mỗi Bên phải quy định hoặc duy trì các thủ tục về xác định trước, bao gồm:

a) quy định rằng người nộp đơn có thể xin được cấp xác định trước trước khi nhập khẩu hàng hóa;

b) yêu cầu người nộp đơn xin được cấp xác định trước phải cung cấp một bản mô tả chi tiết hàng hóa và tất cả các thông tin liên quan cần thiết để ban hành văn bản xác định trước;

c) quy định rằng cơ quan hải quan có thể, trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày nộp đơn, yêu cầu người nộp đơn cung cấp thông tin bổ sung trong thời hạn quy định;

d) quy định rằng xác định trước phải dựa trên các dữ liệu thực tế và tình huống được xuất trình bởi người nộp đơn, và bất cứ thông tin liên quan khác sẵn có cho Cơ quan Hải quan;

e) quy định rằng một xác định trước được ban hành cho người nộp đơn một cách nhanh chóng, hoặc trong vòng chín mươi (90) ngày kể từ ngày nộp đơn hoặc sáu mươi (60) ngày kể từ ngày nhận được tất cả các thông tin bổ sung cần thiết;

3. Cơ quan Hải quan của một Bên có thể từ chối các yêu cầu đối với việc đưa ra văn bản xác định trước nếu thông tin bổ sung theo yêu cầu của họ theo Điểm (c) tại Khoản 2 của Điều này không được cung cấp trong thời gian quy định.

4. Một văn bản xác định trước có giá trị ít nhất ba (3) năm kể từ ngày ban hành, hoặc trong một thời gian dài hơn quy định đó theo quy định của pháp luật hải quan của các Bên.

5. Cơ quan Hải quan của một Bên có thể sửa đổi hoặc hủy bỏ một văn bản xác định trước:

a) khi quyết định rằng xác định trước dựa trên thông tin sai lệch, hoặc không chính xác;

b) nếu có sự thay đổi trong pháp luật hải quan phù hợp với Hiệp định này; hoặc

c) nếu có sự thay đổi trong dữ liệu thực tế hoặc các tình huống làm cơ sở cho việc ban hành văn bản xác định trước.

6. Tùy theo các yêu cầu bảo mật, cơ quan hải quan của các Bên phải công khai các văn bản xác định trước.

Điều 5.10. Trị giá hải quan

Trị giá hải quan của hàng hóa giao dịch giữa các Bên phải được xác định theo pháp luật hải quan của các Bên nhập khẩu và phải dựa trên các quy định của Điều VII của Hiệp định GATT năm 1994 và Hiệp định thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 trong Phụ lục 1 A của Hiệp định WTO.

Điều 5.11. Phân loại thuế quan

Các Bên phải áp dụng danh mục hàng hóa theo phiên bản hiện tại của Hệ thống hài hòa hàng hóa đối với hàng hóa giao dịch giữa các Bên.

Điều 5.12. Quá cảnh hàng hóa

Các Bên có thể công nhận lẫn nhau các công cụ và chứng từ nhận diện được các Bên áp dụng cần thiết cho việc kiểm soát hàng hóa và tầu cũng như các phương tiện quá cảnh.

Điều 5.13. Hàng chuyển phát nhanh

1. Cơ quan hải quan của các Bên phải cho phép thông quan nhanh chóng hàng chuyển phát nhanh trong khi vẫn phải duy trì kiểm soát hải quan thích hợp.

2. Hàng chuyển phát nhanh phải được áp dụng các thủ tục hải quan một cách nhanh chóng phù hợp với pháp luật hải quan của mỗi Bên.

Điều 5.14. Tạm nhập hàng hóa

Cơ quan hải quan của các Bên phải nỗ lực tạo thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động hải quan đối với thủ tục hải quan cho hàng tạm nhập sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

Điều 5.15. Gia công sản xuất trong nước và nước ngoài

Cơ quan hải quan các Bên phải nỗ lực tạo thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động hải quan đối với việc tạm nhập và tạm xuất hàng gia công sản xuất trong nước và nước ngoài sao cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.

Điều 5.16. Bảo mật

Mọi thông tin được cung cấp theo Chương này, không bao gồm số liệu thống kê, phải được các Bên xử lý như thông tin mật theo quy định của pháp luật các Bên. Thông tin sẽ không được tiết lộ bởi các cơ quan có thẩm quyền của các Bên nếu không có sự cho phép của cá nhân hoặc cơ quan cung cấp các thông tin đó.

Điều 5.17. Đại lý hải quan (đại diện)

Pháp luật hải quan của mỗi Bên phải cho phép người khai hải quan nộp tờ khai hải quan mà không cần yêu cầu bắt buộc sử dụng các dịch vụ của đại lý (đại diện) hải quan.

Điều 5.18. Tự động hóa

1. Cơ quan hải quan của các Bên phải đảm bảo rằng hoạt động hải quan có thể được thực hiện với việc sử dụng các hệ thống thông tin và công nghệ thông tin, bao gồm các hệ thống dựa trên các phương tiện thông tin liên lạc điện tử.

2. Cơ quan hải quan của các Bên phải cung cấp cho người khai hải quan cơ hội kê khai hàng hóa bằng mẫu đơn điện tử.

Điều 5.19. Rà soát và khiếu nại

Mỗi Bên phải đảm bảo khả năng về rà soát xử lý hành chính của một quyết định hải quan có ảnh hưởng đến quyền lợi của người có liên quan, và khiếu nại tư pháp đối với quyết định đó theo quy định của pháp luật mỗi Bên.

Điều 5.20. Xử phạt

Mỗi Bên phải áp dụng hoặc duy trì các biện pháp cho phép áp dụng các khoản phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật hải quan trong quá trình nhập khẩu và xuất khẩu, bao gồm các quy định về áp mã, trị giá hải quan, xác định nước xuất xứ và được ưu đãi thuế quan theo Hiệp định này.

Chương 6

HÀNG RÀO KỸ THUẬT ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI

Điều 6.1. Mục tiêu

Các mục tiêu của Chương này là tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa giữa các Bên bởi:

a) thúc đẩy hợp tác về việc soạn thảo, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp nhằm để loại bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại, giảm thiểu, nếu có thể, các chi phí không cần thiết cho xuất khẩu;

b) thúc đẩy việc hiểu biết lẫn nhau về các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp của mỗi Bên;

c) tăng cường trao đổi thông tin giữa các Bên liên quan đến việc phát triển, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp;

d) tăng cường hợp tác giữa các Bên trong công việc của các tổ chức quốc tế liên quan tới tiêu chuẩn hóa và đánh giá sự phù hợp;

e) đưa ra khuôn khổ để thực hiện các mục tiêu này;

f) thúc đẩy hợp tác về các vấn đề liên quan đến hàng rào kỹ thuật đối với thương mại.

Điều 6.2. Phạm vi

1. Chương này áp dụng đối với toàn bộ các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp của các Bên mà nó có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thương mại hàng hóa giữa các Bên, ngoại trừ:

a) các quy định kỹ thuật mua sắm được soạn thảo bởi các cơ quan Chính phủ đối với các yêu cầu sản xuất hoặc tiêu thụ của các cơ quan đó; và

b) các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật như đã được quy định tại Chương “Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật” của Hiệp định này.

2. Phù hợp với Chương này và Hiệp định TBT mỗi Bên có quyền soạn thảo, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp.

Điều 6.3.  Các định nghĩa

Đối với các mục đích của Chương này, các định nghĩa được nêu trong Phụ lục 1 của Hiệp định TBT sẽ được áp dụng, với những sửa đổi phù hợp.

Điều 6.4. Kết hợp với Hiệp định TBT

Trừ trường hợp quy định tại Chương này, Hiệp định TBT sẽ được áp dụng giữa các Bên và nó được đưa vào và là một phần của Hiệp định này, với những sửa đổi phù hợp.

Điều 6.5. Minh bạch hóa

1. Các Bên thừa nhận tầm quan trọng của tính minh bạch liên quan đến việc soạn thảo, ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp.

2. Mỗi Bên phải cho phép một khoảng thời gian ít nhất là 60 ngày để góp ý sau khi công bố một thông báo được quy định tại Điều 2.9 và / hoặc 5.6 của Hiệp định TBT, trừ trường hợp mà các vấn đề cấp bách về an toàn, sức khỏe, bảo vệ môi trường hoặc an ninh quốc gia phát sinh hoặc có nguy cơ phát sinh đối với các Bên.

3. Mỗi Bên phải cho phép ít nhất là 180 ngày, kể từ khi ban hành quy chuẩn kỹ thuật và / hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp đến khi có hiệu lực thi hành của chúng/nó, trừ trường hợp mà các vấn đề cấp bách về an toàn, sức khỏe, bảo vệ môi trường hoặc an ninh quốc gia phát sinh hoặc có nguy cơ phát sinh đối với các Bên.

4. Các Bên phải cố gắng ở mức tối đa có thể để trao đổi thông tin bằng ngôn ngữ tiếng Anh.

Điều 6.6. Ghi dấu và ghi nhãn

Các Bên ghi nhận rằng theo đoạn 1 của Phụ lục 1 của Hiệp định TBT, một quy chuẩn kỹ thuật có thể bao gồm hoặc đề cập riêng với các yêu cầu ghi dấu hoặc ghi nhãn, và đồng ý rằng ở đâu mà quy chuẩn kỹ thuật này có bao gồm ghi dấu hoặc ghi nhãn bắt buộc, họ sẽ tuân thủ theo các nguyên tắc của Điều 2.2 của Hiệp định TBT, rằng các quy chuẩn kỹ thuật không được soạn thảo, ban hành và áp dụng với mục đích, hoặc có tác động, tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại quốc tế, và không nên hạn chế thương mại hơn mức cần thiết để hoàn thành một mục tiêu hợp pháp.

Điều 6.7. Tham vấn

1. Trong trường hợp việc áp dụng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp đang có ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên, một Bên có thể yêu cầu tham vấn nhằm để giải quyết vấn đề này. Một yêu cầu đối với các tham vấn phải được chuyển trực tiếp tới đầu mối liên lạc của Bên kia được thành lập theo Điều 6.9 của Hiệp định này.

2. Mỗi Bên phải nỗ lực xem xét ngay lập tức và có thiện chí đối với bất kỳ yêu cầu nào từ một Bên kia để tham vấn về các vấn đề liên quan tới việc thực hiện Chương này.

3. Một khi có vấn đề được bao hàm theo các Điều Khoản của Chương này không được làm rõ hoặc không được giải quyết theo như kết quả của các tham vấn, các Bên có thể thành lập nhóm công tác đặc biệt với quan điểm để xác định giải pháp thực tiễn và khả thi mà có thể tạo thuận lợi cho thương mại. Nhóm công tác cần phải gồm có các đại diện của các Bên.

4. Khi một Bên từ chối yêu cầu của một Bên kia về việc thiết lập nhóm công tác, theo yêu cầu, Bên từ chối phải giải thích các lý do đối với quyết định của mình.

Điều 6.8. Hợp tác

1. Với các mục đích đảm bảo rằng các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại hàng hóa giữa các Bên, các Bên sẽ phải, nếu có thể, hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp.

2. Việc hợp tác theo Khoản 1 của Điều này có thể bao gồm như sau:

a) tổ chức hội thảo chung nhằm để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp tại mỗi Bên;

b) trao đổi cán bộ của các Bên đối với mục đích đào tạo;

c) trao đổi thông tin về các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp;

d) tăng cường hợp tác tại các diễn đàn quốc tế, bao gồm cả các tổ chức quốc tế liên quan đến tiêu chuẩn hóa và đánh giá sự phù hợp và các Ủy ban của WTO về Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại, trong các lĩnh vực cùng quan tâm;

e) khuyến khích các tổ chức chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp tại mỗi Bên sẽ hợp tác về các vấn đề cùng quan tâm;

f) cung cấp hợp tác khoa học và kỹ thuật nhằm để nâng cao chất lượng của các quy chuẩn kỹ thuật; và

g) làm cho sử dụng hiệu quả các nguồn quy định.

3. Việc thực hiện Khoản 2 của Điều này phải tùy theo hiệu lực của các quỹ thích hợp và các luật lệ và quy định tương ứng của mỗi Bên.

4. Hợp tác về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại có thể được thực hiện, nhưng không hạn chế bởi, hình thức đối thoại qua các kênh thích hợp, các dự án chung, các chương trình hỗ trợ kỹ thuật .

5. Các Bên có thể tiến hành các dự án chung, hỗ trợ kỹ thuật và hợp tác về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp trong các lĩnh vực được lựa chọn, được đồng thuận chung.

6. Các bên cam kết trao đổi quan điểm về các vấn đề giám sát thị trường và các hoạt động thực thi pháp luật trong lĩnh vực đó có liên quan đến hàng rào kỹ thuật đối với thương mại.

7. Khi có yêu cầu, một Bên sẽ phải xem xét thích đáng đối với các đề xuất mà Bên kia chuẩn bị cho việc hợp tác theo Chương này.

8. Để thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ của Chương này, các Bên có thể ký kết các thỏa thuận đặc biệt về các vấn đề được bao gồm trong đó.

Điều 6.9. Các cơ quan có thẩm quyền và mối liên lạc

1. Các Bên sẽ phải chỉ định các cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc và trao đổi thông tin gồm có tên của các cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc được chỉ định, các chi tiết liên lạc của các cán bộ liên quan trong các tổ chức đó, bao gồm cả số điện thoại và số fax, địa chỉ e-mail và các chi tiết khác có liên quan.

2. Các Bên phải kịp thời thông báo ngay cho nhau biết bất kỳ thay đổi nào đối với các cơ quan có thẩm quyền và đầu mối liên lạc của mình hoặc bất kỳ thông tin sửa đổi nào của các cán bộ liên quan.

3. Các chức năng của đầu mối liên lạc sẽ phải bao gồm như sau:

a) tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa các Bên về các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp để đáp ứng tất cả các yêu cầu hợp lý đối với các thông tin như vậy từ một Bên;

b) chuyển các yêu cầu từ một Bên tới các cơ quan quản lý thích hợp.

4. Các chức năng của các cơ quan có thẩm quyền sẽ phải bao gồm như sau:

a) giám sát việc thực hiện của Chương này;

b) tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác, khi thích hợp, phù hợp với Điều 6.8 của Hiệp định này;

c) kịp thời giải quyết mọi vấn đề do một Bên đưa ra liên quan đến việc xây dựng, ban hành, áp dụng hoặc thực thi các tiêu chuẩn, các quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp;

d) tạo thuận lợi cho việc tham vấn về mọi vấn đề phát sinh trong Chương này theo yêu cầu của một Bên;

e) thực hiện mọi hành động khác mà các Bên cho là sẽ hỗ trợ họ trong việc thực hiện chương này; và

f) thực hiện các chức năng khác mà có thể được ủy quyền bởi Ủy ban Hỗn hợp.

Chương 7

CÁC BIỆN PHÁP AN TOÀN THỰC PHẨM VÀ KIỂM DỊCH ĐỘNG THỰC VẬT

Điều 7.1. Mục tiêu

Mục tiêu của Chương này là tạo thuận lợi thương mại hàng hóa giữa các Bên thông qua:

a) Cố gắng giải quyết các vấn đề liên quan đến các biện pháp an toàn thực phẩm (SPS) và bên cạnh đó vẫn bảo vệ được sự sống và sức khỏe của con người, động vật và thực vật trên lãnh thổ của các Bên.

b) Tăng cường hợp tác giữa các Bên và giữa các cơ quan có thẩm quyền của các Bên trong việc xây dựng và áp dụng các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật như định nghĩa trong Hiệp định SPS của Tổ chức Thương mại Thế giới.

c) Tạo thuận lợi trao đổi thông tin trong lĩnh vực áp dụng các biện pháp SPS và tăng cường hiểu biết và kiến thức về hệ thống quản lý về SPS của mỗi Bên.

Điều 7.2. Phạm vi

Chương này được áp dụng với các biện pháp SPS của các Bên mà chúng có khả năng ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thương mại giữa các Bên Cho mục đích của Chương này:

Điều 7.3. Định nghĩa

a) Định nghĩa được nêu ra tại Phụ lục A của Hiệp định SPS được áp dụng, với những sửa đổi phù hợp.

b) Các định nghĩa liên quan được các tổ chức quốc tế xây dựng: Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩn (Codex), Tổ chức Thú y thế giới (sau đây gọi là OIE), và Công ước Bảo vệ thực vật quốc tế (sau đây gọi là IPPC) được áp dụng trong thực hiện Chương này, không tách rời.

Điều 7.4. Gắn kết với Hiệp định SPS

Ngoại trừ các nội dung đề cập trong Chương này, Hiệp định SPS phải được áp dụng giữa các Bên và ở đây là phẩn gắn kết với Chương này và được coi là một phần của Hiệp định này, không tách rời.

Điều 7.5. Tương đương

1. Các Bên nhận thấy rằng Tương đương là biện pháp quan trọng trong thúc đẩy thương mại.

2. Các Bên có thể công nhận tương đương với một biện pháp, một nhóm các biện pháp hoặc mở rộng với toàn bộ hệ thống cho phù hợp.

Điều 7.6. Thích ứng với Điều kiện khu vực

1. Các Bên nhận thấy khái niệm Thích ứng với điều kiện khu vực, bao gồm cả vùng phi dịch hại và vùng dịch hại thấp hay đang có ưu thế là một biện pháp quan trọng trong thúc đẩy thương mại.

2. Khi quyết định các khu vực đó, các Bên phải xem xét các yếu tố như thông tin của các Bên xác minh về hiện trạng các vùng phi dịch hại, vùng dịch hại thấp hay chiếm ưu thế, kết quả thanh tra, kiểm tra, thông tin do OIE và IPPC cung cấp và các yếu tố khác

Điều 7.7.Thanh tra, kiểm tra

1. Mỗi Bên có thể tiến hành thanh tra hoặc kiểm tra nhằm đảm bảo an toàn sản phẩm hàng hóa

2. Các Bên nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thanh tra và kiểm tra

3. Khi tiến hành thanh tra hoặc kiểm tra, mỗi Bên cần phải tính đến các các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế

4. Bên thanh tra hoặc kiểm tra phải phép bên bị thanh tra và kiểm tra cơ hội góp ý đối với kết quả của việc thanh tra và kiểm tra

5. Chi phí cho việc thanh tra hoặc kiểm tra phải do bên tiến hành thanh tra và kiểm tra chịu trách nhiệm, ngoài trừ khi có thỏa thuận của hai Bên.

Điều 7.8. Các giấy chứng nhận an toàn

1. Khi yêu cầu cần có một giấy chứng nhận an toàn đối với sản phẩm thương mại giữa hai Bên, Bên xuất khẩu phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của Bên nhập khẩu. Bên nhập khẩu phải đảm bảo các yêu cầu với giấy chứng nhận an toàn đối với sản phẩm thương mại giữa hai Bên chỉ được áp dụng ở phạm vi cần thiết để bảo vệ sự sống và sức khỏe của con người, động vật và thực vật.

2. Các Bên phải tính đến các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế phù hợp, khi soạn thảo giấy chứng nhận an toàn đối với sản phẩm, sao cho phù hợp.

3. Các bên có thể nhất trí xây dựng giấy chứng nhận an toàn chung cho hai Bên đối với một số sản phẩm và một nhóm sản phẩm buôn bán giữa hai Bên.

4. Các Bên phải đẩy mạnh việc sử dụng công nghệ điện tử trong việc xây dựng các loại giấy chứng nhận an toàn đối với sản phẩm nhằm thúc đẩy thương mại.

Điều 7.9. Biện pháp khẩn cấp

1. Khi một bên thông qua một biện pháp khẩn cấp cần thiết để bảo vệ sự sống và sức khỏe của con người, động vật và thực vật, thì Bên đó phải thông báo ngay biện pháp khẩn cấp đó cho Bên kia. Bên thông qua biện pháp khẩn cấp cần phải tính đến các thông tin liên quan do Bên kia cung cấp.

2. Theo yêu cầu của Bên kia, tham vấn giữa các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến biện pháp khẩn cấp phải được tổ chức ngay lập tức theo khả năng trừ khi có sự đồng ý của các Bên

Điều 7.10. Các điểm liên hệ và trao đổi thông tin

1. Các Bên phải thông báo cho nhau các điểm liên hệ liên quan đến các Điều Khoản cho phù hợp với Chương này và cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm cho các vấn đề trong phạm vi của Chương này và lĩnh vực chịu trách nhiệm của các cơ quan chức năng đó.

2. Các Bên phải thông tin cho nhau các điểm liên hệ của họ hoặc bất kỳ một thay đổi lớn nào trong hệ thống hay quyền hạn của cơ quan thẩm quyền.

3. Các Bên, thông quan các điểm đầu mối, phải cung cấp cho nhau đúng thời điểm bằng văn bản về:

a) bất kỳ một thay đổi lớn nào về vấn đề an toàn thực phẩm hoặc tình trạng sức khỏe, dịch bệnh động vật và thực vật trên lãnh thổ của họ; và

b) Bất kỳ thay đổi nào về khuôn khổ pháp lý hoặc biện pháp SPS khác.

4. Các bên thông qua các điểm đầu mối phải thông báo cho nhau một cách hệ thống hay một vài trường hợp các biện pháp không tuân thủ và trao đổi các các tài liệu liên quan mà xác nhận về việc không tuân thủ đó.

Điều 7.11. Hợp tác

1. Các Bên nhất trí hợp tác để thúc đẩy việc triển khai thực hiện Chương này

2. Các Bên phải khai thác cơ hội để tiếp hợp tác sâu hơn, liên kết và trao đổi thông tin về các vấn đề SPS cùng quan tâm theo nội dung các Điều Khoản của Chương này, Các cơ hội đó có thể là các sáng kiến thúc đẩy thương mại và hỗ trợ kỹ thuật

3. Các Bên cần phải hợp tác là việc với nhau trong khuôn khổ của các diễn đàn quốc tế, các tổ chức quốc tế trong những lĩnh vực các Bên cùng quan tâm

4. Nhằm thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ của Chương này, các Bên có thể thương thảo bất qui tắc về các biện pháp SPS.

Điều 7.12. Tham vấn

1. Khi một Bên xem xét thấy rằng một biện pháp SPS có ảnh hưởng đến thương mại giữa họ với Bên kia, Bên đó có thể thông quan điểm liên hệ yêu cầu tham vấn với Bên kia nhằm giải quyết các vướng mắc đó.

2. Một Bên phải xem xét tổ chức tham vấn trong khuôn khổ của Chương này, trên cơ sở yêu cầu của Bên kia với mục đích giải quyết các vấn đề phát sinh trong khuôn khổ của Chương này.

3. Trong trường hợp, Hai Bên xét thấy vấn đề không thể giải quyết qua tham vấn, Bên đó có quyền tìm kiếm giải pháp qua cơ chế giải quyết tranh chấp theo qui định tại Chương 14 của Hiệp định này.

Chương 8.

THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ, ĐẦU TƯ VÀ DI CHUYỂN THỂ NHÂN

PHẦN I. ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 8.1. Mục tiêu

Mục tiêu của Chương này nhằm khuyến khích tính hiệu quả, cạnh tranh và phát triển kinh tế của các Bên thông qua việc tạo thuận lợi cho mở rộng thương mại dịch vụ, thành lập, đầu tư và di chuyển thể nhân của các Bên trong một khuôn khổ luật pháp minh bạch và ổn định, đồng thời công nhận quyền được điều chỉnh của các Bên nhằm được các mục tiêu chính sách quốc gia.

Điều 8.2. Phạm vi

1. Chương này chỉ áp dụng giữa Việt Nam và Liên bang Nga, sau đây vì mục đích của Chương này, được gọi là “các Bên theo Chương này”.

2. Chương này áp dụng với các biện pháp được các Bên đưa ra ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, thành lập, đầu tư và di chuyển thể nhân.

3. Đối với dịch vụ vận tải hàng không, Chương này không áp dụng với các biện pháp ảnh hưởng đến thương quyền vận tải hàng không, cho dù có được cấp, hoặc các biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi thương quyền vận tải hàng không, ngoại trừ các biện pháp ảnh hưởng đến dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, bán và tiếp thị dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ đặt vé qua hệ thống máy tính theo quy định tại đoạn 6 Phụ lục Dịch vụ vận tải hàng không của GATS. Các định nghĩa trong đoạn 6 Phụ lục Dịch vụ vận tải hàng không của GATS sau đây hợp nhất thành một phần của Chương này.

4. Chương này không áp dụng đối với:

a. mua sắm chính phủ, được quy định trong Chương 10 của Hiệp định này;

b. các biện pháp ảnh hưởng đến thể nhân tìm kiếm việc làm ở một Bên của Hiệp định này;

c. các biện pháp liên quan đến quyền công dân, thường trú dài hạn, hoặc việc làm dài hạn.

5. Chương này không ngăn cản một Bên của Chương này áp dụng các biện pháp điều chỉnh việc thể nhân một Bên khác của Chương này nhập cảnh hoặc tạm trú trong lãnh thổ của mình, bao gồm các biện pháp cần thiết để bảo vệ toàn vẹn biên giới, và đảm bảo trật tự di chuyển thể nhân qua biên giới, với điều kiện những biện pháp này không được áp dụng theo cách thức vô hiệu quá hoặc tổn hại lợi ích dành cho Bên khác của Chương này theo một cam kết cụ thể. Việc yêu cầu thị thực đối với thể nhân của một Bên của Chương này và không yêu cầu thị thực đối với thể nhân của nước thứ 3 không bị coi là vô hiệu hóa hoặc tổn hại lợi ích theo các cam kết cụ thể trong khuôn khổ Chương này.

Vì mục đích của Chương này:

Điều 8.3. Định nghĩa

1. a) “thương mại dịch vụ” là sự cung cấp dịch vụ:

i. từ lãnh thổ của một Bên của Chương này sang lãnh thổ của Bên khác của Chương này;

ii. trong lãnh thổ của một Bên của Chương này cho người tiêu dùng dịch vụ của Bên khác của Chương này;

b) “cung cấp dịch vụ” bao gồm việc sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán và giao dịch vụ;

c) “dịch vụ” bao gồm bất kỳ dịch vụ trong bất kỳ phân ngành nào ngoại trừ các dịch vụ không được cung cấp vì mục đích thương mại hay không cạnh tranh với một hay nhiều nhà cung cấp.

d) “nhà cung cấp dịch vụ” là bất kỳ người nào cung cấp một dịch vụ.

e) “người tiêu dùng dịch vụ” là bất kỳ người nào tiếp nhận hoặc sử dụng một dịch vụ.

f) “người” được hiểu là thể nhân hoặc pháp nhân.

g) “thể nhân của một Bên” là công dân của Bên đó, theo luật và quy định của Bên đó.

h) “pháp nhân” là bất kỳ thực thể hợp pháp nào được thành lập hoặc tổ chức theo luật và quy định phù hợp.

Một pháp nhân:

“thuộc sở hữu” bởi người của một Bên nếu người của Bên hoặc nước thứ 3 này nắm giữ trên 50% cổ phần của pháp nhân này;

“kiểm soát” bởi người của một Bên nếu người này có thẩm quyền chỉ định đa số thành viên ban giám đốc hoặc điều hành hoạt động của pháp nhân đó một cách hợp pháp.

i) “pháp nhân của một Bên” là pháp nhân được thành lập theo luật và quy định của Bên đó.

j) “hiệp định hội nhập kinh tế” nghĩa là một hiệp định quốc tế phù hợp với yêu cầu của Điều V và Điều V sửa đổi của GATS.

k) “biện pháp” bao gồm bất kỳ biện pháp nào được một Bên của Chương này áp dụng dưới hình thức các pháp luật và quy định, Điều lệ, thủ tục, quyết định, hoạt động hành chính hoặc bất kỳ hình thức nào khác.

l) “biện pháp bởi một Bên” bao gồm các biện pháp được áp dụng bởi:

i. Chính quyền trung ương, vùng hoặc địa phương và các cơ quan có thẩm quyền của Bên đó theo Chương này; và

ii. Các cơ quan phi chính phủ được thực thi quyền hạn do chính quyền trung ương, vùng hoặc địa phương và các cơ quan có thẩm quyền của Bên đó ủy quyền.

m) “biện pháp bởi một Bên ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ” bao gồm các biện pháp liên quan đến:

(i) việc mua, thanh toán hoặc sử dụng một dịch vụ;

(ii) việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ, gắn liền với việc cung cấp dịch vụ, mà các Bên được yêu cầu phải đưa ra phục vụ công chúng một cách phổ biến.

n) “biện pháp bởi các Bên ảnh hưởng đến thành lập, hiện diện thương mại và các hoạt động thương mại” bao gồm các biện pháp liên quan đến việc thành lập, hiện diện thương mại của pháp nhân một Bên trong lãnh thổ của Bên khác hoặc các hoạt động liên đới.

o) “thành lập” nghĩa là:

i. sự thành lập (hoặc hợp thành) và/hoặc sáp nhập của một pháp nhân (góp vốn vào một pháp nhân có sẵn) dưới bất kỳ hình thức và quyền sở hữu hợp pháp nào theo luật và quy định của Bên mà trong lãnh thổ Bên đó thì pháp nhân này được thành lập, hợp thành hoặc sáp nhập; hoặc

ii. việc mua lại quyền kiểm soát một pháp nhân của một Bên, có quyền hạn pháp lý, trực tiếp hay gián tiếp, đối với việc đưa ra quyết định của pháp nhân đó, thông qua quyền biểu quyết (cổ phần) hoặc tham gia vào ban quản lý của pháp nhân đó (bao gồm ban giám đốc, ban giám sát, v.v.); hoặc

iii. thành lập một chi nhánh; hoặc

iv. thành lập một văn phòng đại diện nhằm mục đích cung cấp dịch vụ và/hoặc thực hiện một hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực ngoài dịch vụ.

p) “hiện diện thương mại” nghĩa là các pháp nhân được thành lập, hợp thành, sáp nhập hoặc kiểm soát và/hoặc chi nhánh hoặc văn phòng đại diện được thành lập nhằm mục đích cung cấp dịch vụ và/hoặc thực hiện một hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực ngoài dịch vụ. Vì mục đích của Phần Điều Khoản chung này, hiện diện thương mại được thành lập, hợp thành, sáp nhập hoặc kiểm soát sau đây được hiểu là “thành lập hiện diện thương mại”.

q) “các hoạt động” nghĩa là các hoạt động công nghiệp, thương mại hoặc chuyên môn của các pháp nhân, chi nhánh, văn phòng đại diện được đề cập trong Khoản 17 của Điều này, ngoại trừ các hoạt động được thực hiện không vì mục đích thương mại hay không cạnh tranh với một hay nhiều người tham gia vào các hoạt động tương tự.

Điều 8.4. Các hiệp định thương mại khác

Trong trường hợp một hiệp định quốc tế mà cả hai Bên của Chương này cùng tham gia, bao gồm cả Hiệp định WTO, có các Điều Khoản dành đối xử ưu đãi hơn, trong các vấn đề thuộc điều chỉnh của Chương này cho những người (nhà cung cấp dịch vụ) và/hoặc hiện diện thương mại, dịch vụ hoặc đầu tư của họ, thì đối xử ưu đãi hơn đó không chịu ảnh hưởng bởi Hiệp định này.

Điều 8.5. Quy định trong nước

1. Điều VI GATS sẽ áp dụng đối với các Bên của Chương này, với những sửa đổi phù hợp.

2. Không ảnh hưởng đến quyền thiết lập và áp dụng các thủ tục và yêu cầu cấp phép của một Bên của Chương này, liên quan đến các phân ngành dịch vụ mà Bên đó có cam kết cụ thể phù hợp với Phần II (Thương mại dịch vụ) của Chương này, cũng như đối với việc thành lập và các hoạt động được quy định trong Phần III (Thành lập, Hiện diện thương mại và Hoạt động) của Chương này, Bên đó phải đảm bảo:

a) các thủ tục cấp phép đó không gây hạn chế đối với việc thành lập, hoạt động hoặc cung cấp dịch vụ, và các yêu cầu về cấp phép liên quan trực tiếp đến điều kiện cung cấp dịch vụ không tạo thành rào cản bất hợp lý cho việc cung cấp dịch vụ;

b) các cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra quyết định về việc cấp phép/từ chối cấp phép không chậm trễ và không lâu hơn khoảng thời gian được quy định cụ thể trong luật và quy định của Bên đó;

c) bất kỳ chi phí nào gắn liền với việc nộp và xét lại một hồ sơ xin cấp phép không gây hạn chế đối với việc cung cấp dịch vụ, thành lập hoặc hoạt động;

d) khi thời gian xét lại hồ sơ xin cấp phép theo luật và quy định của một Bên đã hết, và theo yêu cầu của người nộp đơn, cơ quan có thẩm quyền của Bên đó phải thông báo cho người nộp về tình trạng của hồ sơ và liệu hồ sơ được xem là đã hoàn thiện hay chưa. Nếu cơ quan có thẩm quyền yêu cầu thông tin bổ sung từ người nộp đơn thì phải thông báo không chậm trễ cho người nộp đơn và chỉ rõ thông tin cần bổ sung để hoàn thiện hồ sơ. Người nộp đơn sẽ có cơ hội bổ sung thông tin được yêu cầu và sửa đổi kỹ thuật trong hồ sơ. Một hồ sơ sẽ không được xem là hoàn thiện cho đến khi nhận được tất cả các thông tin và tài liệu ghi rõ trong luật và quy định của Bên đó.

e) theo yêu cầu bằng văn bản của người nộp hồ sơ bị từ chối, cơ quan có thẩm quyền từ chối cấp phép cho hồ sơ đó phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn các nguyên nhân của việc từ chối hồ sơ. Tuy nhiên, Điều Khoản này sẽ không được hiểu là để yêu cầu một cơ quan lập pháp tiết lộ các thông tin nếu việc tiết lộ đó gây cản trở việc thực thi pháp luật hoặc trái với lợi ích chung hoặc quyền lợi an ninh thiết yếu;

f) Nếu một hồ sơ bị từ chối, người làm đơn sẽ có quyền nộp một hồ sơ mới nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới việc xin cấp phép trước đó.

Điều 8.6. Đầu mối liên lạc

Mỗi Bên của Chương này phải chỉ định một đầu mối liên lạc cấp quốc gia để tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa các Bên về các vấn đề quy định trong Chương này, và phải cung cấp thông tin chi tiết của đầu mối liên lạc đó cho Bên kia. Các Bên phải ngay lập tức thông báo cho nhau nếu có sự điều chỉnh thông tin của các đầu mối liên lạc này.

Điều 8.7. Từ chối lợi ích

Một Bên có thể từ chối cho hưởng lợi ích của Phần này đối với người của Bên kia, nếu Bên đó xác minh được rằng người này là pháp nhân nhưng không có hoạt động kinh doanh đáng kể trong lãnh thổ của Bên kia và thuộc sở hữu hoặc kiểm soát bởi người của:

a. bất kỳ nước thứ 3 nào; hoặc

b. Bên từ chối.

Điều 8.8. Các hạn chế để bảo vệ cán cân thanh toán

1. Mặc dù được quy định trong Điều 8.18 và 8.37 của Hiệp định này, mỗi Bên của Chương này có thể thông qua và duy trì các hạn chế về thương mại dịch vụ, thành lập và đầu tư đối với các cam kết của Bên phù hợp với Chương này, bao gồm về thanh toán và chuyển khoản cho giao dịch liên quan đến các cam kết quy định trong Điều 8.18 va 8.37 của Hiệp định này khi Bên đó gặp khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán và khó khăn tài chính với bên ngoài hoặc bị đe dọa bởi những vấn đề này, và phải thỏa mãn điều kiện là các hạn chế đó:

a) được áp dụng theo nguyên tắc MFN;

b) phù hợp với Điều lệ của Hiệp định của Quỹ Tiền tệ quốc tế;

c) tránh tổn hại không đáng có đối với lợi ích thương mại, kinh tế và tài chính của Bên khác của Chương này;

d) không vượt quá mức cần thiết để giải quyết các trường hợp quy định trong Khoản này;

e) là tạm thời và phải loại bỏ dần khi tình trạng quy định tại Khoản này được cải thiện.

2. Một Bên đưa ra hạn chế theo Khoản 1 Điều này phải nhanh chóng thông báo cho các Bên khác về biện pháp đó.

3. Trong việc xác định tác động của các hạn chế, các Bên của Chương này có thể dành ưu tiên cho việc cung cấp các dịch vụ mang tính nhạy cảm hơn đối với nền kinh tế hoặc các chương trình phát triển của mình. Tuy nhiên, các hạn chế đó không được thông qua hoặc duy trì vì mục đích bảo hộ một phân ngành dịch vụ cụ thể nào.

4. Không quy định nào trong Hiệp định này ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của một Bên của Chương này là thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế theo Điều lệ của Quỹ tiền tệ quốc tế, bao gồm cả việc sử dụng các hoạt động ngoại hối phù hợp với các Điều lệ của Quỹ tiền tệ quốc tế, với điều kiện là Bên đó của Chương này không đưa ra hạn chế nào trái với các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều này.

5. Điều Khoản này không thuộc quy trình giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 8.38 của Hiệp định này.

Điều 8.9. Gia nhập

1. Ngoài quy định tại Điều 15,2 của Hiệp định này, bất kỳ thành viên nào của Liên minh Kinh tế Á - Âu có thể tham gia vào Chương này với các điều kiện được Việt Nam và thành viên đó của Liên minh Kinh tế Á – Âu thống nhất liên quan đến Biểu cam kết và Danh mục bảo lưu.

2. Trong trường hợp một thành viên Liên minh Kinh tế Á - Âu tham gia Chương này, các Điều Khoản của Chương này sẽ không được áp dụng như là giữa các Bên vừa là thành viên của Chương này vừa là thành viên của Liên minh Kinh tế Á - Âu áp dụng cho nhau, và không dành cho Việt Nam đặc quyền và lợi ích mà các thành viên Liên minh Kinh tế Á-Âu dành cho nhau.

Điều 8.10. Sửa đổi

1. Ngoài quy định tại Điều 15,5 của Hiệp định này, Chương này có thể được sửa đổi thông qua văn bản được các Bên của Chương này thống nhất.

2. Các sửa đổi đối với Chương này tạo ra bởi việc gia nhập của một quốc gia thành viên Liên minh Kinh tế Á - Âu phải được các Bên của Chương này và thành viên Liên minh Kinh tế Á - Âu đó thống nhất bằng văn bản.

Điều 8.11. Tham vấn

1. Các Bên của Chương này phải tiến hành tham vấn theo yêu cầu của bất kỳ Bên nào về vấn đề liên quan đến cách hiểu hoặc đến việc áp dụng Chương này.

2. Các tham vấn quy định tại Khoản 1 Điều này có thể được thực hiện bởi Ủy ban hỗn hợp được thành lập phù hợp với Điều 1.4 của Hiệp định này.

3. Vì mục đích của Chương này, Ủy ban hỗn hợp sẽ cùng được điều hành bởi đại diện của các Bên của Chương này và bất kỳ quyết định nào của Ủy ban hỗn hợp về các vấn đề điều chỉnh bởi Chương này chỉ được đưa ra trên cơ sở đồng thuận của các Bên của Chương này.

Điều 8.12. Giải quyết tranh chấp giữa các Bên

1. Các Điều Khoản của Chương 14 (Giải quyết tranh chấp) của Hiệp định này áp dụng nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các Bên của Chương này liên quan đến vấn đề cách hiểu hoặc áp dụng Chương này với các sửa đổi quy định tại Khoản 2 của Điều đây.

2. Vì mục đích của Chương này:

a) Thuật ngữ “một Bên tranh chấp” nhắc đến trong Chương 14 của Hiệp định này nghĩa là “một Bên của Chương này”.

b) Yêu cầu tham vấn nhắc đến trong Khoản 2 Điều 14.6 của Hiệp định này phải được gửi cho Bên phản hồi bằng văn bản thông qua các Đầu mối liên lạc của mình được chỉ định theo Điều 8.6 của Hiệp định này.

c) Yêu cầu thành lập Ban Trọng tài nhắc đến tại Khoản 3 Điều 14.7 của Hiệp định này phải được gửi cho Bên phản hồi bằng văn bản thông qua các Đầu mối liên lạc được chỉ định theo Điều 8.6 của Hiệp định này.

d) Việc ngừng áp dụng ưu đãi nhắc đến trong Điều 14.15 của Hiệp định này chỉ có thể được thực hiện đối với các ưu đãi quy định trong Chương này.

Điều 8.14. Danh mục cam kết

Biểu cam kết cụ thể theo Phần II (Thương mại dịch vụ) và Danh mục bảo lưu theo Phần III (Thành lập, hiện diện thương mại và hoạt động), Biểu cam kết cụ thể theo Phần IV [Di chuyển thể nhân] và Danh mục loại trừ MFN sẽ được ký kết dưới dạng Nghị định thư giữa Liên bang Nga và CHXHCN Việt Nam

PHẦN II. THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ

Điều 8.14. Phạm vi

1. Phần này áp dụng đối với bất kỳ biện pháp nào của các Bên của Chương này gây ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ.

2. Phần này không áp dụng đối với trợ cấp hoặc các hình thức hỗ trợ cấp nhà nước hoặc địa phương dành cho dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của mình.

Điều 8.15. Đối xử tối huệ quốc

1. Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Phần này, mỗi Bên của Chương này phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia của Chương này đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước thứ 3 nào.

2. Một Bên của Chương này có thể duy trì một biện pháp không phù hợp với Khoản 1 Điều Khoản này với điều kiện biện pháp đó được liệt kê trong Danh mục riêng của Bên đó trong Phụ lục 1 của Nghị định thư số 1.

3. Các Điều Khoản của Phần này không được hiểu là để ngăn cản một Bên của Chương này trao hoặc dành các ưu tiên cho các nước chung biên giới nhằm tạo thuận lợi cho thương mại dịch vụ đối với dịch vụ được chỉ được cung cấp và tiêu thụ tại khu vực biên giới.

4. Không Điều Khoản nào của Hiệp định này được hiểu là để ép buộc một Bên dành cho dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia các đặc quyền và lợi ích mà Bên trước đó đang dành cho hoặc sẽ dành cho:

a) phù hợp với các hiệp định hội nhập kinh tế của Bên trước đó; hoặc

b) Theo các thỏa thuận tránh đánh thuế hai lần, hoặc các thỏa thuận khác về vấn đề đánh thuế.

Điều 8.16. Tiếp cận thị trường

1. Đối với việc tiếp cận thị trường theo các phương thức cung cấp dịch vụ được định nghĩa tại Điều 8.3 của Hiệp định này, mỗi Bên của Chương này phải dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia của Chương này đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử theo các Điều Khoản, hạn chế và điều kiện đã được thỏa thuận và quy định trong Biểu cam kết trong Phụ lục 2 của Nghị định thư số 11.

2 Trong các ngành có cam kết mở cửa thị trường, một Bên của Chương này không được ban hành hoặc duy trì những biện pháp sau đây, dù là ở quy mô vùng hoặc trên toàn lãnh thổ của Bên đó, trừ trường hợp được quy định trong Biểu cam kết của mình trong Phụ lục 2 của Nghị định thư số 1:

(a) hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ dù dưới hình thức hạn ngạch theo số lượng, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế;

(b) hạn chế về tổng trị giá giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức hạn ngạch theo số lượng, hoặc yêu cầu đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế;

(c) hạn chế về tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng đầu ra dịch vụ tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế.

Điều 8.17. Đối xử quốc gia

1. Trong các ngành được nêu trong Biểu cam kết trong Phụ lục 2 của Nghị định thư số 1, và tùy thuộc vào các điều kiện và tiêu chuẩn được quy định trong đó, mỗi Bên của Hiệp định này phải dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ nào Bên khác của Chương này đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của mình, đối với các biện pháp ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ.2

2. Một Bên có thể đạt yêu cầu của Khoản 1 bằng cách dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Bên khác nào đối xử tương tự chính thức hoặc đối xử khác biệt chính thức mà Bên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình.

3. Đối xử tương tự chính thức hoặc khác biệt chính thức sẽ được coi là ít ưu đãi hơn nếu đối xử đó làm giảm các điều kiện cạnh tranh đối với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của Bên đó trong Chương này so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ Bên khác nào trong Chương này.

Điều 8.18. Thanh toán và chuyển tiền

1. Trừ các trường hợp được xác định tại Điều 8.8 của Hiệp định, một Bên của Chương này không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển tiền quốc tế và thanh toán cho các giao dịch vãng lai liên quan tới các cam kết cụ thể quy định trong Phần này.

2. Không quy định nào trong Chương này ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của các Bên là thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế theo các Điều lệ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, bao gồm cả việc sử dụng các hoạt động ngoại hối phù hợp với các Điều lệ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, với điều kiện một Bên của Chương này không áp dụng hạn chế về bất kỳ giao dịch vốn nào trái với cam kết cụ thể trong Phần này liên quan đến giao dịch này, trừ trường hợp được quy định tại Điều 8.8 hoặc theo yêu cầu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế.

Điều 8.19. Công nhận

Điều VII của GATS sẽ được áp dụng giữa các Bên của Chương này, với những sửa đổi phù hợp.

PHẦN III. THÀNH LẬP, HIỆN DIỆN THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG

Điều 8.20. Phạm vi

1. Phần này áp dụng cho các biện pháp của các Bên theo Chương này ảnh hưởng đến việc thành lập, hiện diện thương mại và hoạt động.

2. Các quy định của Phần này sẽ áp dụng cho hiện diện thương mại được thành lập bởi thực thể của một Bên trong lãnh thổ của Bên kia vào ngày hoặc sau ngày Hiệp định có hiệu lực.

3. Phần này sẽ không áp dụng đối với việc cung cấp trợ cấp hay bất cứ hình thức hỗ trợ khác của Nhà nước hoặc của chính quyền thành phố dành cho thực thể và hiện diện thương mại của họ liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động.

Điều 8.21. Đối xử quốc gia

1. Liên quan đến việc thành lập và phù hợp với các bảo lưu trong Danh mục quốc gia quy định tại Phụ lục 3 của Nghị định thư số 1, mỗi Bên của Chương này, trên lãnh thổ của nước mình, sẽ dành cho các cá nhân của Bên kia theo Chương này đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho các cá nhân của nước mình trong trường hợp tương tự.

2. Liên quan đến hoạt động và phù hợp với các bảo lưu trong Danh mục quốc gia quy định tại Phụ lục 3 của Nghị định thư số 1, mỗi Bên của Chương này sẽ dành cho hiện diện thương mại được thành lập bởi cá nhân của Bên kia theo Chương này trên lãnh thổ của nước mình đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho hiện diện thương mại được thành lập bởi các cá nhân của nước mình trên lãnh thổ của Bên đó trong trường hợp tương tự.

Điều 8.22. Đối xử Tối huệ quốc

1. Liên quan đến việc thành lập và phù hợp với các bảo lưu trong Danh mục quốc gia quy định tại Phụ lục 1 của Nghị định thư số 1, mỗi Bên của Chương này, trên lãnh thổ của nước mình, sẽ dành cho các cá nhân của Bên theo Chương này kia đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho thực thể của nước thứ ba trong trường hợp tương tự.

2. Liên quan đến hoạt động và phù hợp với các bảo lưu trong Danh mục quốc gia quy định tại Phụ lục 1 của Nghị định thư số 1, mỗi Bên của Chương này sẽ dành cho hiện diện thương mại được thành lập bởi một cá nhân của Bên kia theo Chương này trên lãnh thổ của nước mình đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho hiện diện thương mại được thành lập bởi thực thể của Nước thứ ba trong trường hợp tương tự.

3. Để rõ nghĩa hơn, Điều này sẽ không áp dụng thủ tục hoặc cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế quy định tại Điều 8.38 của Hiệp định này.

4. Không có quy định nào của Hiệp định này được hiểu là buộc một Bên của Chương này phải dành cho các cá nhân của Bên kia theo Chương này hoặc hiện diện thương mại của họ quyền lợi mà Bên đó đang và sẽ dành cho trong tương lai:

a. phù hợp với các hiệp định hội nhập kinh tế của Bên đó; hoặc

b. trên cơ sở các hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hoặc các hiệp định về thuế khác.

Điều 8.23. Tiếp cận thị trường

Liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động, không Bên nào của Chương này được duy trì hay áp dụng các hạn chế đối với cá nhân của Bên kia theo Chương này và/hoặc hiện diện thương mại do các cá nhân này thành lập trong lãnh thổ của Bên đó, bao gồm:

a) Hình thức hiện diện thương mại, bao gồm hình thức pháp lý của thực thể;

b) Số lượng hiện diện thương mại được thành lập;

c) Giới hạn tối đa về tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong pháp nhân của một Bên của thực thể của Bên kia theo Chương này hoặc mức độ kiểm soát đối với pháp nhân đó; hoặc

d) Số lượng giao dịch/vận hành được thực hiện bởi hiện diện thương mại do cá nhân của Bên kia theo Chương này thành lập trong quá trình hoạt động dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về kiểm tra nhu cầu kinh tế;

trừ các hạn chế quy định tại Danh mục quốc gia của Bên đó tại Phụ lục 3 của nghị định thư số 1.

Điều 8.24. Yêu cầu thực hiện

1. Liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động và phù hợp 3với các bảo lưu quy định trong Danh mục quốc gia tại Phụ lục 3 của Nghị định thư số 1 , không Bên nào của Chương này được áp đặt hay thực hiện yêu cầu đối với hiện diện thương mại của các cá nhân của Bên kia theo Chương này được thành lập trong lãnh thổ của nước mình:

a. để xuất khẩu một mức hoặc tỷ lệ hàng hóa hay dịch vụ nhất định;

b. để mua, sử dụng, hoặc dành ưu tiên cho hàng hóa sản xuất trong lãnh thổ nước mình;

c. bằng cách này hay cách khác, nhằm tạo ra mối liên hệ giữa khối lượng hoặc giá trị hàng nhập khẩu với khối lượng hoặc giá trị hàng xuất khẩu hoặc với giá trị dòng ngoại hối chảy vào liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động đó;

d. để hạn chế việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ trong lãnh thổ của nước mình mà hiện diện thương mại đó sản xuất hoặc cung cấp thông qua việc tạo ra mối liên hệ theo cách bất kỳ giữa việc bán hàng đó với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc thu nhập từ ngoại hối của hiện diện thương mại đó;

e. để chuyển giao một công nghệ, quy trình sản xuất cụ thể hoặc thông tin độc quyền khác cho thực thể trong lãnh thổ của nước mình; hoặc

f. để độc quyền cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ do hiện diện thương mại đó sản xuất từ lãnh thổ của nước mình vào một thị trường khu vực cụ thể hoặc trên thị trường thế giới.

2. Không Bên nào của Chương này được ra điều kiện đối với việc nhận hoặc tiếp tục nhận ưu đãi liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động của hiện diện thương mại của các cá nhân Bên kia theo Chương này được thành lập trong lãnh thổ của nước mình phải phù hợp với các yêu cầu sau:

a. để mua, sử dụng, hoặc dành ưu tiên cho hàng hóa sản xuất trong lãnh thổ của nước mình;

b. bằng cách này hay cách khác, nhằm tạo ra mối liên hệ giữa khối lượng hoặc giá trị hàng nhập khẩu với khối lượng hoặc giá trị hàng xuất khẩu hoặc với giá trị dòng ngoại hối chảy vào liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động đó;

c. để hạn chế việc bán hàng hóa hoặc dịch vụ trong lãnh thổ của nước mình mà hiện diện thương mại đó sản xuất hoặc cung cấp thông qua việc tạo ra mối liên hệ theo cách bất kỳ giữa việc bán hàng đó với khối lượng hoặc giá trị xuất khẩu hoặc thu nhập từ ngoại hối của hiện diện thương mại đó.

3. Không quy định nào của đoạn 2 của Điều này được hiểu là ngăn cản một Bên của Chương này đưa ra điều kiện đối với việc nhận hoặc tiếp tục nhận ưu đãi liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động của thực thể của Bên kia theo Chương này và/hoặc hiện diện thương mại của thực thể đó được thành lập trong lãnh thổ của nước mình phải tuân thủ yêu cầu lựa chọn địa điểm sản xuất, cung cấp dịch vụ, đào tạo hay tuyển dụng lao động, xây dựng hay mở rộng cơ sở cụ thể, hoặc tiến hành nghiên cứu và phát triển trong lãnh thổ của Bên đó.

4. Để rõ nghĩa hơn, không quy định nào của đoạn 1 của Điều này được hiểu là ngăn cản một Bên của Chương này áp đặt hay thực thi bất cứ yêu cầu nào liên quan đến hiện diện thương mại của thực thể của Bên kia của Chương này, để tuyển dụng hoặc đào tạo lao động trong lãnh thổ của nước mình với điều kiện việc tuyển dụng hoặc đào tạo đó không đòi hỏi phải chuyển giao công nghệ, dây chuyền sản xuất cụ thể, hoặc thông tin độc quyền cho một thực thể ở trong lãnh thổ của Bên đó.

5. Đoạn (e) của Khoản 1 Điều này không áp dụng:

a. khi một Bên của Chương này uỷ quyền việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Điều 31 của Hiệp định TRIPS, hoặc đối với các biện pháp yêu cầu công bố thông tin độc quyền thuộc phạm vi, hoặc phù hợp với Điều 39 của Hiệp định TRIPS; hoặc

b. khi yêu cầu được áp đặt hoặc thực thi bởi tòa án hoặc cơ quan liên quan phù hợp với luật và luật cạnh tranh các quy định của Bên của Chương này áp đặt hoặc thực thi yêu cầu đó.

6. Các đoạn a và b của Khoản 1 Điều này, và đoạn a Khoản 2 Điều này không áp dụng đối với các tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa hoặc dịch vụ liên quan đến chương trình xúc tiến xuất khẩu và viện trợ nước ngoài.

7. Điều này không ảnh hưởng đến quy tắc xuất xứ áp dụng bởi một Bên của Chương này phù hợp với Chương 4 (Quy tắc xuất xứ) của Hiệp định này.

Điều 8.25. Quản lý cấp cao và Hội đồng quản trị

Liên quan đến việc thành lập và/hoặc hoạt động và phù hợp với các hạn chế quy định tại Danh mục quốc gia của một Bên theo Phụ lục 3 của Nghị định thư số 1 và phù hợp với điều kiện và hạn chế quy định tại Phần IV (Di chuyển thể nhân) của Chương này, không Bên nào của Chương này được yêu cầu pháp nhân của Bên kia chỉ định thể nhân có quốc tịch cụ thể vào các vị trí quản lý cấp cao.

PHẦN IV. DI CHUYỂN THỂ NHÂN

Điều 8.26. Phạm vi

1. Phần này áp dụng đối với các biện pháp ảnh hưởng đến việc tạm nhập và tạm trú của thể nhân của một Bên của Chương này vào trong lãnh thổ của Bên kia theo Chương này theo các phân loại cụ thể quy định trong Biểu của Bên kia đó trong Phụ lục 4 của Nghị định thư số 1. Các phân loại thể nhân này bao gồm:

a) khách doanh nhân;

b) nhân viên di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp;

c) người thành lập và vận hành dịch vụ;

d) nhà đầu tư

e) nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng.

Phần này không áp dụng đối với Điều Khoản trợ cấp hoặc các hình thức cấp nhà nước khác mà một Bên dành cho dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của mình quy định trong Phần này.

2. Phụ lục này không áp dụng đối với các biện pháp ảnh hưởng đến thể nhân của một Bên theo Chương này tìm cách gia nhập thị trường việc làm của Bên kia theo Chương này, cũng như các biện pháp về quyền công dân, việc định cư hoặc việc làm lâu dài.

3. Để rõ ràng hơn, không quy định nào của Hiệp định này được hiểu như một cam kết của một Bên đối trong Chương này với bất kỳ yêu cầu hoặc thủ tục nào liên quan đến cấp thị thực cho thể nhân của Bên kia theo Chương này.

4. Vì mục đích của Phần này, “tạm nhập cư hoặc tạm trú” nghĩa là việc đi vào và lưu trú của thể nhân một Bên theo Chương này mà không có ý định cư trú lâu dài trong lãnh thổ của Bên kia theo Chương này.

5. Không Bên nào của Chương này được áp đặt hay duy trì bất kỳ hạn ngạch theo số lượng hoặc yêu cầu đáp ứng kiểm tra nhu cầu kinh tế liên quan đến việc tạm nhập hoặc tạm trú của thể nhân nhắc đến tại đoạn 1 Điều này ngoại trừ quy định trong Biểu cam kết của mình trong Phụ lục 4 Nghị định thư số 1.

Điều 8.27.  Công nhận

Điều VII của GATS sẽ được áp dụng giữa các Bên của Chương này, với những sửa đổi phù hợp.

PHẦN V. ĐẦU TƯ

Điều 8.28. Định nghĩa

Vì mục đích của Phần này:

a) “Đầu tư” là bất cứ hình thức tài sản nào được đầu tư bởi nhà đầu tư của một Bên theo Chương này tại lãnh thổ của Bên kia theo Chương này phù hợp với luật pháp của nước mình, tài sản đó có đặc điểm của một khoản đầu tư, bao gồm các đặc điểm như cam kết về vốn hoặc nguồn lực khác, kỳ vọng về lợi nhuận và giả định về rủi ro, như:

i. tài sản cố định và lưu động cũng như bất kỳ quyền tài sản nào, chẳng hạn như cầm cố hoặc thế chấp;

ii. Cổ phần, cổ phiếu và bất kỳ hình thức tham gia vào vốn của một pháp nhân;

iii. Trái phiếu và trái khoán;

iv. Khoản tiền phải đòi hoặc các khoản phải đòi theo hợp đồng có giá trị kinh tế3 liên quan đến khỏan đầu tư;

v. quyền sở hữu trí tuệ;

vi. đặc quyền kế nghiệp;

vii. quyền thực hiện hoạt động kinh doanh có giá trị tài chính được quy định trong luật hoặc trong hợp đồng, bao gồm nhưng không giới hạn ở hợp đồng xây dựng, sản xuất, chia doanh thu và hợp đồng nhượng quyền, đặc biệt trong lĩnh vực thăm dò, phát triển, khai thác tài nguyên thiên nhiên.

Bất cứ thay đổi nào về hình thức mà theo đó tài sản được đầu tư hoặc tái đầu tư sẽ không ảnh hưởng đến đặc điểm đầu tư. Thay đổi đó phải được tiến hành phù hợp với pháp luật của một Bên theo Chương này, nơi mà khoản đầu tư được thực hiện.

b) “Nhà đầu tư của một Bên theo Chương này” là thể nhân hoặc pháp nhân của Bên đó theo Chương này phù hợp với pháp luật của nước mình, thực hiện đầu tư trong lãnh thổ của Bên kia theo Chương này.

3. “Lợi nhuận” là khoản tiền thu được từ đầu tư, bao gồm nhưng không giới hạn ở lợi tức, cổ tức, lãi, khỏan tăng vốn, tiền bản quyền và các phí khác.

4. “Đồng tiền tự do sử dụng” là đồng tiền tự do sử dụng theo quy định của Quỹ Tiền tệ quốc tế phù hợp với Điều lệ của Quỹ tiền tệ quốc tế.

Điều 8.29. Phạm vi

1. Phần này sẽ áp dụng cho mọi khoản đầu tư do nhà đầu tư của một Bên theo Chương này thực hiện trên lãnh thổ của Bên kia theo Chương này sau ngày 19/6/1981, đang tồn tại kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, nhưng không áp dụng cho bất cứ hành động hoặc sự kiện đã diễn ra hoặc bất kỳ tình huống hay tranh chấp đã phát sinh hoặc kết thúc trước khi Hiệp định có hiệu lực.

2. Đầu tư do nhà đầu tư của một Bên theo Chương này thực hiện trên lãnh thổ của Bên kia theo Chương này dưới hình thức thành lập và hiện diện thương mại, như định nghĩa và quy định tại Phần III (Thành lập, hiện diện thương mại và hoạt động) của Chương này sẽ không thuộc phạm vi áp dụng của Điều 8.30, 8.31, 8.32 và 8.33 của Hiệp định này.

3. Phần này sẽ không áp dụng đối với việc cung cấp trợ cấp hoặc các hình thức hỗ trợ khác của Nhà nước hay chính quyền thành phố đối với nhà đầu tư và khỏan đầu tư của họ, trừ trợ cấp hoặc các hình thức hỗ trợ khác của Nhà nước hay chính quyền thành phố đối với nhà đầu tư và khoản đầu tư của họ theo Điều 8.34 của Hiệp định này.

Điều 8.30. Xúc tiến và chấp thuận đầu tư

Mỗi Bên của Chương này sẽ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư của Bên kia tiến hành đầu tư trong lãnh thổ của mình và chấp thuận đầu tư của nhà đầu tư Bên kia theo Chương này phù hợp với luật và quy định của nước mình.

Điều 8.31. Đối xử công bằng và thỏa đáng, bảo hộ và an toàn đầy đủ

1. Mỗi Bên của Chương này sẽ dành cho đầu tư của nhà đầu tư Bên kia theo Chương này đối xử công bằng và thỏa đáng, bảo hộ và an toàn đầy đủ.

2. “Đối xử công bằng và thỏa đáng” được nêu ở Khoản 1 Điều này yêu cầu mỗi Bên của Chương này, đặc biệt là, không từ chối công lý trong thủ tục xét xử tư pháp và hành chính.

3. “Bảo hộ, an toàn đầy đủ” được nêu ở Khoản 1 của Điều này yêu cầu mỗi Bên theo Chương này thực hiện các biện pháp được coi là cần thiết một cách hợp lý để đảm bảo bảo hộ và an toàn cho đầu tư của nhà đầu tư Bên kia theo Chương này.

4. Liên quan đến đầu tư do nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này thực hiện trên lãnh thổ của một Bên theo Chương này, khái niệm “đối xử công bằng và thỏa đáng” và “bảo hộ, an toàn đầy đủ” được nêu ở Khoản 1 Điều này không yêu cầu đối xử thuận lợi hơn đối xử mà Bên nhận đầu tư dành cho nhà đầu tư của mình hoặc nhà đầu tư của Nước thứ ba phù hợp với luật pháp của nước mình.

5. Một quyết định cho rằng có sự vi phạm quy định khác của Hiệp định này hoặc quy định của một hiệp định quốc tế khác, không tạo thành vi phạm quy định của Điều này.

Điều 8.32. Đối xử quốc gia

1. Mỗi Bên của Chương này sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này và các khoản đầu tư của nhà đầu tư kia theo Chương này đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho nhà đầu tư của nước mình và khoản đầu tư của nhà đầu tư đó trên lãnh thổ của nước mình trong trường hợp tương tự.

2. Phù hợp với các luật và quy định của nước mình, mỗi Bên của Chương này bảo lưu quyền áp dụng và ban hành ngoại lệ về đối xử quốc gia, được đề cập tại Khoản 1 Điều này, đối với nhà đầu tư nước ngoài và đầu tư của họ, bao gồm cả tái đầu tư.

Điều 8.33. Đối xử tối huệ quốc

1. Mỗi Bên của Chương này sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này và các khỏan đầu tư của nhà đầu tư Bên kia theo Chương này đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử dành cho nhà đầu tư của Nước thứ ba và đầu tư của họ trên lãnh thổ của nước mình trong trường hợp tương tự.

2. Để rõ nghĩa hơn, Điều này không áp dụng thủ tục và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế quy định tại Điều 8.38 của Hiệp định này.

3. Không có quy định nào của Phần này được hiểu là buộc một Bên của Chương này phải dành cho nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này hoặc đầu tư của họ quyền lợi mà Bên đó đang và sẽ dành cho trong tương lai:

a. phù hợp với các hiệp định hội nhập kinh tế của Bên đó; hoặc

b. trên cơ sở hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hoặc các thỏa thuận liên quan phần lớn hoặc chủ yếu đến thuế.

Điều 8.34. Bồi thường thiệt hại

1. Đối với các biện pháp mà một Bên của Chương này áp dụng hoặc duy trì liên quan đến thiệt hại mà đầu tư do nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này thực hiện tại lãnh thổ của nước mình gánh chịu do chiến tranh hoặc xung đột vũ trang, nổi dậy, nổi loạn, cách mạng, bạo loạn, xung đột dân sự gây ra, Bên đó sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên kia và các khỏan đầu tư của nhà đầu tư đó đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Bên đó, trong trường hợp tương tự, dành cho:

a. nhà đầu tư của nước mình và khoản đầu tư của nhà đầu tư đó; hoặc

b. nhà đầu tư của Nước thứ ba và khoản đầu tư của nhà đầu tư đó.

Điều 8.35. Tước quyền sở hữu và bồi thường

1. Không Bên nào của Chương này được tước quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc áp dụng biện pháp có hậu quả tương tự như tước quyền sở hữu, quốc hữu hóa đối với đầu tư của nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này (sau đây gọi là “tước quyền sở hữu”), trừ trường hợp:

a) vì mục đích công cộng;

b) phù hợp với quy trình thủ tục theo pháp luật của Bên đó;

c) không phân biệt đối xử; và

d) thanh toán nhanh chóng, đầy đủ và hiệu quả khỏan bồi thường theo quy định tại Khoản 3 của Điều này.

2. Việc quyết định liệu một biện pháp hay hàng loạt biện pháp mà một Bên của Chương này thực hiện có tác động tương tự như quốc hữu hóa hoặc tước quyền sở hữu hay không đòi hỏi phải xem xét trên cơ sở thực tế, từng trường hợp, các nhân tố như:

a) ảnh hưởng kinh tế của biện pháp hoặc hàng loạt biện pháp đó, mặc dù thực tế duy nhất là biện pháp hoặc hàng loạt biện pháp đó do một Bên của Chương này thực hiện có tác động tiêu cực đến giá trị kinh tế của khoản đầu tư, không có nghĩa là việc tước quyền sở hữu đã xảy ra;

b) tính chất của biện pháp hoặc hàng loạt biện pháp mà một Bên thực hiện.

3. Việc bồi thường quy định tại đoạn d) Khoản 1 Điều này sẽ:

a) được thanh toán không chậm trễ;

b) tương đương với giá thị trường hợp lý của khỏan đầu tư bị tước đoạt được tính toán vào ngày mà việc tước quyền sở hữu được thực hiện hoặc dự kiến thực hiện được công bố chính thức, tuỳ trường hợp nào xảy ra sớm hơn.

c) được thanh toán bằng đồng tiền tự do sử dụng, hoặc, nếu được sự đồng ý của nhà đầu tư, bằng đồng tiền của Bên tước quyền sở hữu theo Chương này và được tự do chuyển nhượng phù hợp với quy định tại Điều 8.37 của Hiệp định này. Kể từ ngày tước quyền sở hữu đến ngày thanh toán, khoản bồi thường sẽ được cộng thêm lãi theo lãi suất thương mại trên thị trường.

5. Điều này không áp dụng cho việc cấp giấy phép bắt buộc liên quan quyền sở hữu tài sản trí tuệ theo quy định tại Hiệp định TRIPS.

6. Không phương hại đến các Khoản từ 1 đến 5 của Điều này, việc tước quyền sở hữu liên quan đến đất đai trong lãnh thổ của một Bên theo Chương này sẽ được tiến hành phù hợp với pháp luật của Bên đó nhằm mục đích đã được quy định trong pháp luật và được bồi thường, theo đó việc bồi thường có xem xét một cách hợp lý giá thị trường và thanh toán không chậm trễ phù hợp với pháp luật của Bên đó.

Điều 8.36. Thế quyền

1. Nếu một Bên của Chương này và cơ quan được chỉ định thanh toán cho nhà đầu tư của mình dưới hình thức bảo lãnh, hợp đồng bảo hiểm hoặc hình thức bồi thường rủi ro phi thương mại khác liên quan đến khoản đầu tư, Bên kia theo Chương này sẽ thừa nhận việc thế quyền hay chuyển nhượng bất cứ quyền hoặc khiếu nại của nhà đầu tư liên quan đến khoản đầu tư cho Bên nhận thế quyền hoặc cơ quan được chỉ định của Bên đó. Quyền hoặc khiếu nại được thế quyền hay chuyển nhượng sẽ không được lớn hơn quyền hoặc khiếu nại ban đầu của nhà đầu tư. Để rõ nghĩa hơn, quyền hoặc khiếu nại đó sẽ được thực hiện phù hợp với các luật và quy định của Bên kia, nhưng không phương hại đến các Điều 8.21, 8.22, 8.23, 8.24 và 8.25 của Hiệp định này.

2. Khi một Bên theo Chương này và cơ quan được chỉ định của Bên đó thanh toán cho nhà đầu tư của Bên kia và thế quyền hoặc khiếu nại của nhà đầu tư thì nhà đầu tư sẽ không được sở hữu những quyền đó nữa trừ phi được cơ quan do Bên đó ủy quyền hoặc cơ quan chỉ định của Bên đó thanh toán để thực hiện quyền và khiếu nại đối với Bên kia theo Chương này.

Điều 8.37. Chuyển tiền

1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 8.8 của Hiệp định này, mỗi Bên của Chương này sẽ đảm bảo cho nhà đầu tư của Bên kia, sau khi trả thuế và hoàn thành các nghĩa vụ khác phù hợp với luật và quy định của Bên đó, được tự do chuyển các khoản thanh toán từ đầu tư ra nước ngoài, cụ thể là:

a) Lợi nhuận;

b) các khỏan thanh toán nợ và tín dụng kèm theo lãi tích lũy được mỗi Bên của Chương này thừa nhận là khỏan đầu tư;

c) tiền lãi từ việc bán hoặc thanh lý toàn bộ hoặc một phần khoản đầu tư;

d) Khoản bồi thường quy định tại Điều 8.34 và 8.35 của Hiệp định này;

e) lương và thù lao của nhà đầu tư và thể nhân của Bên kia theo Chương này có được do làm việc liên quan đến khoản đầu tư trên lãnh thổ của Bên đó.

2. Việc chuyển tiền được thực hiện không chậm trễ bằng đồng tiền tự do sử dụng theo tỷ giá áp dụng vào ngày chuyển tiền phù hợp với pháp luật về ngoại hối của Bên theo Chương này mà khỏan đầu tư được tiến hành trên lãnh thổ của Bên đó.

Điều 8.38. Giải quyết tranh chấp giữa một Bên của Chương này và nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này

1. Tranh chấp giữa một Bên của Chương này và nhà đầu tư của Bên kia theo Chương này phát sinh từ một hành vi được cho là vi phạm nghĩa vụ trong Chương này của Bên đó liên quan đến khoản đầu tư mà nhà đầu tư tiến hành trên lãnh thổ nước mình sẽ được giải quyết thông qua hòa giải bằng cách thương lượng. Các cuộc thương lượng này có thể bao gồm việc sử dụng thủ tục liên quan đến bên thứ ba không có tính ràng buộc, ví dụ như hoà giải và dàn xếp.

2. Đề nghị bằng văn bản của nhà đầu tư đối với việc thương lượng đề cập ở Khoản 1 của Điều này sẽ bao gồm:

a) Tên và địa chỉ của nhà đầu tư, một bên liên quan đến tranh chấp;

b). Đối với mỗi khiếu kiện, quy định cụ thể của Chương này được cho là bị vi phạm;

c) cơ sở pháp lý và tình tiết của mỗi khiếu kiện; và

d) chế tài yêu cầu áp dụng và khoản bồi thường thiệt hại yêu cầu trả ở mức xấp xỉ.

3. Nếu một tranh chấp không được hòa giải bằng cách thương lượng trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày Bên tranh chấp nhận được đề nghị bằng văn bản của nhà đầu tư của Bên kia, tranh chấp đó sẽ được xem xét đệ trình theo lựa chọn của nhà đầu tư theo các cơ chế sau:

a) tòa án có thẩm quyền của một Bên theo Chương này mà khoản đầu tư được thực hiện trên lãnh thổ của Bên đó, hoặc

b) trọng tài vụ việc phù hợp với Nguyên tắc trọng tài của Uỷ ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), hoặc

c) trọng tài của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID), được thành lập theo Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà nước và nhà đầu tư của nước khác, ký tại Washington ngày 18/3/1965 (Công ước ICSID), với điều kiện cả Bên tranh chấp và Bên của nhà đầu tư liên quan đến tranh chấp đều là thành viên của Công ước ICSID, hoặc

d) trọng tài theo cơ chế phụ trợ của Công ước ICSID, với điều kiện Bên tranh chấp hoặc Bên của nhà đầu tư liên quan đến tranh chấp là thành viên Công ước ICSID, hoặc

e) bất cứ cơ quan trọng tài hoặc cơ chế trọng tài nào khác nếu các Bên liên quan đến tranh chấp đồng ý.

4. Việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp quy định ở Khoản 3 của Điều này là lựa chọn cuối cùng.

5. Quyết định của trọng tài sẽ là quyết định cuối cùng và bắt buộc đối với hai Bên liên quan đến tranh chấp. Các Bên của Chương này sẽ thực thi quyết định này theo luật và quy định trong nước.

6. Không khiếu kiện nào được đệ trình ra trọng tài theo quy định của Phần này nếu quá 3 năm kể từ ngày lần đầu tiên nhà đầu tư liên quan đến tranh chấp biết được hoặc đáng lẽ phải biết được hành vi bị cho là vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này.

7. Thể nhân sở hữu quốc tịch của một Bên của Chương này vào ngày thực hiện khỏan đầu tư không được khiếu kiện Bên đó theo quy định của Điều này.

Chương 8 bis.

DOANH NGHIỆP SỞ HỮU NHÀ NƯỚC, DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NẮM QUYỀN CHI PHỐI VÀ DOANH NGHIỆP CÓ ĐẶC QUYỀN

Điều 8 bis. 1. Phạm vi

Chương này áp dụng giữa Nga và CHXHCN Việt Nam.

Điều 8 bis. 2. Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước nắm quyền chi phối và Doanh nghiệp có đặc quyền

Việt Nam và Liên bang Nga sẽ đảm bảo rằng các doanh nghiệp Nhà nước sở hữu, doanh nghiệp Nhà nước nắm quyền chi phối và doanh nghiệp có đặc quyền của mình sẽ hoạt động phù hợp với cam kết WTO được ghi trong Báo cáo giao nhập WTO của Việt Nam và Liên bang Nga.

Chương 9

SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Điều 9.1.Mục tiêu

Các Bên khẳng định cam kết giảm thiểu các trở ngại tới thương mại và đầu tư bằng việc xúc tiến hội nhập kinh tế sâu hơn thông qua việc sáng tạo các tài sản trí tuệ và khai thác một cách đầy đủ và hiệu quả, bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, có tính đến sự khác biệt về luật pháp quốc gia cũng như trình độ phát triển kinh tế và năng lực, và nhu cầu duy trì sự cân bằng đúng mực giữa quyền của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đối với các đối tượng được bảo hộ bởi quyền sở hữu trí tuệ.

Điều 9.2. Định nghĩa

Với mục đích của Chương này

a) “Sở hữu trí tuệ” bao gồm bản quyền và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa), sáng chế (bao gồm cả giải pháp hữu ích), mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng và thông tin không bộc lộ.

b) “Chỉ dẫn địa lý” là chỉ dẫn nhằm xác định hàng hóa bắt nguồn từ một vùng lãnh thổ của một Bên hoặc một khu vực hay địa phương của vùng lãnh thổ đó, có chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quy định, như được định nghĩa tại Điều 22 Hiệp định TRIPS.

c) “Tên gọi xuất xứ hàng hóa” là tên địa lý cấu thành hoặc có chứa tên tắt hoặc đầy đủ, chính thức hay không chính thức, thời hiện tại hay trong lịch sử của một nước, vùng hoặc địa phương hoặc các khu vực địa lý khác, đã được biết tiếng thông qua việc sử dụng tại nước xuất xứ liên quan đến hàng hóa, mà chất lượng và đặc tính, hoàn toàn hoặc chủ yếu được quyết định bởi môi trường địa lý, bao gồm cả nhân tố tự nhiên và con người.

d) “Hàng hóa giả mạo nhãn hiệu” là bất cứ hàng hóa nào, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu hàng hóa trùng với nhãn hiệu hàng hóa đã được đăng ký hợp pháp cho hàng hóa đó, hoặc về cơ bản không thể phân biệt được với nhãn hiệu đã đăng ký, mà không được phép, và do vậy xâm phạm các quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đó theo pháp luật của nước nhập khẩu.

Định nghĩa hàng hóa giả mạo nhãn hiệu trên đây cũng được áp dụng với những sửa đổi thích hợp với hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý và giả mạo tên gọi xuất xứ

e) “Hàng xâm phạm bản quyền” nghĩa là bất cứ hàng hóa nào là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất , và hàng hóa đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm bản sao sản phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm bản quyền hoặc quyền liên quan theo pháp luật của nước nhập khẩu.

Điều 9.3. Các Điều ước quốc tế

1. Các Bên là thành viên của Hiệp định TRIPS tái khẳng định nghĩa vụ của mình đã được quy định trong Hiệp định này. Các Bên chưa phải là thành viên của Hiệp định TRIPS sẽ tuân theo những nguyên tắc cơ bản của Hiệp định TRIPS. Tất cả các Bên tái khẳng định nghĩa vụ của mình được quy định trong các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Bên đó là thành viên, cụ thể:

a) Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, 20/3/1883 (sau đây gọi là Công ước Paris);

b) Công ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm nghệ thuật và văn học, 9/9/1886;

c) Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức pháp sóng, 26/10/1961 (Công ước Rome)

d) Công ước bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm đối với các sao chép không được phép bản ghi âm của mình, 29/10/1971;

e) Thỏa ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu, 14/4/1891, và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, 27/6/1989;

f) Hiệp ước hợp tác sáng chế, 19/6/1970.

2. Các Bên không phải là thành viên của một hoặc các Điều ước quốc tế liệt kê dưới đây phải nỗ lực tham gia:

a) Hiệp ước WIPO về buổi biểu diễn và bản ghi âm, 20/12/1996;

b) Hiệp ước WIPO về bản quyền, 20/12/1996;

c) Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới, 2/12/1961 (Act 1991);

d) Hiệp ước Singapore về Luật nhãn hiệu, 27/3/2006.

3. Các Bên phải nỗ lực áp dụng các quy định của các Điều ước quốc tế dưới đây:

a) Thỏa ước Strasbourg liên quan đến Bảng phân loại sáng chế quốc tế, 24/3/1971;

b) Thỏa ước Nice liên quan đến bảng phân loại hàng hóa và dịch vụ quốc tế nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu, 15/6/1957;

c) Thỏa ước Locarno về việc công bố bảng phân loại kiểu dáng công nghiệp quốc tế, 8/10/1968.

Điều 9.4. Đối xử quốc gia

Mỗi Bên phải dành cho công dân của các Bên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho công dân nước mình trong việc bảo hộ quyền SHTT được quy định tại Điều 3 và Điều 5 Hiệp định TRIPS.

Điều 9.5. Đối xử tối huệ quốc

Mỗi Bên phải dành cho công dân của các Bên sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho công dân của bất kỳ quốc gia nào trong việc bảo hộ quyền SHTT theo quy định tại Điều 4 và Điều 5 Hiệp định TRIPS.

Điều 9.6. Bản quyền và quyền liên quan

1. Không phương hại tới các nghĩa vụ được quy định trong các Điều ước quốc tế mà các Bên là thành viên, mỗi Bên phải, tùy theo pháp luật quốc gia, đảm bảo và quy định những biện pháp bảo hộ hiệu quả lợi ích của tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng cho các tác phẩm, buổi biểu diễn, bản ghi âm và chương trình phát sóng của họ.

2. Mỗi Bên phải hướng tới việc đảm bảo rằng pháp luật quốc gia bảo đảm sự bảo hộ có hiệu quả và quy định các biện pháp thực thi quyền tác giả và quyền liên quan trong môi trường số.

Điều 9.7. Nhãn hiệu

Các Bên phải đưa ra sự bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả nhãn hiệu cho hàng hóa và dịch vụ, theo pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế mà Bên đó là thành viên và Hiệp định TRIPS, cụ thể là Điều 15 đến Điều 21.

Điều 9.8. Chỉ dẫn địa lý/Tên gọi xuất xứ hàng hóa

1. Mỗi Bên phải đảm bảo các biện pháp bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả, trong phạm vi lãnh thổ của mình, các chỉ dẫn địa lý và (hoặc) tên gọi xuất xứ hàng hóa, theo pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế mà Bên đó là thành viên và Hiệp định TRIPS, cụ thể là các Điều từ 22 tới Điều 24.

2. Các quy định về tên gọi xuất xứ hàng hóa trong Chương này phải được áp dụng với cả tên gọi mà tên gọi này cho phép xác định hàng hóa xuất xứ từ lãnh thổ của một khu vực địa lý cụ thể và mặc dù nó không chứa tên của khu vực đó, nó vẫn đạt được danh tiếng thông qua việc sử dụng tên gọi này cho hàng hóa mà chất lượng và đặc tính của nó đáp ứng các yêu cầu được quy định tại Đoạn c) Điều 9.2 của Hiệp định này.

3. Các Bên ghi nhận rằng mỗi Bên có thể bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua một hệ thống bảo hộ tên gọi xuất xứ riêng phù hợp với pháp luật quốc gia.

Bên có hệ thống bảo hộ này không bị buộc phải quy định một hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý riêng biệt. Các Bên phải quy định các biện pháp pháp lý khác trong hệ thống pháp luật tương ứng để bảo hộ các chỉ dẫn địa lý không phải là tên gọi xuất xứ hàng hóa, chẳng hạn như nhãn hiệu tập thể và (hoặc) nhãn hiệu chứng nhận.

Định nghĩa tên gọi xuất xứ hàng hóa trong Đoạn c) Điều 9.2 Hiệp định này và Khoản 2 Điều này chỉ áp dụng cho các Bên có hệ thống bảo hộ tên gọi xuất xứ riêng tại thời điểm Hiệp định này có hiệu lực.

4. Liên quan đến chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa, các Bên phải quy định các biện pháp pháp lý để các Bên liên quan để ngăn ngừa:

a) việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hóa nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hóa đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý;

b) bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris

5. Không quy định nào trong Chương này yêu cầu một Bên phái áp dụng các quy định của mình cho một chỉ dẫn địa lý và (hoặc) tên gọi xuất xứ hàng hóa của bất kỳ Bên nào dùng cho hàng hóa hoặc dịch vụ nếu chỉ dẫn đó là trùng với thuật ngữ mà theo ngôn ngữ phổ thông là tên gọi thông thường cho hàng hóa hoặc dịch vụ đó trong phạm vi lãnh thổ của Bên đó.

6. Nhằm bảo hộ lợi ích của các nhà sản xuất, các Bên sẽ trao đổi danh sách các chỉ dẫn địa lý và (hoặc) tên gọi xuất xứ hàng hóa đã được đăng ký liên quan đến hàng hóa được sản xuất tại lãnh thổ của mình. Các Bên có thể đồng ý trao đổi danh sách các chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo các quy định pháp luật khác. Các thủ tục thích hợp cho việc trao đổi này sẽ được quyết định bởi cơ quan có thẩm quyền của các Bên theo các quy định tại Điều 9.17 của Hiệp định này.

Các Bên có thể đồng ý tiến tới đàm phán về việc bảo hộ lẫn nhau các chỉ dẫn địa lý và (hoặc) tên gọi xuất xứ hàng hóa tùy thuộc vào chính sách và pháp luật quốc gia, nguồn lực sẵn có và sự tự nguyện của mỗi Bên.

7. Mỗi Bên phải, mặc nhiên nếu pháp luật quốc gia cho phép như vậy hoặc theo yêu cầu của bên liên quan, từ chối hoặc hủy bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu hàng hóa có chứa hoặc được cấu thành bằng một chỉ dẫn địa lý và (hoặc) tên gọi xuất xứ hàng hóa dùng cho hàng hóa không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó trên nhãn hiệu hàng hóa cho những hàng hóa như vậy tại Bên đó khiến công chúng hiểu sai về xuất xứ thực.

Điều 9.9. Sáng chế và mẫu hữu ích

1. Mỗi Bên phải quy định các biện pháp bảo hộ sáng chế một cách đầy đủ và có hiệu quả theo pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế mà Bên đó là thành viên và Hiệp định TRIPS, cụ thể là từ Điều 27 tới Điều 34.

2. Mẫu hữu ích phải được bảo hộ theo pháp luật quốc gia và Công ước Paris.

Điều 9.10. Kiểu dáng công nghiệp

Mỗi Bên phải quy định các biện pháp bảo hộ kiểu dáng công nghiệp một cách đầy đủ và có hiệu quả theo pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế mà Bên đó là thành viên và Hiệp định TRIPS, cụ thể là từ Điều 25 tới Điều 26.

Điều 9.11. Thiết kế bố trí mạch tích hợp

Mỗi Bên phải quy định các biện pháp bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp một cách đầy đủ và có hiệu quả theo pháp luật quốc gia, Điều ước quốc tế mà Bên đó là thành viên và Hiệp định TRIPS, cụ thể là từ Điều 35 tới Điều 38.

Điều 9.12. Giống cây trồng mới

Mỗi Bên nhận thức tầm quan trọng trong việc quy định trong pháp luật quốc gia hệ thống bảo hộ giống cây trồng mới và phải nỗ lực quy định các biện pháp bảo hộ tất cả các giống và loài thực vật theo Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới, 19/3/1991 và Hiệp định TRIPS.

Điều 9.13. Thông tin không bộc lộ

Mỗi Bên phải đảm bảo trong pháp luật quốc gia các biện pháp bảo hộ thông tin không bộc lộ một cách đầy đủ và có hiệu quả theo pháp luật quốc gia và Hiệp định TRIPS, cụ thể là Điều 39.

Điều 9.14. Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh

Mỗi Bên phải đảm bảo các biện pháp bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hiệu quả theo pháp luật quốc gia và Điều 10bis của Công ước Paris.

Điều 9.15. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Mỗi Bên phải đảm bảo trong pháp luật quốc gia các biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở mức tương đương như quy định tại Hiệp định TRIPS, cụ thể là từ Điều 41 đến Điều 50.

Điều 9.16. Kiểm soát biên giới

1. Các Bên phải đảm bảo thực thi có hiệu quả các biện pháp kiểm soát biên giới theo các Điều 51 đến 57, Điều 59, 60 của Hiệp định TRIPS và các biện pháp, thủ tục và đền bù bổ sung, được quy định bởi pháp luật liên quan đến thủ tục hải quan, phải sẵn có để cho phép các hành động ngăn chặn hiệu quả hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ, hàng sao lậu bản quyền.

2. Các Bên, trừ phi quy định khác trong Hiệp định này, phải ban hành các thủ tục cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu hay xuất khẩu các hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ, hàng sao lậu bản quyền đang được tiến hành, được đệ đơn tới cơ quan hải quan yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo hộ quyền SHTT, với quy định rằng việc nhập khẩu hay xuất khẩu này xâm phạm quyền SHTT theo pháp luật quốc gia nơi hàng hóa được phát hiện.

3. Với điều kiện không làm ảnh hưởng tới việc bảo hộ thông tin bí mật, cơ quan hải quan phải có thẩm quyền quyền dành cơ hội cho chủ thể quyền được yêu cầu tiến hành kiểm tra bất kỳ hàng hóa nào bị cơ quan hải quan ngăn giữ để chứng minh yêu cầu của mình. Cơ quan hải quan cũng phải có quyền tạo cơ hội tương đương cho người nhập khẩu yêu cầu tiến hành kiểm tra bất cứ hàng hóa nào như vậy. Cơ quan hải quan phải thông báo cho chủ thể quyền biết về tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hóa đó. Cơ quan hải quan phải thông báo cho chủ hàng bị tạm giữ thông tin về người nắm quyền, ít nhất là tên và địa chỉ.

4. Khuyến khích các Bên loại trừ áp dụng các quy định trên đối với hàng hóa phi thương mại với số lượng nhỏ là hành lý cá nhân.

Điều 9.17. Cơ quan có thẩm quyền, đầu mối liên lạc và trao đổi thông tin

1. Vào thời điểm có hiệu lực của Hiệp định này, các Bên phải thông báo cho nhau về cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm về việc thực hiện các thủ tục theo quy định trong Chương này, và về đầu mối được chỉ định của mỗi Bên để trợ giúp liên lạc giữa các Bên về bất kỳ vấn đề nào liên quan trong Chương này.

2. Các Bên phải thông tin cho nhau thường xuyên về bất kỳ thay đổi nào về đầu mối hay bất kỳ thay đổi đáng kể nào về cấu trúc hoặc thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền của mình.3. Các Bên thông qua đầu mối của mình phải cung cấp cho nhau các thông báo bằng văn bản kịp thời về bất kỳ vấn đề quan trọng nào hay bất kỳ thay đổi nào về khung pháp lý về SHTT, và nếu cần thiết, đề nghị tham vấn để giải quyết các khía cạnh của vấn đề.

4. Với mục tiêu đẩy mạnh quan hệ hợp tác, các Bên đồng ý trao đổi bằng văn bản và (hoặc) nhanh chóng tổ chức gặp gỡ chuyên gia, trên cơ sở đề nghị của bất kỳ Bên nào, có tính đến khả năng tài chính của các Bên, về các vấn đề liên quan đến các Điều ước quốc tế được đề cập trong Chương này hoặc các Điều ước quốc tế trong tương lai trong lĩnh vực SHTT, hay liên quan đến việc trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, như WTO và WIPO, cũng như liên quan đến mối quan hệ của các Bên với các nước thứ ba về các vấn đề liên quan đến SHTT và các vấn đề khác nhằm thi hành Chương này.

Chương 10

MUA SẮM CHÍNH PHỦ

Điều 10.1. Hợp tác

1. Các Bên nhận thức tầm quan trọng của việc hợp tác trong lĩnh vực mua sắm chính phủ phù hợp với pháp luật, quy định của từng Bên trên cơ sở nguồn lực sẵn có.

2. Các Bên có trách nhiệm hợp tác vì mục tiêu tăng cường tính minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ điện tử trong lĩnh vực mua sắm chính phủ.

3. Các Bên có trách nhiệm thông báo cho nhau càng sớm càng tốt về bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong hệ thống pháp luật và quy định và/hoặc quy trình mua sắm chính phủ của mình.

4. Các hoạt động hợp tác, bao gồm việc trao đổi, nếu thấy phù hợp, các thông tin không nhạy cảm, sự tham vấn như quy định tại Điều 10.3 của Hiệp định này; và hỗ trợ kỹ thuật.

5. Các Bên sẽ nỗ lực hợp tác trong các hoạt động sau:

a. tăng cường sự tham gia của các nhà thầu vào các gói thầu mua sắm chính phủ, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa;

b. trao đổi kinh nghiệm và thông tin, như khuôn khổ pháp lý, các thực tiễn tốt nhất và số liệu thống kê;

c. phát triển và đẩy mạnh ứng dụng phương tiện điện tử trong mua sắm chính phủ;

d. tăng cường năng lực cho cán bộ nhà nước về các thực tiễn tốt nhất trong công tác mua sắm chính phủ,

e. and củng cố thể chế nhằm thực thi các quy định trong Chương này; và

f. tăng cường khả năng tổ chức các gói thầu mua sắm chính phủ bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.

6. Các Bên có trách nhiệm mở rộng hợp tác trên cơ sở kinh nghiệm của mỗi Bên trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, bao gồm cả các hình thức đấu thầu điện tử.

Điều 10.2. Thông tin về Hệ thống Đấu thầu

1. Để đảm bảo tính minh bạch, các Bên có trách nhiệm đăng tải công khai các quy định pháp luật của mình liên quan đến mua sắm chính phủ.

2. Các Bên có trách nhiệm trao đổi danh sách các kênh truyền thông mà mình sử dụng để đăng tải thông tin liên quan về mua sắm chính phủ.

3. Trên cơ sở những nguồn lực sẵn có, các Bên sẽ nỗ lực xây dựng và duy trì các phương tiện điện tử nhằm đăng tải các quy định pháp luật và thông tin của mình về mua sắm chính phủ.

4. Mỗi Bên có thể mở rộng nội dung thông tin về mua sắm chính phủ và phạm vi dịch vụ được cung cấp qua các phương tiện điện tử.

Điều 10.3. Tham vấn

1. Trường hợp xảy ra bất kỳ bất đồng nào liên quan đến việc áp dụng các quy định của Chương này, các Bên sẽ nỗ lực tìm kiếm giải pháp thỏa đáng thông qua tham vấn.

2. Mỗi Bên có trách nhiệm ủng hộ và tạo điều kiện cho hoạt động tham vấn trong quá trình thực thi Chương này.

3. Yêu cầu tiến hành thanh vấn của một Bên phải được gửi tới đầu mối liên lạc của Bên kia như quy định tại Điều 10.5 của Hiệp định này. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, các Bên có trách nhiệm tiến thành tham vấn trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn.

4. Hoạt động tham vấn có thể được tiến hành trực tiếp hoặc qua thư điện tử, điện thoại, truyền hình hay bất kỳ phương tiện nào khác mà các Bên nhất trí.

Điều 10.4. Không áp dụng Chương 14 (Giải quyết tranh chấp)

Bất kỳ vấn đề nào phát sinh trong khuôn khổ Chương này không chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp quy định tại Chương 14 (Giải quyết tranh chấp) của Hiệp định này.

Điều 10.5. Đầu mối liên lạc

1. Mỗi Bên sẽ chỉ định một đầu mối liên lạc để giám sát quá trình thực thi Chương này. Đầu mối liên lạc của các Bên có nghĩa vụ phối hợp với nhau để hỗ trợ việc thực thi Chương này.

2. Các Bên có trách nhiệm cung cấp cho nhau tên và thông tin liên lạc của đầu mối liên lạc của mình.

3. Các Bên có nghĩa vụ nhanh chóng thông báo cho nhau về bất kỳ thay đổi nào liên quan đến đầu mối liên lạc.

Điều 10.6. Đàm phán trong tương lai

Các Bên có thể khởi động đàm phán nhằm tự do hóa thị trường mua sắm chính phủ và thảo luận các vấn đề về tiếp cận thị trường tiềm năng, nếu cần thiết.

Chương 11

CẠNH TRANH

Điều 11.1. Các nguyên tắc cơ bản

1. Các bên ghi nhận tầm quan trọng của cạnh tranh tự do và không bị bóp méo trong quan hệ thương mại giữa các Bên và tôn trọng sự khác biệt về năng lực của các Bên trong lĩnh vực chính sách cạnh tranh.

2. Mỗi Bên cần phải áp dụng các biện pháp thỏa đáng để cấm các hành vi phản cạnh tranh phù hợp với pháp luật và quy định của Bên đó, nhằm thúc đẩy hoạt động hiệu quả của thị trường mỗi Bên và phúc lợi của người tiêu dùng

3. Các biện pháp mà mỗi Bên áp dụng hoặc duy trì nhằm cấm hành vi phản cạnh tranh cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc minh bạch, không phân biệt đối xử và công bằng.

Điều 11.2. Các hành vi phản cạnh tranh

1. Các Bên cần phải áp dụng tất cả biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật và quy định của mình nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế các hành vi phản cạnh tranh gây ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên. Cần đặc biệt lưu ý những hành vi không phù hợp với chức năng phù hợp của Hiệp định này như sau:

a) Tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của các Hiệp hội doanh nghiệp và các hành vi phối hợp cùng hành động nhằm mục đích hoặc có tác động ngăn cản, hạn chế hoặc bóp méo cạnh tranh;

b) Hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh của một hoặc một nhóm doanh nghiệp;

c) Cạnh tranh không công bằng.

2. Các vấn đề liên quan đến độc quyền nhà nước hoặc doanh nghiệp công ích hoặc doanh nghiệp được hưởng đặc quyền hoặc độc quyền không phải là đối tượng điều chỉnh của Chương này.

Điều 11.3. Hợp tác

1. Các Bên ghi nhận tầm quan trọng của các hoạt động hợp tác trong thực thi luật cạnh tranh và chính sách cạnh tranh. Việc hợp tác cần phải phù hợp với pháp luật và quy định của mỗi Bên và dựa trên khuôn khổ sẵn có các nguồn lực cần thiết. Hợp tác sẽ bao gồm việc trao đổi thông tin không bảo mật, tham vấn và hợp tác trong hoạt động thực thi được quy định tại Khoản 2 Điều này, và hỗ trợ kỹ thuật gồm có:

a) trao đổi kinh nghiệm về việc nâng cao thực thi pháp luật và chính sách cạnh tranh;

b) các Hội thảo chung về luật cạnh tranh và hoạt động thực thi Luật của các Bên;

c) bất kỳ hình thức hợp tác nào được các Bên thống nhất.

2. Hợp tác trong thực thi pháp luật được thực hiện như sau:

a) Nếu một Bên cho rằng quyền lợi của mình bị ảnh hưởng trong phạm vi lãnh thổ của Bên kia theo cách hiểu của Điều 11.2 của Hiệp định này, Bên bị ảnh hưởng có thể yêu cầu Bên kia khởi xướng các hoạt động thực thi phù hợp. Yêu cầu này cần phải đưa ra, nếu có thể, trong giai đoạn đầu diễn ra các hành vi phản cạnh tranh được dẫn chiếu tại Điều 11.2 của Hiệp định này và nên có đầy đủ thông tin chi tiết;

b) Bên được yêu cầu sẽ xem xét cẩn trọng khả năng tiến hành thực thi các hoạt động hoặc mở rộng phạm vi hoạt động đang có phù hợp với yêu cầu của pháp luật và quy định của Bên đó và thông báo cho Bên yêu cầu về kết quả của những xem xét này một cách sớm nhất có thể;

c) Nếu các hoạt động thực thi được tiến hành hoặc mở rộng, Bên được yêu cầu phải thông báo cho Bên yêu cầu kết quả và tiến triển nổi bật trong quá trình thực thi trong phạm vi có thể;

d) Không có quy định nào trong Chương này hạn chế quyền của Bên được yêu cầu quyết định có áp dụng các hoạt động thực thi đối với các hành vi phản cạnh tranh nêu trong yêu cầu hay không, hoặc loại trừ việc Bên yêu cầu rút lại yêu cầu của mình.

Điều 11.4. Tham vấn

1. Nhằm thúc đẩy hiểu biết giữa các Bên, hoặc để giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh từ Chương này, mỗi Bên cần phải tiến hành tham vấn nếu như có yêu cầu của Bên kia. Việc tham vấn này sẽ không làm ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật và quy định của mỗi Bên. Trong yêu cầu tham vấn, Bên yêu cầu cần phải chỉ rõ vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên. Bên nhận được yêu cầu tham vấn cần phải nhanh chóng tổ chức tham vấn để đạt được kết quả mà hai Bên thỏa mãn phù hợp với các Điều Khoản của Chương này.

2. Trong quá trình tham vấn quy định tại Điều này, Bên được yêu cầu cần phải xem xét một cách đầy đủ và thỏa đáng đối với vấn đề đưa ra trong tham vấn trong một khoảng thời gian hợp lý. Hai Bên cần phải nỗ lực để đạt được đồng thuận về vấn đề quan ngại thông qua đối thoại mang tính xây dựng.

3. Nếu một Bên cho rằng các lợi ích của mình vẫn còn bị ảnh hưởng sau tham vấn theo quy định tại Điều này, Bên đó có thể yêu cầu tham vấn trong khuôn khổ Ủy ban hỗn hợp.

Điều 11.5. Sử dụng thông tin

1. Khi một Bên cung cấp thông tin cho Bên kia nhằm thực thi các Điều Khoản trong Chương này, Bên được cung cấp chỉ được sử dụng thông tin với mục đích thực thi và không được công bố hoặc chuyển thông tin cho bất kỳ tổ chức khác và/hoặc cá nhân mà không có sự đồng ý của Bên cung cấp thông tin.

2. Dù có quy định trong Chương này, không một Bên nào phải trao đổi thông tin cho Bên kia nếu việc trao đổi này bị cấm theo pháp luật và quy định tương ứng của Bên đó.

Điều 11.6. Không áp dụng Chương 14 (Giải quyết tranh chấp)

Bất kỳ vấn đề nào phát sinh từ Chương này không phải là đối tượng của cơ chế giải quyết tranh chấp quy định tại Chương 14 (Giải quyết tranh chấp) của Hiệp định này.

Điều 11.7. Đầu mối liên lạc

1. Mỗi Bên cần phải chỉ định một đầu mối liên lạc để theo dõi việc thực thi Chương này. Đầu mối liên lạc cần phải hợp tác để tạo điều kiện thực thi các Điều Khoản của Chương này.

2. Các Bên cần phải trao đổi thông tin về tên của cơ quan chức năng thực thi được chỉ định làm đầu mối và các chi tiết liên lạc của bộ phận liên quan trong cơ quan đó, bao gồm số điện thoại, số fax, địa chỉ email và những thông tin khác có liên quan.

3. Các Bên cần phải nhanh chóng thông báo cho nhau bất kỳ những thay đổi về đầu mối liên lạc hoặc chi tiết để liên lạc có liên quan.

Chương 12

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Điều 12.1. Mục tiêu

1. Các Bên đã đồng ý thực hiện Chương này một cách phù hợp với bảo hộ lao động và môi trường, và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên của các Bên. Về vấn đề này, các Bên sẽ:

a) tăng cường hợp tác về các vấn đề môi trường và lao động;

b) thúc đẩy phát triển bền vững.

2. Các Bên thừa nhận rằng phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường là những thành tố phụ thuộc lẫn nhau và hỗ trợ lẫn nhau cho phát triển bền vững.

3. Các Bên sẽ nỗ lực thúc đẩy quan hệ thương mại của các Bên nhằm phát triển bền vững hết mức có thể.

Điều 12.2. Phạm vi

Chương này áp dụng đối với các biện pháp môi trường và lao động liên quan đến thương mại được các Bên thông qua hoặc duy trì.

Điều 13.3. Các nguyên tắc chung

1. Các bên thừa nhận tầm quan trọng và nhu cầu tăng cường hợp tác để giải quyết các vấn đề môi trường và lao động liên quan đến thương mại, tính đến mức độ phát triển của các Bên.

2. Các bên thừa nhận nhu cầu tăng cường hợp tác nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và lao động mà thu hút sự quan tâm của hai Bên, khu vực và toàn cầu.

3. Các Bên thừa nhận chủ quyền của mỗi Bên về việc xác định mức độ riêng của mình về bảo vệ môi trường và lao động, những chính sách và ưu tiên về phát triển môi trường và lao động, cũng như việc áp dụng hoặc sửa đổi luật pháp và chính sách của mình về môi trường và lao động.

4. Các Bên thừa nhận tầm quan trọng của việc xem xét các thông tin khoa học, kỹ thuật và các thông tin khác cũng như các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan  và được thừa nhận chung khi chuẩn bị và thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường và lao động mà có ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên.

5. Các Điều Khoản của Chương này sẽ không ảnh hưởng đến nghĩa vụ của các Bên theo các Chương khác của Hiệp định này, kể cả Chương 8 (Thương mại dịch vụ, đầu tư, di chuyển thể nhân).

Điều 12.4. Duy trì các mức độ bảo vệ

1. Các Bên thừa nhận vai trò hỗ trợ lẫn nhau của các chính sách và thực tiễn thương mại, môi trường và lao động, cũng như những nỗ lực để cải thiện bảo vệ môi trường và lao động và tăng cường thương mại giữa các Bên.

2. Mỗi Bên sẽ nỗ lực bảo đảm rằng luật, chính sách và thực tiễn môi trường và lao động không được sử dụng cho các mục đích bảo hộ thương mại.

3. Bất kỳ Bên nào sẽ không tìm cách khuyến khích hoặc đạt được lợi thế thương mại hoặc đầu tư bằng cách làm suy yếu hoặc không thi hành hoặc không quản lý các pháp luật, chính sách và thực tiễn môi trường và lao động theo cách làm ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên thông qua hàng loạt hành động hoặc không hành động .

Điều 12.5. Hợp tác môi trường và lao động

1. Các Bên thừa nhận tầm quan trọng của việc tăng cường năng lực nhằm bảo vệ môi trường và điều kiện lao động và thúc đẩy phát triển bền vững trong quan hệ thương mại và đầu tư của mình theo quy định và luật pháp của mỗi Bên.

2. Các Bên sẽ cố gắng mở rộng quan hệ hợp tác trên các diễn đàn song phương, khu vực và đa phương về các vấn đề môi trường và lao động, thừa nhận rằng sự hợp tác này sẽ giúp các Bên đạt được các mục tiêu và mục đích chung về môi trường và lao động, bao gồm phát triển và cải thiện công nghệ, thực tiễn, việc bảo vệ môi trường và lao động.

3. Hợp tác trong Chương này có thể có các hình thức sau:

a) trao đổi kiến thức và kinh nghiệm;

b) trao đổi chuyên gia và các nhà nghiên cứu;

c) tổ chức các hội thảo chung;

d) thúc đẩy các hoạt động hợp tác giữa các Bộ , các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp tư nhân có liên quan và;

e) phát triển và thực hiện các nghiên cứu, các dự án chung và các hoạt động khác có liên quan trong lĩnh vực cùng quan tâm.

4. Các Bên thừa nhận các lĩnh vực sau đây về hợp tác là đặc biệt quan trọng:

a) giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại;

b) phát triển chính sách môi trường và xây dựng thể chế;

c) đào tạo và giáo dục về môi trường và các vấn đề về biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường;

d) trao đổi kinh nghiệm và thông tin trong việc phát triển và thực thi pháp luật và chính sách liên quan đến lao động và việc làm;

e) hỗ trợ kỹ thuật và các dự án hợp tác/ chung về phát triển nguồn nhân lực và chính sách an sinh xã hội nhằm tạo điều kiện làm việc bền vững hay về bảo vệ môi trường;

f) các lĩnh vực hai Bên thỏa thuận khác phù hợp với pháp luật và các quy định có liên quan của các Bên;

g) trao đổi thông tin, công nghệ và kinh nghiệm trong lĩnh vực tiêu chuẩn và các mô hình, đào tạo và giáo dục về môi trường;

h) giáo dục và đào tạo về môi trường nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng; và

i) hỗ trợ kỹ thuật và các chương trình nghiên cứu khu vực chung.

Điều 12.6. Tham vấn lao động và môi trường

1. Một Bên có thể yêu cầu tham vấn với Bên kia về bất kỳ vấn đề phát sinh của Chương này bằng cách cung cấp một văn bản yêu cầu gửi tới đầu mối liên lạc mà Bên kia đã chỉ định theo Điều 6 (Đầu mối liên lạc) của Hiệp định này. Yêu cầu bao gồm thông tin cụ thể và đầy đủ để giúp Bên nhận được yêu cầu trả lời. Trừ khi các Bên có thỏa thuận khác, tham vấn sẽ bắt đầu trong vòng 30 ngày sau khi bên kia nhận được đề nghị tham vấn.

2. Mục đích của các cuộc tham vấn là để tìm kiếm một giải pháp đồng thuận đối với vấn đề được nêu. Các Bên sẽ cố gắng hết sức để đi đến một kết quả thỏa đáng đối với cả hai Bên, kể cả bằng cách xem xét các hoạt động hợp tác thích hợp để giải quyết vấn đề này. Các bên có thể thỏa thuận để tìm tư vấn hoặc trợ giúp từ các chuyên gia trong nước mà họ cho là thích hợp.

3. Nếu một Bên thấy rằng vấn đề cần thảo luận thêm, Bên đó có thể mang vấn đề này báo cáo lên Uỷ ban Hỗn hợp để đạt được sự phân giải thích hợp với vấn đề.

Điều 12.7. Các hiệp định và tiêu chuẩn lao động quốc tế

1. Các Bên nhắc lại các nghĩa vụ phát sinh từ tư cách thành viên của ILO và Tuyên bố của ILO về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc và tuyên bố tiếp theo được thông qua tại Kỳ họp lần thứ 86 Hội nghị Lao động quốc tế năm 1998.

2. Các Bên tái khẳng định cam kết của mình theo Tuyên bố cấp Bộ trưởng của Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc về việc làm đầy đủ và việc làm bền vững năm 2006, nhằm công nhận việc làm đầy đủ và năng suất và việc làm bền vững cho tất cả mọi người là một yếu tố quan trọng của phát triển bền vững cho tất cả các nước và là một mục tiêu ưu tiên của hợp tác quốc tế và nhằm thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế một cách có lợi cho việc làm đầy đủ và năng suất và việc làm bền vững cho tất cả mọi người.

Điều 12.8. Đánh giá tác động của phát triển bền vững

Các bên sẽ định kỳ rà soát tại các phiên họp của Uỷ ban Hỗn hợp tiến độ đạt được trong việc theo đuổi các mục tiêu đề ra trong Chương này, và có thể xem xét diễn biến quốc tế có liên quan, nếu cần, để xác định các lĩnh vực mà hành động hơn nữa có thể thúc đẩy những mục tiêu này.

Điều 12.9. Không áp dụng Chương 14 ( Giải quyết tranh chấp)

Cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Chương 14 (Giải quyết tranh chấp) sẽ không được áp dụng đối với bất kỳ vấn đề nào phát sinh tại Chương này.

Chương 13

CÔNG NGHỆ ĐIỆN TỬ TRONG THƯƠNG MẠI

Điều 13.1. Phạm vi

1. Các Bên công nhận thương mại điện tử có thể làm gia tăng cơ hội kinh doanh thương mại và góp phần vào tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ điện tử trong thương mại nhằm giảm thiểu các chi phí và tạo thuận lợi thương mại, cũng như tầm quan trọng của việc hợp tác giữa các Bên đối với các vấn đề về thương mại điện tử được quy định trong Chương này.

2. Chương này sẽ điều chỉnh các biện pháp do các Bên đưa ra liên quan đến:

a) việc sử dụng các văn bản điện tử trong thương mại giữa các Bên bằng chữ ký số và bên thứ ba được uỷ thác;

b) thương mại điện tử như được định nghĩa ở Khoản (b) thuộc Điều 13.2 của Chương này;

3. Theo các mục đích của Khoản 2 thuộc Điều này, các biện pháp đó sẽ bao gồm các biện pháp được đưa ra bởi:

a) Chính quyền và các cơ quan trung ương và địa phương; và

b) Các cơ quan phi chính phủ được uỷ quyền thay mặt chính quyền và các cơ quan trung ương và địa phương.

4. Để thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của mình trong Chương này, mỗi Bên sẽ phải tiến hành những biện pháp hợp lý đó, nếu có, nhằm đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết đó bởi chính quyền, cơ quan trung ương và địa phương, và cả các tổ cơ quan phi chính phủ trong lãnh thổ của mình.

5. Chương này sẽ được thực hiện bởi các Bên theo Điều 8.

Điều 13.2. Định nghĩa

Theo các mục đích của Chương này:

a) “chứng thư số” là một văn bản điện tử được ban hành bởi một tổ chức có thẩm quyền, bao gồm các thông tin xác nhận rằng một chữ ký số thuộc về một cá nhân nhất định nào đó.

b) “thương mại điện tử” là hoạt động thương mại có sử dụng các công nghệ điện tử;

c) “văn bản điện tử” là một văn bản mà các thông tin được thể hiện dưới dạng điện tử được chứng thực bằng chữ ký số;

d) “chữ ký số” là thông tin ở dạng điện tử thu được bằng mã khoá công khai - là sự chuyển đổi thông tin thông qua việc sử dụng khoá chữ ký riêng được xác minh bởi khoá chữ ký công khai - và được gắn hoặc liên kết với các thông tin khác ở dạng điện tử (thông tin được ký), xác nhận tính toàn vẹn và xác thực của thông tin đó và đảm bảo không có khả năng để từ chối quyền tác giả;

e) “công nghệ điện tử” là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm nhằm tạo ra sự tương tác giữa các pháp nhân của các Bên thông qua sử dụng văn bản điện tử;

f) “chứng thực điện tử” là quá trình tạo ra sự tin cậy đối với danh tính người sử dụng khi được thể hiện ở dạng điện tử tới một hệ thống thông tin;

g) “bên thứ ba được uỷ thác” là một tổ chức được uỷ quyền, theo quy định và luật pháp của mỗi Bên, xác thực chữ ký số trong một văn bản điện tử được ký bằng công nghệ số trong một thời gian cố định đối với tác giả và/hoặc người nhận văn bản điện tử;

Điều 13.3. Chứng thực điện tử

Các Bên sẽ nỗ lực để hướng tới việc công nhận lẫn nhau về chữ ký số trong việc trao đổi các văn bản điện tử thông qua dịch vụ của bên thứ ba được uỷ thác.

Điều 13.4. Sử dụng văn bản điện tử

1. Các Bên sẽ nỗ lực:

a) Không áp dụng và duy trì các quy định và luật pháp trong nước có yêu cầu xác minh tính xác thực của giao dịch ở dạng điện tử bằng việc trình diện văn bản ở dạng giấy;

b) Đảm bảo rằng các văn bản liên quan đến giao dịch thương mại được trình diện đến các cơ quan có thẩm quyền của các Bên ở dạng văn bản điện tử được ký số.

2. Các Bên sẽ nỗ lực để đảm bảo rằng trong trường hợp nếu có văn bản nào được yêu cầu đối với việc nhập khẩu một sản phẩm, người tham gia giao dịch có thể nhận được văn bản đó xác minh sản phẩm được nhập khẩu phù hợp với các yêu cầu của nước nhập khẩu ở dạng điện tử.

Điều 13.5. Bảo vệ dữ liệu riêng tư

Các Bên sẽ nỗ lực để áp dụng và duy trì các biện pháp có hiệu lực nhằm mục tiêu bảo vệ dữ liệu riêng tư của người sử dụng thương mại điện tử.

Điều 13.6. Hợp tác về Công nghệ điện tử trong Thương mại

1. Việc thảo luận về các vấn đề liên quan đến Chương này có thể được thực hiện trong khuôn khổ của một uỷ ban về công nghệ điện tử trong thương mại sẽ được thành lập nếu cần thiết.

2. Các Bên sẽ trao đổi thông tin và kinh nghiệm về luật pháp, quy định và các chương trình trong lĩnh vực công nghệ điện tử trong thương mại, cụ thể là về các vấn đề bảo vệ dữ liệu riêng tư và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng.

3. Các Bên ghi nhận sự cần thiết của việc tham gia vào các diễn đàn song phương, khu vực và đa phương về xây dựng khung pháp lý quy định thương mại điện tử.

Điều 13.7. Phát triển thương mại điện tử

Ghi nhận tính chất toàn cầu của thương mại điện tử và tầm quan trọng của việc thúc đẩy ứng dụng và phát triển thương mại điện tử, các Bên sẽ:

a) Nỗ lực xây dựng khung pháp lý về thương mại điện tử có sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế liên quan về thu thập dữ liệu và phù hợp với các thực tiễn quốc tế, bao gồm các quyết định được đưa ra trong khuôn khổ WTO, nếu có thể;

b) Khuyến khích khu vực tư nhân áp dụng các quy định tự quản, bao gồm các quy tắc ứng xử, hợp đồng mẫu, hướng dẫn và các cơ chế thực thi có thể thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử;

c) Thúc đẩy việc ứng dụng các biện pháp minh bạch và phù hợp để bảo vệ người tiêu dùng khỏi các hành vi gian lận và lừa đảo khi tham gia vào thương mại điện tử;

d) Thúc đẩy hợp tác giữa các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng quốc gia các Bên đối với các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử xuyên biên giới nhằm nâng cao phúc lợi cho người tiêu dùng.

Điều 13.8.

1. Cơ quan có thẩm quyền của các Bên có thể cam kết thực thi bất kỳ vấn đề nào trong phạm vi của chương này. Cụ thể, các thỏa thuận thực thi sẽ thể hiện các cam kết đạt được tại các Điều 13.3, 13.4 và 13.5 của Hiệp định này;

2. Thỏa thuận thực thi khi được thông qua sẽ được áp dụng đối với hoạt động thương mại giữa các Bên.

3. Các Bên, thông qua các cơ quan có thẩm quyền, sẽ có những hành động cần thiết để áp dụng các thỏa thuận thực thi trong một khoảng thời gian hợp lý do hai Bên cùng quyết định.

Chương 14

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Điều 14.1. Mục tiêu

Mục tiêu của Chương này nhằm quy định một quy trình có hiệu quả và minh bạch cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ Hiệp định này.

Điều 14.2. Định nghĩa

Trong Chương này:

a) “Hội đồng trọng tài”nghĩa là một Hội đồng trọng tài được thành lập căn cứ theo Điều 14.7 của Hiệp định này;

b) "các Bên tranh chấp" nghĩa là Bên khởi kiện và Bên bị kiện. Các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu và Liên minh Kinh tế Á-Âu có thể cùng tiến hành hoặc tiến hành riêng biệt gọi là một Bên tranh chấp. Trong trường hợp sau khi một biện pháp được thực hiện bởi một nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu, nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu đó sẽ là một bên tranh chấp, và nếu một biện pháp được thực hiện bởi Liên minh Kinh tế Á-Âu, thì Liên minh Kinh tế Á-Âu sẽ là một Bên tranh chấp.

Điều 14.3. Phạm vi

1. Trừ khi được quy định khác trong Hiệp định, Chương này sẽ được áp dụng nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các Bên liên quan tới việc giải thích và/hoặc áp dụng Hiệp định này khi một Bên thấy rằng các Bên khác không thực hiện nghĩa vụ quy định tại Hiệp định này.

2. Các tranh chấp liên quan đến các Bên tranh chấp phát sinh theo Hiệp định này và Hiệp định WTO có thể được giải quyết ở diễn đàn do Bên khởi kiện lựa chọn. Diễn đàn được lựa chọn sẽ loại trừ các diễn đàn khác.

3. Trong Hiệp định này, các quy định về thủ tục có liên quan về giải quyết tranh chấp không phù hợp với các Điều của Hiệp định WTO trong trường hợp không tuân thủ hoặc có thể vi phạm sẽ không được áp dụng cho bất kỳ nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu mà không phải là một thành viên của WTO.

4. Trong đoạn 2, thủ tục giải quyết tranh chấp theo Hiệp định WTO được coi là được khởi xướng khi một Bên tranh chấp yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm theo Điều 6 của Cách hiểu về Quy tắc và Thủ tục Giải quyết các tranh chấp của  WTO, trong khi thủ tục giải quyết tranh chấp theo Hiệp định này được coi là đã được khởi xướng khi có yêu cầu trọng tài theo Khoản 1 của Điều này (Thành lập Hội đồng Trọng tài) của Hiệp định này.

Điều 14.4. Trao đổi thông tin và Người góp ý cho tòa án

1. Sự phân phối giữa các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu và Liên minh Kinh tế Á-Âu các tài liệu tố tụng liên quan đến bất kỳ tranh chấp phát sinh theo Hiệp định này sẽ không được xem như là một sự vi phạm các quy định về bảo mật thông tin theo Hiệp định này và / hoặc Hiệp định WTO.

2. Bất kỳ nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu và Liên minh Kinh tế Á-Âu có lợi ích đáng kể trong vấn đề tranh chấp có thể có cơ hội được lắng nghe và để làm văn bản đệ trình lên Hội đồng Trọng tài như là người góp ý.

Điều 14.5. Trung gian, Hòa giải

1. Các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận trung gian, hòa giải ở bất kỳ thời điểm nào. Quá trình trung gian, hòa giải có thể bắt đầu bất kỳ thời điểm nào và kết thúc bất kỳ thời điểm nào theo yêu cầu của một trong các Bên tranh chấp.

2. Nếu các Bên tranh chấp đồng ý, trung gian hòa giải có thể tiến hành song song cùng với quy trình tố tụng của Hội đồng Trọng tài được quy định tại Chương này.

3. Các quá trình trung gian, hòa giải và đặc biệt là quan điểm của các Bên trong quá trình đó sẽ được bảo mật và không làm ảnh hưởng đến quyền của các Bên tranh chấp trong quy trình tố tụng tiếp theo.

Điều 14.6. Tham vấn

1. Các Bên sẽ nỗ lực thông qua tham vấn để đạt được một giải pháp chung giải quyết mọi vấn đề được đưa ra phù hợp với Chương này.

2. Một yêu cầu tham vấn phải được gửi bằng văn bản đến Bên bị kiện thông qua các Đầu mối liên lạc được chỉ định theo Điều 1.7 của Hiệp định này cũng như là gửi đến Ủy ban Hỗn hợp và nêu rõ lý do tham vấn bao gồm việc xác định biện pháp vi phạm hoặc các vấn đề khác và cơ sở pháp lý của việc khiếu nại.

3. Khi Bên khởi kiện gửi yêu cầu tham vấn căn cứ theo đoạn 2 của Chương này, Bên bị kiện sẽ:

a) trả lời yêu cầu bằng văn bản trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được nhân được yêu cầu; và

b) tiến hành tham vấn một cách thiện chí trong vòng 30 ngày, hoặc 10 ngày trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm các trường hợp có liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, sau ngày nhận được yêu cầu tham vấn nhằm đạt được giải pháp chung giải quyết vấn đề tranh chấp.

4. Thời hạn được quy định tại đoạn 3 của Chương này có thể được thay đổi do các Bên tranh chấp thỏa thuận .

5. Quá trình tham vấn phải được bảo mật và không được gây phương hại tới các quyền của các Bên tranh chấp trong bất kỳ quy trình tố tụng tiếp theo nào.

6. Một Bên tranh chấp có thể yêu cầu Bên tranh chấp còn lại cung cấp chuyên gia tham vấn thuộc cơ quan chính phủ hoặc các cơ quan điều hành khác có kiến thức chuyên sâu về vấn đề tham vấn.

Điều 14.7. Thành lập Hội đồng Trọng tài

1. Bên khởi kiện đã yêu cầu tham vấn theo Điều 14.6 của Hiệp định này có thể yêu cầu bằng văn bản về việc thành lập Hội đồng Trọng tài:

a) nếu Bên bị kiến không tuân thủ đúng thời hạn theo đoạn 3 và 4 Điều 14.6 của Hiệp định này;

b) nếu các Bên tranh chấp không giải quyết được tranh chấp thông qua tham vấn trong vòng 60 ngày, hoặc 20 ngày đối với trường hợp khẩn cấp bao gồm cả trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, sau ngày nhân được yêu cầu tham vấn;

c) nếu các Bên tranh chấp cùng nhận thấy rằng tham vấn không thể giải quyết tranh chấp trong thời hạn được quy định tại Mục b) đoạn 1 của Điều này.

2. Trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm cả trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, các Bên tranh chấp sẽ nỗ lực nhằm đẩy nhanh quy trình tố tụng đến mức độ tối đa có thể.

3. Yêu cầu thành lập Hội đồng Trọng tài phải được làm bằng văn bản gửi đến Bên bị kiện thông qua các đầu mối liên lạc được chỉ định theo Điều 1.7 của Hiệp định này cũng như là gửi đến Ủy ban Hỗn hợp. Văn bản yêu cầu này phải chỉ ra là việc tham vấn đã được tiến hành không, xác định rõ các biện pháp cụ thể đang được bàn cãi và cung cấp tóm tắt, ngắn gọn về cơ sở pháp lý của đơn kiện đủ để trình bày các vấn đề một cách rõ ràng.

4. Các yêu cầu và thủ tục được quy định tại Điều này có thể được thay đổi theo thỏa thuận của các Bên tranh chấp.

Điều 14.8. Bổ nhiệm trọng tài viên

1. Hội đồng trọng tài sẽ bao gồm ba trọng tài viên.

2. Trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài của Bên bị kiện, Các Bên tranh chấp sẽ chỉ định một trọng viên. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày bổ nhiệm trọng tài viên thứ hai, các trọng tài viên được chỉ định sẽ thỏa thuận để chọn ra chủ tịch của Hội đồng Trọng tài là người không thuộc một trong các tiêu chí sau:

a) là công dân của một nước thành viên thuộc Liên minh Kinh tế Á-Âu hoặc Việt Nam;

b) có nơi thường trú ở lãnh thổ của một nước thành viên thuộc Liên minh Kinh tế Á-Âu hoặc Việt Nam.

3. Nếu việc bổ nhiệm không được tiến hành trong thời hạn được quy định ở đoạn 2 của Điều này, một Bên nào đó có thể, trừ khi có thỏa thuận khác của các Bên tranh chấp, mời Tổng Thư Ký của Tòa án Trọng tài Thường trực (sau đây gọi tắt là “PCA”) có thẩm quyền bổ nhiệm. Trong trường hợp Tổng Thư Ký của PCA là công dân của một nước thành viên thuộc Liên minh Kinh tế Á-Âu hoặc Việt Nam hoặc không có năng lực để thực hiện chức năng bổ nhiệm này, Phó Tổng Thư Ký của PCA hoặc cán bộ cao cấp tiếp theo mà không phải là công dân của một nước thành viên thuộc Liên minh Kinh tế Á-Âu hoặc Việt Nam và có năng lực để thực hiện chức năng bổ nhiệm sẽ được yêu cầu để bổ nhiệm.

4. Các trọng tài viên sẽ:

a) có kiến thức chuyên môn và/hoặc kinh nghiệm trong lĩnh vực luật, thương mại quốc tế, hoặc các lĩnh vực khác thuộc phạm vi của Hiệp định này, hoặc trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hiệp định thương mại quốc tế;

a) được lựa chọn nghiêm ngặt trên cơ sở khách quan, tin cậy và xét xử công tâm;

b) độc lập và không có liên hệ hoặc nhận chỉ dẫn từ một Bên; và

c) công bố cho các Bên tranh chấp bất kỳ những mâu thuẫn lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các vấn đề ở đây.

5. Các cá nhân sẽ không giữ vai trò trọng tài viên cho vụ tranh chấp nếu họ đã liên quan đến các tranh chấp trước đây ở bất kỳ khía cạnh nào, kể cả các khía cạnh theo Điều 14.5

6. Nếu một trọng tài được chỉ định theo Điều này nghỉ hưu hoặc không có khả năng làm việc, trọng tài viên kế nhiệm sẽ được chỉ định trong vòng 15 ngày phù hợp với thủ tục quy định cho việc bổ nhiệm trọng tài ban đầu và trọng tài kế nhiệm sẽ có toàn quyền và nhiệm vụ như trọng tài mà người đó thay thế. Vào bất kỳ thời điểm nào quy trình tố tụng cũng sẽ bị trì hoãn kể từ ngày trọng tài viên nghỉ hưu hoặc không có khả năng làm việc và việc trì hoãn này sẽ kết thúc vào ngày trọng tài thay thế được lựa chọn

7. Ngày thành lập Hội đồng Trọng tài là ngày mà chủ tịch Hội đồng Trọng tài được chỉ định.

8. Các yêu cầu và thủ tục được quy định tại Điều này có thể được thay đổi theo thỏa thuận của các Bên tranh chấp.

Điều 14.9. Chức năng của Hội đồng Trọng tài

1. Chức năng của Hội đông Trọng tài là đánh giá một cách khách quan của vụ tranh chấp, gồm cả việc đánh giá khách quan các tình tiết của vụ việc và khả năng áp dụng và sự phù hợp với Hiệp định này, đưa ra những kết luận và phán quyết cần thiết cho việc giải quyết các tranh chấp được đề cập cũng như xác định các biện pháp thực thi và/hoặc tạm ngưng ưu đãi phù hợp trong báo cáo cuối cùng khi có yêu cầu của một Bên tranh chấp.

2. Kết luận và phán quyết của Hội đồng Trọng tài không thể làm phát sinh thêm quyền và nghĩa vụ của các Bên được quy định trong Hiệp định này.

Điều 14.10. Quy trình tố tụng của Hội đồng Trọng tài

1. Quy trình tố tụng Hội đồng Trọng tài sẽ được tiến hành phù hợp với các Điều Khoản của Chương này.

2. Theo đoạn 1 Điều này, Hội đồng Trọng tài sẽ quy định các thủ tục liên quan tới quyền của các Bên tranh chấp. Các Bên tranh chấp khi tham vấn với Hội đồng Trọng tài có thể đồng ý thông qua các quy định và thủ tục không trái với các Điều Khoản của Điều này.

3. Sau khi tham vấn các Bên tranh chấp, Hội đồng Trọng tài sẽ ngay khi có tính khả thi và bất cứ khi nào có thể trong vòng 10 ngày sau ngày Hội đồng Trọng tài thành lập,phải ấn định thời gian biểu cho quy trình tố tụng tại Hội đồng Trọng tài.Thời gian biểu sẽ bao gồm thời hạn chính xác nộp báo cáo của các Bên tranh chấp. Việc điều chỉnh về khung thời hạn do thỏa thuận chung của các Bên tranh chấp khi tham vấn với Hội đồng Trọng tài.

4. Khi có yêu cầu của một Bên tranh chấp hoặc khi thấy cần thiết, Hôi đồng Trọng tài có thể tự tìm thêm thông tin và/hoặc tư vấn kỹ thuật từ bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào mà được cho là phù hợp. Tuy nhiên, trước khi Hội đồng Trọng tài tìm thêm thông tin và/hoặc tư vấn thì phải thông báo tới các Bên tranh chấp. Bất kỳ thông tin và/hoặc tư vấn kỹ thuật nào mà Hội đồng trọng tài nhân được sẽ được thông báo cho các Bên tranh chấp để góp ý. Khi Hội đồng Trọng tài xem xét thông tin và/hoặc tư vấn kỹ thuật để đưa vào báo cáo của mình thì phải xem xét các ý kiến của các Bên tranh chấp về thông tin và/hoặc tư vấn kỹ thuật đó.

5. Hội đồng Trọng tài sẽ đưa ra quyết định về thủ tục tố tụng, kết luận và phán quyết bằng sự đồng thuận, trường hợp Hội đồng Trọng tài không có khả năng để đạt được đồng thuận về thủ tục tố tụng, kết luận và phán quyết có thì có thể được đưa ra dựa trên đa số. Hội đồng Trọng tài sẽ không công bố quan điểm cụ thể của các trọng tài viên.

6. Hội đồng Trọng tài sẽ họp kín. Các Bên tranh chấp sẽ chỉ có mặt ở các phiên họp khi được Hội đồng Trọng tài mời tham dự từ trước.

7. Những phiên xét xử của Hội đồng Trọng tài sẽ không được công khai, trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

8. Các Bên tranh chấp sẽ có cơ hội có mặt tại các buổi tường trình, trình bày hoặc phản bác trong thủ tục tố tụng. Mọi thông tin được cung cấp và đệ trình bởi các Bên tranh chấp lên Hội đồng trọng tài, bao gồm bình luận đối với phần miêu tả tóm tắt của báo cáo ban đầu và trả lời câu hỏi của Hội đồng trọng tài sẽ được cung cấp cho Bên tranh chấp kia.

9. Nội dung thảo luận của Hội đồng Trọng tài và các tài liệu được đệ trình sẽ được giữ bí mật.

10.Quy định trong Chương này không ngăn cản việc một Bên tranh chấp công bố các quan điểm của bên đó cho công chúng. Mỗi Bên tranh chấp phải giữ bí mật những thông tin của Bên tranh chấp kia gửi lên Hội đồng Trọng tài mà Bên đó xác nhận là bí mật. Nếu một Bên tranh chấp có yêu cầu, các Bên tranh chấp sẽ phải cung cấp bản tóm tắt có thể công khai của các thông tin cung cấp trong nội dung giải trình của mình để có thể công bố công khai.

11.Địa điểm phiên xét xử sẽ được quyết định theo thỏa thuận giữa các Bên tranh chấp. Nếu không có sự thống nhất, địa điểm tổ chức sẽ luân phiên tại thủ đô của các Bên tranh chấp với việc phiên xét đầu tiên sẽ được tổ chức tại thủ đô của Bên bị kiện.

Điều 14.11. Các Điều Khoản Tham chiếu của Hội đồng Trọng tài

Trừ khi các Bên có thỏa thuận khác, trong vòng 20 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu thành lập Hội đồng Trọng tài, Điều Khoản tham chiếu của hội đồng trọng tài sẽ là:

“Xem xét, dựa trên các Điều Khoản liên quan của Hiệp định này, vấn đề được đưa ra trong yêu cầu thành lập Hội đồng Trọng tài theo Điều 14.7 của Hiệp định này và đưa ra kết luận và phán quyết của pháp luật và tình tiết thực tế đi kèm với những lập luận về cách thức giải quyết tranh chấp” .

Điều 14.12. Chấm dứt hoặc Tạm ngừng vụ kiện

1. Hội đồng Trọng tài có thể được chấp dứt theo yêu cầu chung của các Bên tranh chấp. Trong trường hợp đó, các Bên tranh chấp phải cùng thông báo cho chủ tịch Hội đồng Trọng tài và Ủy ban Hỗn hợp.

2. Hội đồng Trọng tài, theo yêu cầu chung của các Bên tranh chấp có thể tạm ngừng công việc của mình tại bất cứ thời đỉêm nào trong khoảng thời gian không quá 12 tháng liên tục kể từ ngày nhận được yêu cầu chung. Trong trường hợp đó, các Bên tranh chấp phải cùng thông báo cho chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Trong khỏang thời gian này, một trong các Bên tranh chấp có thể cho phép Hội đồng Trọng tài trở lại làm việc bằng việc thông báo đến chủ tịch Hội đồng Trọng tài và Bên tranh chấp kia. Trong trường hợp này, khoảng thời gian liên quan được quy định trong Chương này sẽ được gia hạn bằng đúng khoảng thời gian công việc bị tạm dừng. Nếu công việc của Hội đồng Trọng tài bị tạm ngừng hơn 12 tháng liên tục, Hội đồng Trọng tài sẽ bị chấp dứt. Thẩm quyền thành lập một Hội đồng Trọng tài mới của các Bên tranh chấp ban đầu về vấn đề tương tự được nêu trong yêu cầu thành lập Hội đồng Trọng tài ban đầu sẽ mất hiệu lực trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

Điều 14.13. Báo cáo của Hội đồng Trọng tài

1. Báo cáo của Hội đồng Trọng tài sẽ được soạn thảo mà không có sự hiện diện của các Bên tranh chấp và sẽ dựa vào các Điều Khoản liên quan của Hiệp định này, các bản đệ trình và lập luận của các Bên tranh chấp và các thông tin và/hoặc tư vấn kỹ thuật được cung cấp cho Hội đồng Trọng tài phù hợp với đoạn 4 Điều 14.10 của Hiệp định này.

2. Hội đồng trọng tài sẽ đưa ra báo cáo ban đầu trong vòng 90 ngày, hoặc 60 ngày đối với trường hợp khẩn cấp, bao gồm đối với trường hợp hàng hóa dễ hư hỏng, kể từ ngày thành lập Hội đồng Trọng tài. Báo cáo ban đầu sẽ bao gồm, đặc biệt là, các phần mô tả và các ý kiến và kết luận của Hội đồng Trọng tài.

3. Trong trường hợp ngoại lệ, nếu Hội đồng Trọng tài nhận thấy rằng không thể đưa ra báo cáo ban đầu trong thời hạn được quy định tại Khoản 2 của Điều này, Hội đồng Trọng tài sẽ thông báo cho các Bên tranh chấp bằng văn bản về lý do của việc chậm trễ đó và thời gian dự định đưa ra báo cáo ban đầu. Bất kỳ sự chậm trễ nào cũng không được vượt quá 30 ngày trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

4. Một Bên tranh chấp có thể gửi góp ý báo cáo ban đầu bằng văn bản đến Hội đồng Trọng tài trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được báo cáo ban đầu từ Hội đồng Trọng tài trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

5. Sau khi xem xét các góp ý của các Bên tranh chấp và tiến hành kiểm tra kỹ hơn nếu thấy cần thiết, Hội đồng Trọng tài sẽ gửi đến các Bên tranh chấp báo cáo cuối cùng trong vòng 30 ngày kể từ ngày đưa ra báo cáo ban đầu, trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

6. Nếu trong báo cáo cuối cùng, Hội đồng Trọng tài nhận thấy rằng biện pháp của một Bên tranh chấp không tuân theo Hiệp định này, Hội đồng Trọng tài sẽ đưa ra kết luận và phán quyết yêu cầu xóa bỏ các biện pháp không phù hợp.

7. Các Bên tranh chấp sẽ công bố báo cáo cuối cùng của Hội đồng Trọng tài như một tài liệu công khai trong vòng 15 ngày kể từ ngày báo cáo cuối cùng được đưa ra, tùy thuộc vào việc bảo vệ thông tin mật, trừ khi mục đích của Bên tranh chấp. Trong trường hợp này, báo cáo cuối cùng vẫn được gửi cho tất cả các Bên tham gia Hiệp định.

8. Báo cáo cuối cùng của Hội đồng Trọng tài là chung thẩm và có tính chất bắt buộc đối với các Bên tranh chấp liên quan đến một tranh chấp cụ thể.

Điều 14.14. Thực thi

1. Các Bên tranh chấp sẽ tuân thủ ngay lập tức phán quyết của Hội đồng Trọng tài, khi các Bên tranh chấp nhận thấy không khả thi để tuân thủ ngay lập tức thì sẽ tuân thủ phán quyết trong khoản thời hạn hợp lý. Khoảng thời gian hợp lý sẽ được các Bên tranh chấp cùng xác định. Khi các Bên tranh chấp không thống nhất được khoảng thời gian hợp lý trong vòng 45 ngày kể từ ngày Hội đồng Trọng tài đưa ra báo cáo cuối cùng, một trong các Bên tranh chấp có thể đưa vấn đề này lên Hội đồng Trọng tài ban đầu để xác định khoảng thời gian hợp lý sau khi tham vấn các Bên tranh chấp.

2. Khi không có thống nhất giữa các Bên tranh chấp về việc một Bên đã xóa bỏ các biện pháp không phù hợp như trong báo cáo của Hội đồng Trọng tài trong khoảng thời gian hợp lý nêu tại Điều này, Bên còn lại có thể đưa vấn đề này lên hội đồng trọng tài ban đầu.

3. Hội đồng Trọng tài sẽ đưa ra báo cáo của mình trong vòng 60 ngày kể từ ngày vấn đề được đề cập ở đoạn 1 hoặc 2 của Điều này được gửi đến Hội đồng Trọng tài xem xét. Báo cáo sẽ bao gồm phán quyết của Hội đồng Trọng tài và lập luận để đưa phán quyết. Khi Hội đồng Trọng tài nhận thấy rằng không thể đưa ra báo cáo trong thời hạn, Hội đồng Trọng tài sẽ thông báo cho các Bên tranh chấp bằng văn bản về lý do của việc chậm trễ đó và thời gian dự định đưa ra báo cáo. Bất kỳ sự chậm trễ nào cũng không được vượt quá 30 ngày trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

4. Các Bên tranh chấp tiếp tục nỗ lực tìm ra giải pháp chung giải quyết việc thực thi báo cáo cuối cùng của Hội đồng Trọng tài.

Điều 14.15. Bồi thường và Tạm ngừng các ưu đãi

1. Nếu một Bên tranh chấp không tuân thủ các phán quyết của Hội đồng Trọng tài trong khoảng thời gian hợp lý được đề cập ở Điều 14.14 của Hiệp định này, một Bên tranh chấp phải, nếu có yêu cầu của Bên tranh chấp còn lại, tiến hành tham vấn nhằm đưa ra được thỏa thuận chung về bồi thường. Nếu không có thỏa thuận nào đạt được trong vòng 20 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu, Bên tranh chấp còn lại sẽ được phép tạm ngừng các ưu đãi được quy định theo Hiệp định này đối với Bên tranh chấp này tương đương với mức độ bị ảnh hưởng bởi biện pháp mà Hội đồng Trọng tài xác định không phù hợp với Hiệp định này.

2. Khi cân nhắc tạm dừng ưu đãi, một Bên tranh chấp trước tiên sẽ tạm ngừng các ưu đãi trong cùng một lĩnh vực hoặc ngành mà bị ảnh hưởng bởi biện pháp mà Hội đồng Trọng tài xác định không phù hợp với Hiệp định này. Nếu một Bên tranh chấp nhận thấy không khả thi hoặc không hiệu quả khi tạm ngừng ưu đãi ở cùng một lĩnh vực hoặc ngành nghề thì có thể tạm ngừng các ưu đãi ở các lĩnh vực khác.

3. Một Bên tranh chấp phải thông báo cho Bên tranh chấp còn lại về ưu đãi mà mình có ý định tạm ngừng, căn cứ về việc tạm ngừng và thời điểm thông báo tạm ngừng sẽ ít nhất là 30 ngày trước ngày việc tạm ngừng có hiệu lực. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, Bên tranh chấp còn lại có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài ban đầu quyết định rằng những ưu đãi mà Bên tranh chấp có ý định tạm ngưng tương đương với mức độ bị ảnh hưởng bởi biện pháp được Hội đồng Trọng tài xác định là không phù hợp với Hiệp định này và việc đình chỉ được đề xuất có phù hợp theo đoạn 1 và 2 Điều này hay không.

4. Bồi thường và/hoặc tạm ngừng ưu đãi là những biện pháp tạm thời và không được khuyến khích để xóa bỏ hoàn toàn các biện pháp không phù hợp trong báo cáo cuối cùng của Hội đồng Trọng tài. Bồi thường và/hoặc tạm ngừng chỉ được áp dụng cho đến khi các biện pháp không phù hợp với Hiệp định này bị thu hồi hoặc sửa đổi để phù hợp với Hiệp định này, hoặc cho đến khi các Bên tranh chấp giải quyết được vấn đề.

5. Khi có yêu cầu của một Bên tranh chấp, Hội đồng Trọng tài ban đầu phải chỉ ra sự phù hợp của các biện pháp thực thi được thông qua trong báo cáo cuối cùng sau khi tạm ngừng ưu đãi, và đưa ra phán quyết liệu việc tạm ngừng ưu đãi có nên được chấm dứt hoặc thay đổi không. Các phán quyết của Hội đồng Trọng tài được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Điều 14.16. Chi phí

1. Trừ khi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác:

a) mỗi Bên tranh chấp sẽ chịu chi phí của trọng tài viên mà mình chỉ định và các chi phí pháp lý và chi phí riêng của Bên đó;

b) chi phí cho chủ tịch hội đồng trọng tài và các chi phí khác có liên quan đến vụ kiện sẽ được chia đều cho các Bên tranh chấp.

2. Theo yêu cầu của một Bên tranh chấp, Hội đồng Trọng tài có thể quyết định chi phí được nêu tại Mục b của đoạn 1 Điều này khi xem xét đến tình huống cụ thể của vụ việc.

Điều 14.17. Ngôn ngữ

1. Tất cả quy trình thủ tục và tài liệu căn cứ theo Chương này sẽ được thực hiện bằng Tiếng Anh

2. Tài liệu nào được đệ trình để sử dụng trong quy trình tố tụng căn cứ theo Chương này phải được viết bằng Tiếng Anh. Nếu bản gốc không phải ngôn ngữ Tiếng Anh, các Bên tranh chấp phải cung cấp bản dịch Tiếng Anh của tài liệu đó.

Chương 15

CÁC ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 15.1. Các Phụ lục

Các Phụ lục của Hiệp định này là một phần không thể tách rời của Hiệp định.

Điều 15.2. Gia nhập

1. Một nước thành viên mới của Liên minh kinh tế Á-Âu có thể gia nhập Hiệp định này bắt buộc phải có sự đồng thuận bằng văn bản của các Bên. Sự gia nhập đó sẽ được hoàn thành thông qua một nghị định thư bổ sung cho Hiệp định này.

2. Ủy ban Kinh tế Á-Âu sẽ thông báo ngay lập tức cho Việt Nam về nước thứ ba có khả năng tham gia vào Liên minh Kinh tế Á-Âu và bất cứ sự gia nhập nào vào tổ chức này.

3. Không ảnh hưởng đến sự gia nhập Liên minh Kinh tế Á-Âu của các nước ứng cử, các Điều Khoản được nêu trong Chương 10 và các Phụ lục XX và XX của Hiệp định này có thể được đàm phán bởi một bên là các nước ứng cử gia nhập Liên minh Kinh tế Á-Âu và một bên là Việt Nam.

4. Các nước ứng cử gia nhập Liên minh Kinh tế Á-Âu và Việt Nam sẽ nỗ lực để hoàn thành các cuộc đàm phán được quy định tại Khoản 3 Điều này trước khi các nước ứng cử đó trở thành một nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu.

Điều 15.3. Rút lui và Chấm dứt hiệu lực

1. Mỗi bên có thể rút khỏi Hiệp định này bằng cách đưa ra một thông báo trước sáu tháng bằng văn bản cho Bên còn lại.

2. Hiệp định này sẽ chấm dứt hiệu lực đối với bất cứ nước thành viên nào của Liên minh Kinh tế Á-Âu mà rút khỏi Hiệp ước trong EAEU trong cùng một ngày khi việc rút lui có hiệu lực. .

Điều 15.4. Điều Khoản phát triển

1. Các bên đảm bảo xem xét lại Hiệp định này theo hướng phát triển hơn nữa trong các quan hệ kinh tế quốc tế, không kể những điều khác, trong khuôn khổ của WTO để xem xét trong phạm vi này và theo hướng của bất cứ yếu tố liên quan nào đến khả năng phát triển hơn nữa và tăng cường sâu hơn về hợp tác  theo Hiệp định này và để mở rộng đến các lĩnh vực chưa có trong Hiệp định.

Nếu thích hợp, Uỷ ban Hỗn hợp có thể đưa ra kiến nghị đến các Bên, với mục đích rõ ràng hơn để mở ra các cuộc đàm phán.

2. Các bên sẽ đảm bảo xem xét chung về Hiệp định này nhằm thúc đẩy hơn nữa các mục tiêu trong ba năm sau kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, và mỗi năm năm sau đó, trừ khi các Bên có thỏa thuận khác.

Điều 15.5. Sửa đổi

1. Hiệp định này có thể được sửa đổi bởi các Bên thông qua sự nhất trí bằng văn bản.

2. Những sửa đổi sẽ có hiệu lực theo quy định tại Điều 15.6 của Hiệp định này. Tất cả các sửa đổi sẽ là một phần không thể tách rời của Hiệp định này.

Điều 15.6. Hiệu lực

Hiệp định này sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo cuối cùng bằng văn bản về việc các nước thành viên của Liên minh Kinh tế Á-Âu và Việt Nam đã hoàn thành các thủ tục pháp lý trong nước của mình. Sự trao đổi các thông báo này sẽ được thực hiện giữa Uỷ ban Kinh tế Á-Âu và Việt Nam.

ĐỂ LÀM BẰNG, những người ký tên dưới đây, được sự uỷ quyền, đã ký Hiệp định này.

Được làm thành hai bản bằng Tiếng Anh tại [ĐỊA ĐIỂM] vào ngày [NGÀY].

 

Thay mặt nước Cộng hòa Ác- men-ni-a

 

 

Thay mặt nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thay mặt nước Cộng hòa Bê-la- rút

 

 

 

Thay mặt nước Cộng hòa Ka- dắc-xtan

 

 

 

[Thay mặt nước Cộng hòa Ki- ríp]

 

 

 

Thay mặt nước Liên bang Nga

 

 

 

Thay mặt Liên minh Kinh tế Á- Âu

 

 

 

FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN

 

 



1 Nếu một Bên của Chương này cam kết mở cửa thị trường liên quan đến việc cung cấp một dịch vụ từ lãnh thổ một Bên của Chương này vào lãnh thổ của Bên kia của Chương này và nếu việc di chuyển vốn qua biên giới là phần không thể tách rời của dịch vụ, thì Bên đó cam kết cho phép việc di chuyển vốn như vậy.

2 Các cam kết cụ thể được áp dụng theo Điều này sẽ không được hiểu là để yêu cầu bất kỳ Bên nào của Chương này phải bồi thường cho bất kỳ bất lợi cạnh tranh vốn có nào gây nên bởi yếu tố nước ngoài của các dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ liên quan

3 Để rõ nghĩa hơn, đầu tư không phải là khoản tiền phải đòi chỉ phát sinh từ:

a. hợp đồng thương mại bán hàng hóa hoặc dịch vụ; hoặc

b. việc kéo dài tính dụng liên quan đến các hợp đồng thương mại đó.

Điều III



Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước



1 Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa, cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác định, không được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.



2. Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu, dù trực tiếp hay gián tiếp, các khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Hơn nữa, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các loại thuế hay khoản thu khác trong nội địa trái với các nguyên tắc đã nêu tại khoản 1.

Xem nội dung VB
Điều XXIV



Áp dụng theo lãnh thổ - Hàng hoá biên mậu

Liên Minh quan thuế và Khu vực mậu dịch tự do



1. Các quy định của Hiệp định này áp dụng với lãnh thổ quan thuế chính quốc của các bên ký kết cũng như với mọi lãnh thổ quan thuế mà theo điều khoản XXVI của Hiệp định này và theo tinh thần của điều XXXIII hoặc chiểu theo Nghị định thư về việc Tạm thời thi hành (Hiệp định GATT). Mỗi lãnh thổ quan thuế sẽ được coi là một bên ký kết, chỉ thuần tuý nhằm mục đích thực thi Hiệp định này theo lãnh thổ, với bảo lưu rằng các quy định của Hiệp định này không được hiểu là tạo ra với một bên ký kết đơn lẻ nào quyền hay nghĩa vụ như giữa hai hay nhiều lãnh thổ quan thuế đã chấp nhận hiệu lực của Hiệp định này theo tinh thần của điều khoản XXVI hoặc áp dụng theo tinh thần điều khoản XXXIII hay phù hợp với Nghị định thư về việc Tạm thời áp dụng.



2. Nhằm mục đích áp dụng Hiệp định này, thuật ngữ lãnh thổ quan thuế được hiểu là bất cứ lãnh thổ nào có áp dụng một biểu thuế quan riêng biệt, hoặc có những quy chế thương mại riêng biệt được áp dụng với một phần đáng kể trong thương mại với các lãnh thổ khác.



3. Các quy định của Hiệp định này không thể được hiểu là ngăn cản



(a) một bên ký kết dành lợi thế cho các nước có chung đường biên giới nhằm tạo thuận lợi cho trao đổi vùng biên giới;



(b) các nước lân cận với Lãnh thổ Tự do vùng Triesta dành cho vùng này những lợi thế thương mại, với điều kiện là không trái với các quy định tại các hiệp ước hoà bình được ký sau Thế Chiến II.



4. Các bên ký kết thừa nhận lòng mong muốn thương mại được tự do hơn, thông qua các hiệp định được ký kết tự nguyện, nhờ đó phát triển sự hội nhập hơn nữa kinh tế các nước tham gia các hiệp định đó. Các Bên cũng thừa nhận rằng việc lập ra một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do phải nhằm mục tiêu là tạo thuận lợi cho thương mại giữa các lãnh thổ thành viên và không tạo thêm trở ngại cho thương mại của các thành viên khác với các lãnh thổ này.



5. Do vậy, các quy định của Hiệp định này không gây trở ngại cho việc thành lập một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do hay chấp nhận một hiệp định tạm thời cần thiết để lập ra một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do giữa các lãnh thổ thành viên, với bảo lưu rằng



(a) trong trường hợp một liên minh quan thuế hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một liên minh quan thuế, thuế quan áp dụng khi lập ra liên minh quan thuế hay khi ký kết hiệp định tạm thời xét về tổng thể không dẫn tới mức thuế cao hơn cũng không tạo ra những quy tắc chặt chẽ hơn so với mức thuế hay quy tắc có hiệu lực vào thời điểm trước khi lập ra liên minh hay hiệp định được ký kết, tại các lãnh thổ tạo thành liên minh dành cho thương mại với các bên ký kết không phải là thành viên của liên minh hay không tham gia hiệp định.



(b) trong trường hợp lập ra một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một khu vực mậu dịch tự do, thuế quan duy trì tại mỗi lãnh thổ thành viên và được áp dụng với thương mại của các bên ký kết không tham gia khu vực mậu dịch hay hiệp định đó, vào thời điểm khu vực mậu dịch hay ký kết hiệp định sẽ không cao hơn, cũng như các quy tắc điều chỉnh thương mại cũng không chặt chẽ hơn mức thuế quan hay quy tắc tương ứng hiện hành tại mỗi lãnh thổ thành viên trước khi lập ra khu vực mậu dịch hay ký hiệp định tạm thời, tuỳ theo từng trường hợp; và



(c) mọi hiệp định tạm thời nói đến tại các điểm a) và b) phải bao gồm một kế hoạch và một chương trình thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do trong một thời hạn hợp lý.



6. Nếu khi đáp ứng các điều kiện nêu tại điểm 5a), một bên ký kết đề nghị nâng mức thuế một cách không phù hợp với các quy định của điều II, thủ tục đã được dự kiến tại điều XVIII sẽ được áp dụng. Việc điều chỉnh cân đối tính đúng mức đến sự bù đắp có được do mức giảm thuế tương ứng với thuế quan của các lãnh thổ khác tham gia liên minh.



7. a) Khi quyết định tham gia một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời được ký nhằm lập ra một liên minh hay một khu vực mậu dịch như vậy, bất kỳ bên ký kết nào cũng sẽ thông báo không chậm trễ cho Các Bên Ký Kết biết và cung cấp mọi thông tin cần thiết về liên minh hoặc khu vực mậu dịch để Các Bên có thể có báo cáo hay khuyến nghị cần thiết tới các bên ký kết nêú Các Bên thấy cần thiết.



b) Nếu sau khi nghiên cứu kế hoạch và chương trình thuộc hiệp định tạm thời đã nêu tại khoản 5, có tham vấn với các bên tham gia hiệp định này và sau khi cân nhắc đúng mức đến các thông tin đã được cung cấp theo quy định tại điểm a), Các Bên Ký Kết đi đến kết luận là hiệp định không thuộc loại dẫn đến thành lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do trong thời hạn đã được các bên dự liệu hay thời hạn được các bên ký kết hiệp định dự tính là không hợp lý, Các Bên sẽ có khuyến nghị với các bên tham gia hiệp định. Nếu không sắn sàng điều chỉnh cho phù hợp với các khuyến nghị đó, các bên tham gia hiệp định sẽ không duy trì hiệp định hoặc không triển khai hiệp định nữa.



c) Bất kỳ sự điều chỉnh đáng kể nào trong kế hoạch hay chương trình đã nêu tại điểm c) của khoản 5 phải được thông báo cho Các Bên Ký Kết, Các Bên có thể yêu cầu các bên ký kết liên quan tham vấn, khi sự điều chỉnh thể hiện khả năng thoả hiệp hay làm chậm trễ không chính đáng sự hình thành liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do.



8. Trong Hiệp định này, các thuật ngữ được hiểu:



a) liên minh quan thuế là sự thay thế hai hay nhiêu lãnh thổ quan thuế bằng một lãnh thổ quan thuế khi sự thay thế đó có hệ quả là



(i) thuế quan và các quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ hợp thành liên minh, hoặc ít nhất cũng được loại trừ về cơ bản với trao đổi hàng hoá có xuất xứ từ các lãnh thổ này;

(ii) với bảo lưu như các quy định tại khoản 9, thuế quan và các quy tắc được từng thành viên của liên minh áp dụng trong thương mại với các lãnh thổ bên ngoài là thống nhất về nội dung;



b) khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ quan thuế mà thuế quan và các quy tắc hạn chế thương mại (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các Điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do.



9. Các ưu đãi đã nêu tại khoản 2 của điều khoản đầu tiên sẽ không chịu tác động của việc thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do; các ưu đãi đó có thể bị triệt tiêu hay điều chỉnh bằng cách thoả thuận với các bên ký kết liên quan.* Thủ tục đàm phán với các bên ký kết liên quan đó sẽ áp dụng trước hết với việc triệt tiêu các ưu đãi cần thiết để cho các quy định của các khoản (a)(i) và 8 (b) được tuân thủ.



10. Bằng một quyết định trên cơ sở đa số hai phần ba, Các Bên Ký Kết có thể chấp nhận những đề nghị có thể không hoàn toàn phù hợp với các quy định tại các khoản 5 đến 9 với điều kiện quyết định như vậy đi đến việc thành lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do đúng ý nghĩa của điều khoản này.



11. Căn cứ vào những hoàn cảnh ngoại lệ dẫn tới kết quả là sự thành lập hai nhà nước độc lập và thừa nhận rằng hai Nhà nước này từ lâu đã tạo thành một thể thống nhất về kinh tế, các bên ký kết đồng ý rằng các quy định của Hiệp định này không ngăn cản hai nước ký những hiệp định đặc biệt về thương mại song biên, trong khi chờ đợi quan hệ thương mại của hai nước được thiết lập chính thức.*



12. Mỗi bên ký kết sẽ có những biện pháp hợp lý và trong phạm vi quyền hạn của mình để các chính phủ hay chính quyền địa phương trên lãnh thổ của mình tuân thủ các quy định của Hiệp định này.

Xem nội dung VB
Điều 5: Hội nhập kinh tế

1. Hiệp định này không ngăn cản bất kỳ Thành viên nào gia nhập hoặc ký kết một Hiệp định tự do hóa thương mại dịch vụ giữa hai hoặc nhiều Thành viên, với điều kiện là hiệp định đó:

(a) có phạm vi thuộc về lĩnh vực chủ yếu1, và

(b) không quy định hoặc xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa hai hoặc nhiều bên, theo tinh thần của Điều XVII, trong những lĩnh vực được nêu tại điểm (a), thông qua

(i) xóa bỏ những biện pháp phân biệt đối xử hiện có, và/hoặc

(ii) cấm những biện pháp phân biệt đối xử mới hoặc áp dụng thêm các biện pháp này dù là tại thời điểm hiệp định đó có hiệu lực hoặc trên cơ sở một lộ trình hợp lý, ngoại trừ những biện pháp được phép áp dụng theo các Điều XI, XII, XIV và XIV bis .

2. Khi đánh giá xem các điều kiện nêu tại điểm 1 (b) có được đáp ứng không, có thể xem xét mối quan hệ giữa hiệp định với tiến trình hội nhập kinh tế hoặc tự do hóa thương mại rộng hơn giữa các nước liên quan.

3. (a) Trong trường hợp những nước đang phát triển là thành viên của một hiệp định thuộc loại nêu tại khoản 1, thì những điều kiện nêu tại khoản 1, đặc biệt là những điều kiện liên quan tới điểm (b) của khoản này, , có thể được xem xét một cách linh hoạt phù hợp với trình độ phát triển của những nước liên quan, cả về tổng thể, trong từng lĩnh vực và tiểu lĩnh vực.

(b) Cho dù có các quy định tại khoản 6, trong trường hợp một hiệp định thuộc loại nêu tại khoản 1 chỉ liên quan đến các nước đang phát triển thì sự đối xử thuận lợi hơn có thể dành cho các pháp nhân thuộc sở hữu hoặc kiểm soát của các thể nhân thuộc các bên tham gia hiệp định này.

4. Bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 sẽ được xây dựng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại giữa các bên tham gia hiệp định và không tạo ra mức trở ngại chung cao hơn mức đã áp dụng trước khi các hiệp định đó được ký kết trong thương mại dịch vụ với bất kỳ thành viên nào không tham gia hiệp định, dù trong từng ngành hoặc phân ngành dịch vụ.

5. Khi ký kết, mở rộng hoặc sửa đổi cơ bản bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1, Thành viên có ý định rút lại hoặc sửa đổi cam kết cụ thể trái với các cam kết đã nêu tại Danh mục của mình, thì Thành viên đó phải thông báoít nhất 90 ngày trước khi rút lại hoặc sửa đổi, và sẽ áp dụng các thủ tục quy định tại khoản 2, 3 và 4 của Điều XXI.

6. Nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác, là pháp nhân thành lập theo luật pháp của một bên tham gia một Hiệp định nêu tại khoản 1 được hưởng sự đối xử theo Hiệp định nói trên, với điều kiện là nhà cung cấp dịch vụ đó có hoạt động kinh doanh đáng kể trên lãnh thổ của các bên tham gia hiệp định này.

7. (a) Thành viên là các Bên tham gia vào bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 phải ngay lập tức thông báo về các hiệp định đó và về bất kỳ sự mở rộng nào hoặc bất kỳ sửa đổi cơ bản nào của hiệp định này cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ. Khi Hội đồng yêu cầu, các Thành viên đó phải cung cấp ngay các thông tin liên quan. Hội đồng có thể thành lập một nhóm công tác để xem xét hiệp định này hoặc mở rộng hoặc sửa đổi của hiệp định và báo cáo với Hội đồng về sự phù hợp của hiệp định đó với Điều này.

(b) Các Thành viên là các bên tham gia vào bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 thực hiện trên cơ sở một lịch trình, thì Thành viên đó phải báo cáo định kỳ cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ về việc thực hiện hiệp định nói trên. Trong trường hợp xét thấy cần thiết, Hội đồng có thể thành lập ban công tác để xem xét các báo cáo đó.

(c) Trên cơ sở báo cáo của ban công tác nêu tại điểm (a) và (b), Hội đồng có thể đưa ra khuyến nghị với các bên, nếu xét thấy phù hợp.

8. Một Thành viên là bên tham gia bất kỳ hiệp định nào nêu tại khoản 1 không được yêu cầu đền bù đối với những quyền lợi thương mại mà bất kỳ một Thành viên nào khác có được từ hiệp định đó.

Xem nội dung VB
Điều XX

Các ngoại lệ chung



Với bảo lưu rằng các biện pháp đề cập ở đây không được theo cách tạo ra công cụ phân biệt đối xử độc đoán hay phi lý giữa các nước có cùng điều kiện như nhau, hay tạo ra một sự hạn chế trá hình với thương mại quốc tế, không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là ngăn cản bất kỳ bên ký kết nào thi hành hay áp dụng các biện pháp:

a) cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng;

b) cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật hay thực vật;

c) liên quan đến xuất hoặc nhập khẩu vàng và bạc;

d) cần thiết để bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không trái với các quy định của Hiệp định này, ví dụ như các quy định liên quan tới việc áp dụng các biện pháp hải quan, duy trì hiệu lực của chính sách độc quyền tuân thủ đúng theo khoản 4 Điều II và Điều XVII, liên quan tới bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu thương mại và quyền tác giả và các biện pháp thích hợp để ngăn ngừa các hành vi thương mại gian lận;

e) liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân;

f) áp đặt để bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ;

g) liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt, nếu các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong nước;

h) được thi hành theo nghĩa vụ của một hiệp định liên chính phủ về một hàng hoá cơ sở ký kết phù hợp với các tiêu thức đã trình ra Các Bên Ký Kết và không bị Các Bên phản đối hay chính hiệp định đó đã trình ra Các Bên Ký Kết và không bị các bên bác bỏ.*

i) bao hàm các hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước sản xuất và cần thiết có đủ số lượng thiết yếu nguyên liệu đó để đảm bảo hoạt động chế tác trong thời kỳ giá nội được duy trì dưới giá ngoại nhằm thực hiện một kế hoạch ổn định kinh tế của chính phủ, với bảo lưu rằng các hạn chế đó không dẫn tới tăng xuất khẩu hay tăng cường mức bảo hộ với ngành công nghiệp trong nước và không vi phạm các quy định của Hiệp định này về không phân biệt đối xử;

j) thiết yếu để có được hay phân phối một sản phẩm thuộc diện khan hiếm trong cả nước hay tại một địa phương; tuy nhiên các biện pháp đó phải tương thích với các nguyên tắc theo đó mỗi bên ký kết phải có một phần công bằng trong việc quốc tế cung cấp các sản phẩm đó và các biện pháp không tương thích với các quy định khác của Hiệp định này sẽ được xoá bỏ ngay khi hoàn cảnh dẫn tới lý do áp dụng đã không còn tồn tại nữa. Ngày 30 tháng 6 năm 1960 là muộn nhất Các Bên Ký Kết sẽ xem xét lại tính cần thiết của quy định thuộc tiểu khoản này.

Xem nội dung VB
Điều 14: Những ngoại lệ chung

Theo các yêu cầu về việc không áp dụng các biện pháp có thể tạo ra sự phân biệt đối xử tùy tiện và không có cơ sở giữa các nước hoặc trở thành một hạn chế trá hình trong thương mại dịch vụ, không có qui định nào của Hiệp định này ngăn cản các Thành viên thông qua hoặc thực thi các biện pháp:

(a) cần thiết để bảo vệ đạo đức công cộng hoặc duy trì trật tự công cộng[5];

(b) cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người, động vật hoặc thực vật;

(c) cần thiết để đảm bảo việc tuân thủ luật pháp hoặc quy định không trái với các quy định của Hiệp định này, bao gồm cả các quy định liên quan đến:

(i) ngăn ngừa các hành vi lừa đảo và gian lận hoặc để giải quyết hậu quả của việc không thanh toán hợp đồng dịch vụ;

(ii) bảo vệ bí mật đời tư của những cá nhân trong việc xử lý hoặc phổ biến những thông tin cá nhân và đảm bảo tính bảo mật lý lịch hoặc tài khoản của cá nhân;

(iii) an toàn;

(d) không phù hợp với Điều XVII, miễn là sự đối xử khác biệt nhằm đảm bảo thực hiện việc đánh thuế hoặc thu thuế trực tiếp một cách công bằng và hiệu quả[6] đối với dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các Thành viên khác;

(e) không phù hợp với Điều II, với điều kiện sự đối xử khác biệt là kết quả của một hiệp định về tránh đánh thuế hai lần hoặc các quy định của bất kỳ hiệp định hoặc thỏa thuận quốc tế nào về tránh đánh thuế hai lần có giá trị ràng buộc đối với Thành viên đó.

Xem nội dung VB
Điều XXI

Ngoại lệ về an ninh



Không có quy định nào trong Hiệp định này được hiểu là



a) áp đặt với một bên ký kết nghĩa vụ phải cung cấp những thông tin mà bên đó cho rằng nếu bị điểm lộ sẽ đi ngược lại quyền lợi thiết yếu của về an ninh của mình; hoặc



b) để ngăn cản một bên ký kết có các biện pháp được cho là cần thiết để bảo vệ các quyền lợi thiết yếu tơí an ninh của mình:



(i) liên quan tới chất phóng xạ hay các chất dùng vào việc chế tạo chúng;



(ii) liên quan tới mua bán vũ khí, đạn dược và vật dụng chiến tranh và mọi hoạt động thương mại các hàng hoá khác và vật dụng trực tiếp hay gián tiếp được dùng để cung ứng cho quân đội;



(iii) được áp dụng trong thời kỳ chiến tranh hoặc các tình huống khẩn cấp trong quan hệ quốc tế khác; hoặc



c) để ngăn cản một bên ký kết có những biện pháp thực thi các cam kết nhân danh Hiến Chương Liên hợp Quốc, nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế

Xem nội dung VB
Điều 14 bis: Ngoại lệ về an ninh

1. Không có quy định nào của Hiệp định này được hiểu là:

(a) đòi hỏi bất kỳ Thành viên nào phải cung cấp thông tin mà việc tiết lộ được coi là trái với các lợi ích an ninh thiết yếu của mình;

(b) ngăn cản bất kỳ Thành viên nào thực hiện bất kỳ hành động nào được coi là cần thiết để bảo vệ lợi ích an ninh thiết yếu của mình:

(i) liên quan tới việc cung cấp những dịch vụ được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm mục đích, hậu cần cho một cơ sở quân sự;

(ii) liên quan tới việc tách hoặc làm giàu vật liệu hạt nhân hoặc những vật liệu có chứa hạt nhân;

(iii) thực hiện trong thời kỳ chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp khác trong quan hệ quốc tế; hoặc

(c) ngăn cản bất kỳ Thành viên nào áp dụng bất kỳ hành động nào phù hợp với các nghĩa vụ theo Hiến chương Liên Hợp Quốc về gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế.

2. Hội đồng Thương mại Dịch vụ phải được thông báo đầy đủ nhất trong phạm vi có thể về những biện pháp được áp dụng theo quy định của điểm 1(b) và (c) và về việc chấm dứt các biện pháp đó.

Xem nội dung VB
Điều XII

Hạn chế để bảo vệ cán cân thanh toán



1. Không trái với quy định tại khoản 1 của Điều XI, bất cứ bên ký kết nào, để bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán, có thể hạn chế số lượng hay trị giá hàng hoá cho phép nhập khẩu, theo quy định tại các khoản dưới đây của điều khoản này.



2. (a) Các hạn chế nhập khẩu được định ra, duy trì hay mở rộng theo quy định của điều khoản này sẽ không vượt quá mức cần thiết:



(i) để ngăn ngừa mối đe doạ hay để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối.

(ii) trong trường hợp một bên ký kết có dự trữ ngoại hối rất thấp, để nâng dự trữ ngoại hối lên một mức hợp lý.



Trong cả hai trường hợp cần có sự quan tâm đúng mức đến bất cứ nhân tố đặc biệt nào có thể tác động đến dự trữ hay nhu cầu về dự trữ của một bên ký kết, trong đó có tín dụng đặc biệt vay nước ngoài hay những nguồn khác có thể tiếp cận, nhu cầu sử dụng thích hợp tín dụng hay các nguồn đó.



(b) Các bên ký kết khi áp dụng các hạn chế nêu tại đoạn (a) của khoản này sẽ nới lỏng các hạn chế đó khi các điều kiện dẫn tới hạn chế được cải thiện, chỉ duy trì các hạn chế đó ở mức độ các điều kiện đã nêu tại đoạn đó còn chứng minh được sự cần thiết phải áp dụng. Họ sẽ loại bỏ các hạn chế khi các điều kiện không còn chứng minh được việc định ra hay duy trì các biện pháp đó theo như quy định tại điểm (a) đó.



3. (a) Các bên ký kết chấp nhận, trong khi thực hành chính sách trong nước, sẽ quan tâm đúng mức đến nhu cầu duy trì hoặc lập lại sự thăng bằng cán cân thanh toán trên một cơ sở lành mạnh và lâu dài và tới mong muốn tránh việc sử dụng phi kinh tế các nguồn lực sản xuất. Các bên thừa nhận rằng nhằm đạt tới các mục đích này, trong chừng mực cao nhất có thể cần vận dụng các biện pháp có tính chất mở rộng thương mại hơn là các biện pháp ngăn cản thương mại.



(b) Các bên ký kết áp dụng các hạn chế theo điều khoản này có thể xác định tác động của các hạn chế lên việc nhập khẩu các sản phẩm hay nhóm sản phẩm khác nhau để ưu tiên cho việc nhập khẩu các sản phẩm trọng yếu hơn.



(c) Các bên ký kết áp dụng các hạn chế theo điều khoản này cam kết:



(i) tránh gây tổn hại không cần thiết cho quyền lợi thương mại và kinh tế của bất kỳ bên ký kết nào.

(ii) không áp dụng các hạn chế nhằm ngăn ngừa bất hợp lý việc nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào có số lượng thương mại tối thiểu, nếu loại trừ số lượng đó có thể làm đảo lộn các kênh thương mại bình thường.



(d) Các bên ký kết thừa nhận rằng việc một bên ký kết áp dụng chính sách nội địa hướng tới đạt được và tạo đủ công ăn việc làm và phát triển nguồn lực kinh tế có thể dẫn tới việc bên ký kết đó có nhu cầu cao về nhập khẩu bao gồm cả mối đe doạ với dự trữ ngoại hối như đã nêu tại khoản 2 (a) của điều khoản này. Do vậy, một bên ký kết khi đã tuân thủ đầy đủ các quy định khác của điều khoản này sẽ không phải huỷ bỏ hay điều chỉnh các hạn chế, bởi vì nếu có sự điều chỉnh chính sách thì các các hạn chế áp dụng theo điều khoản này sẽ trở thành không cần thiết.



4. (a) Bất kỳ bên ký kết nào khi áp dụng các hạn chế mới hay nâng mức hạn chế của các biện pháp đang áp dụng sẽ tham vấn ngay (hoặc nếu có thể thì tham vấn trước) Các Bên Ký Kết về tính chất của các khó khăn về cán cân thanh toán, các biện pháp có thể được vận dụng thay thế và các tác động có thể của các hạn chế với nền kinh tế của các bên ký kết khác.



(b) Các Bên Ký Kết sẽ xem xét lại, vào một ngày sẽ được các bên ký kết xác định sau này, mọi hạn chế cho tới khi đó vẫn còn được áp dụng theo quy định của điều khoản này. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày nêu trên, các bên ký kết còn áp dụng các hạn chế với hàng nhập khẩu theo tinh thần của điều khoản này, theo sẽ tiến hành tham vấn hàng năm với Các Bên Ký Kết vơi hình thức đã nêu tại điểm (a) của khoản này.



(c) (i) Nếu khi tham vấn căn cứ theo quy định tại điểm (a) hoặc điểm (b) nêu trên, Các Bên Ký Kết thấy rằng các hạn chế không tương thích với các quy định tại điều khoản này hay các quy định của Điều VIII (với bảo lưu phù hợp các quy định của điều XIV), họ sẽ chỉ ra tính chất bất cập và có thể kiến nghị việc điều chỉnh các hạn chế cho phù hợp.

(ii) Nếu mặc dù đã tham vấn, Các Bên Ký Kết xác định rằng các hạn chế đã được áp dụng dẫn tới trái nghiêm trọng với các quy định của Điều này hoậc các quy định của Điều XIII (với các bảo lưu tại Điều XIV) và các biện pháp đó dẫn tới làm thiệt hại hay đe doạ làm thiệt hại cho thương mại của một bên ký kết, Các Bên Ký Kết sẽ thông báo ý kiến cho bên ký kết đang áp dụng hạn chế biết đồng thời có khuyến nghị thích hợp để trong một thời gian nhất định bên ký kết đó tuân thủ các quy định liên quan đã nêu. Nếu bên ký kết đó vẫn không tuân thủ các khuyến nghị đó, Các Bên Ký Kết có thể cho phép bất kỳ một bên ký kết nào bị ảnh hưởng của các hạn chế đó được miễn bất kỳ nghĩa vụ nào đối với bên ký kết áp dụng hạn chế đó, thuộc phạm vi của Hiệp định này được Các Bên Ký Kết coi là thích hợp, tuỳ theo tình huống cụ thể.



(d) Các bên ký kết sẽ mời bất kỳ bên ký kết nào hiện đang áp dụng các hạn chế theo tinh thần của điều khoản này, tham vấn khi một bên ký kết có yêu cầu và thấy có biểu hiện áp dụng các hạn chế không phù hợp với các quy định của điều khoản này hay của Điều XIII (với bảo lưu phù hợp các quy định của điều XIV) và làm thiệt hại cho thương mại của một bên ký kết. Tuy nhiên, Các Bên Ký Kết chỉ đưa ra đề nghị tham vấn chung khi thấy rằng tham vấn trực tiếp giữa các bên ký kết có liên quan đã không thành. Nếu không đạt được một thoả thuận tại các cuộc tham vấn với Các Bên Ký Kết và Các Bên Ký Kết xác định rằng các hạn chế đã được áp dụng một cách không phù hợp với các quy định nêu trên và dẫn tới thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại cho thương mại của bên ký kết nào đặt vấn đề tham vấn, Các Bên Ký Kết sẽ khuyến nghị rút bỏ hay điều chỉnh các hạn chế đó. Nếu các hạn chế không được rút bỏ hay điều chỉnh trong thời hạn đã được Các Bên Ký Kết quy định đó, Các Bên Ký Kết có thể miễn cho bên ký kết đã khởi đầu các thủ tục tham vấn các nghĩa vụ thuộc phạm vi Hiệp định này được coi là thích đáng, tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể được Các Bên Ký Kết xác định, đối với bên ký kết đang áp dụng các hạn chế.



(e) Khi tiến hành các thủ tục theo quy định của khoản này, Các Bên Ký Kết sẽ tính đến mọi nhân tố bên ngoài có tính chất đặc biệt làm thiệt hại cho xuất khẩu của bên ký kết đang áp dụng các hạn chế.



(f) Những đánh giá nêu trên cần được tiến hành nhanh chóng và nếu có thể được cần tiến hành trong vòng 60 ngày kể từ ngày bắt đầu tham vấn.



5. Trong trường hợp các hạn chế số lượng được áp dụng với hàng nhập khẩu theo tinh thần của điều khoản này có tính chất kéo dài và có thể dẫn tới sự mất thăng bằng chung làm giảm khối lượng thương mại quốc tế, Các Bên Ký Kết sẽ tiến hành thảo luận để xem xét việc các biện pháp khác có thể được các bên ký kết đang có cán cân thanh toán chịu tác động bất lợi hay các bên ký kết đang có cán cân thanh toán đặc biệt thuận lợi hoặc mọi tổ chức liên chính phủ có khả năng thi hành nhằm xoá bỏ nguyên nhân căn bản của sự mất thăng bằng cán cân đó. Khi được Các Bên Ký Kết mời, mỗi bên ký kết sẽ tham dự đàm phán như đã nêu trên

Xem nội dung VB
Điều III

Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước
...
2. Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu, dù trực tiếp hay gián tiếp, các khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Hơn nữa, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các loại thuế hay khoản thu khác trong nội địa trái với các nguyên tắc đã nêu tại khoản 1.*
...

4. Sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này sẽ không ngăn cản việc áp dụng các khoản thu phí vận tải khác biệt chỉ hoàn toàn dựa vào yếu tố kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận tải và không dưạ vào quốc tịch của hàng hoá.

Xem nội dung VB
Điều XXIV



Áp dụng theo lãnh thổ - Hàng hoá biên mậu

Liên Minh quan thuế và Khu vực mậu dịch tự do



1. Các quy định của Hiệp định này áp dụng với lãnh thổ quan thuế chính quốc của các bên ký kết cũng như với mọi lãnh thổ quan thuế mà theo điều khoản XXVI của Hiệp định này và theo tinh thần của điều XXXIII hoặc chiểu theo Nghị định thư về việc Tạm thời thi hành (Hiệp định GATT). Mỗi lãnh thổ quan thuế sẽ được coi là một bên ký kết, chỉ thuần tuý nhằm mục đích thực thi Hiệp định này theo lãnh thổ, với bảo lưu rằng các quy định của Hiệp định này không được hiểu là tạo ra với một bên ký kết đơn lẻ nào quyền hay nghĩa vụ như giữa hai hay nhiều lãnh thổ quan thuế đã chấp nhận hiệu lực của Hiệp định này theo tinh thần của điều khoản XXVI hoặc áp dụng theo tinh thần điều khoản XXXIII hay phù hợp với Nghị định thư về việc Tạm thời áp dụng.



2. Nhằm mục đích áp dụng Hiệp định này, thuật ngữ lãnh thổ quan thuế được hiểu là bất cứ lãnh thổ nào có áp dụng một biểu thuế quan riêng biệt, hoặc có những quy chế thương mại riêng biệt được áp dụng với một phần đáng kể trong thương mại với các lãnh thổ khác.



3. Các quy định của Hiệp định này không thể được hiểu là ngăn cản



(a) một bên ký kết dành lợi thế cho các nước có chung đường biên giới nhằm tạo thuận lợi cho trao đổi vùng biên giới;



(b) các nước lân cận với Lãnh thổ Tự do vùng Triesta dành cho vùng này những lợi thế thương mại, với điều kiện là không trái với các quy định tại các hiệp ước hoà bình được ký sau Thế Chiến II.



4. Các bên ký kết thừa nhận lòng mong muốn thương mại được tự do hơn, thông qua các hiệp định được ký kết tự nguyện, nhờ đó phát triển sự hội nhập hơn nữa kinh tế các nước tham gia các hiệp định đó. Các Bên cũng thừa nhận rằng việc lập ra một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do phải nhằm mục tiêu là tạo thuận lợi cho thương mại giữa các lãnh thổ thành viên và không tạo thêm trở ngại cho thương mại của các thành viên khác với các lãnh thổ này.



5. Do vậy, các quy định của Hiệp định này không gây trở ngại cho việc thành lập một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do hay chấp nhận một hiệp định tạm thời cần thiết để lập ra một liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do giữa các lãnh thổ thành viên, với bảo lưu rằng



(a) trong trường hợp một liên minh quan thuế hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một liên minh quan thuế, thuế quan áp dụng khi lập ra liên minh quan thuế hay khi ký kết hiệp định tạm thời xét về tổng thể không dẫn tới mức thuế cao hơn cũng không tạo ra những quy tắc chặt chẽ hơn so với mức thuế hay quy tắc có hiệu lực vào thời điểm trước khi lập ra liên minh hay hiệp định được ký kết, tại các lãnh thổ tạo thành liên minh dành cho thương mại với các bên ký kết không phải là thành viên của liên minh hay không tham gia hiệp định.



(b) trong trường hợp lập ra một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời nhằm lập ra một khu vực mậu dịch tự do, thuế quan duy trì tại mỗi lãnh thổ thành viên và được áp dụng với thương mại của các bên ký kết không tham gia khu vực mậu dịch hay hiệp định đó, vào thời điểm khu vực mậu dịch hay ký kết hiệp định sẽ không cao hơn, cũng như các quy tắc điều chỉnh thương mại cũng không chặt chẽ hơn mức thuế quan hay quy tắc tương ứng hiện hành tại mỗi lãnh thổ thành viên trước khi lập ra khu vực mậu dịch hay ký hiệp định tạm thời, tuỳ theo từng trường hợp; và



(c) mọi hiệp định tạm thời nói đến tại các điểm a) và b) phải bao gồm một kế hoạch và một chương trình thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do trong một thời hạn hợp lý.



6. Nếu khi đáp ứng các điều kiện nêu tại điểm 5a), một bên ký kết đề nghị nâng mức thuế một cách không phù hợp với các quy định của điều II, thủ tục đã được dự kiến tại điều XVIII sẽ được áp dụng. Việc điều chỉnh cân đối tính đúng mức đến sự bù đắp có được do mức giảm thuế tương ứng với thuế quan của các lãnh thổ khác tham gia liên minh.



7. a) Khi quyết định tham gia một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do hay một hiệp định tạm thời được ký nhằm lập ra một liên minh hay một khu vực mậu dịch như vậy, bất kỳ bên ký kết nào cũng sẽ thông báo không chậm trễ cho Các Bên Ký Kết biết và cung cấp mọi thông tin cần thiết về liên minh hoặc khu vực mậu dịch để Các Bên có thể có báo cáo hay khuyến nghị cần thiết tới các bên ký kết nêú Các Bên thấy cần thiết.



b) Nếu sau khi nghiên cứu kế hoạch và chương trình thuộc hiệp định tạm thời đã nêu tại khoản 5, có tham vấn với các bên tham gia hiệp định này và sau khi cân nhắc đúng mức đến các thông tin đã được cung cấp theo quy định tại điểm a), Các Bên Ký Kết đi đến kết luận là hiệp định không thuộc loại dẫn đến thành lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do trong thời hạn đã được các bên dự liệu hay thời hạn được các bên ký kết hiệp định dự tính là không hợp lý, Các Bên sẽ có khuyến nghị với các bên tham gia hiệp định. Nếu không sắn sàng điều chỉnh cho phù hợp với các khuyến nghị đó, các bên tham gia hiệp định sẽ không duy trì hiệp định hoặc không triển khai hiệp định nữa.



c) Bất kỳ sự điều chỉnh đáng kể nào trong kế hoạch hay chương trình đã nêu tại điểm c) của khoản 5 phải được thông báo cho Các Bên Ký Kết, Các Bên có thể yêu cầu các bên ký kết liên quan tham vấn, khi sự điều chỉnh thể hiện khả năng thoả hiệp hay làm chậm trễ không chính đáng sự hình thành liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do.



8. Trong Hiệp định này, các thuật ngữ được hiểu:



a) liên minh quan thuế là sự thay thế hai hay nhiêu lãnh thổ quan thuế bằng một lãnh thổ quan thuế khi sự thay thế đó có hệ quả là



(i) thuế quan và các quy tắc điều chỉnh thương mại có tính chất hạn chế (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ hợp thành liên minh, hoặc ít nhất cũng được loại trừ về cơ bản với trao đổi hàng hoá có xuất xứ từ các lãnh thổ này;

(ii) với bảo lưu như các quy định tại khoản 9, thuế quan và các quy tắc được từng thành viên của liên minh áp dụng trong thương mại với các lãnh thổ bên ngoài là thống nhất về nội dung;



b) khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ quan thuế mà thuế quan và các quy tắc hạn chế thương mại (ngoại trừ, trong chừng mực cần thiết, các hạn chế được phép theo quy định của các Điều XI, XII, XIII, XIV, XV và XX) được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do.



9. Các ưu đãi đã nêu tại khoản 2 của điều khoản đầu tiên sẽ không chịu tác động của việc thành lập liên minh quan thuế hay khu vực mậu dịch tự do; các ưu đãi đó có thể bị triệt tiêu hay điều chỉnh bằng cách thoả thuận với các bên ký kết liên quan.* Thủ tục đàm phán với các bên ký kết liên quan đó sẽ áp dụng trước hết với việc triệt tiêu các ưu đãi cần thiết để cho các quy định của các khoản (a)(i) và 8 (b) được tuân thủ.



10. Bằng một quyết định trên cơ sở đa số hai phần ba, Các Bên Ký Kết có thể chấp nhận những đề nghị có thể không hoàn toàn phù hợp với các quy định tại các khoản 5 đến 9 với điều kiện quyết định như vậy đi đến việc thành lập một liên minh quan thuế hay một khu vực mậu dịch tự do đúng ý nghĩa của điều khoản này.



11. Căn cứ vào những hoàn cảnh ngoại lệ dẫn tới kết quả là sự thành lập hai nhà nước độc lập và thừa nhận rằng hai Nhà nước này từ lâu đã tạo thành một thể thống nhất về kinh tế, các bên ký kết đồng ý rằng các quy định của Hiệp định này không ngăn cản hai nước ký những hiệp định đặc biệt về thương mại song biên, trong khi chờ đợi quan hệ thương mại của hai nước được thiết lập chính thức.*



12. Mỗi bên ký kết sẽ có những biện pháp hợp lý và trong phạm vi quyền hạn của mình để các chính phủ hay chính quyền địa phương trên lãnh thổ của mình tuân thủ các quy định của Hiệp định này.

Xem nội dung VB
Điều III



Đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước



1 Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa, cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác định, không được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.*



2. Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu, dù trực tiếp hay gián tiếp, các khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Hơn nữa, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các loại thuế hay khoản thu khác trong nội địa trái với các nguyên tắc đã nêu tại khoản 1.



3. Với mọi khoản thuế nội địa hiện đã tồn tại trái với các quy định tại khoản 2, nhưng có thoả thuận cụ thể cho phép duy trì căn cứ vào một hiệp định thương mại có giá trị hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947, theo đó thuế nhập khẩu đánh vào sản phẩm chịu thuế nội địa đã được cam kết trần, không tăng lên, bên ký kết đang áp dụng thuế đó được hoãn thời hạn thực hiện các quy định tại khoản 2 áp dụng với các loại thuế nội đó cho tới khi nghĩa vụ thuộc hiệp định đó được giải phóng và cho phép bên ký kết đó điều chỉnh thuế quan trong chừng mực cần thiết để bù đắp cho nhân tố bảo hộ trong khoản thuế nội địa.



4. Sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt luật pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này sẽ không ngăn cản việc áp dụng các khoản thu phí vận tải khác biệt chỉ hoàn toàn dựa vào yếu tố kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận tải và không dưạ vào quốc tịch của hàng hoá.



5. Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng hay duy trì một quy tắc định lượng nội địa nào với pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay tỷ lệ nhất định của bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ nguồn nội địa. Thêm vào đó, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các quy tắc định lượng trong nước theo cách nào khác trái với các nguyên tắc đã quy định tại khoản 1.*



6. Các quy định của khoản 5 sẽ không áp dụng với những quy tắc có hiệu lực trên lãnh thổ của bất cứ bên ký kết nào vào ngày 1 tháng 7 năm 1939, ngày 10 tháng 4 năm 1947 hay ngày 24 tháng 3 năm 1948 tuỳ bên ký kết liên quan chọn; miễn là các quy tắc trái với quy định của khoản 5 đó sẽ không bị điều chỉnh bất lợi hơn cho hàng nhập khẩu và chúng sẽ được xem như là một khoản thuế quan để tiếp tục đàm phán.



7. Không một quy tắc định lượng nội địa nào điều chỉnh việc pha trộn, chế biến hay sử dụng tính theo khối lượng hay tỷ lệ sẽ được áp dụng để phân bổ các khối lượng hay tỷ lệ nêu trên theo xuất xứ của nguồn cung cấp.



8. (a) Các quy định của Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quan chính phủ mua sắm nhằm mục đích cho tiêu dùng của chính phủ chứ không phải để bán lại nhằm mục đích thương mại hay đưa vào sản xuất nhằm mục đích thương mại.



(b) Các quy định của điều khoản này sẽ không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành cho các nhà sản xuất nội địa, kể cả các khoản khoản trợ cấp dành cho các nhà sản xuất nội địa có xuất xứ từ các khoản thu thuế nội địa áp dụng phù hợp với các quy định của điều khoản này và các khoản trợ cấp thực hiện thông qua việc chính phủ mua các sản phẩm nội địa.



9. Các bên ký kết thừa nhận rằng các biện pháp kiểm soát giá tối đa, dù rằng tuân theo đúng các quy định khác của điều khoản này, có thể có làm tổn hại tới quyền lợi của bên ký kết cung cấp hàng nhập. Do vậy, các bên ký kết áp dụng các biện pháp kiểm soát giá tối đa sẽ cân nhắc đến quyền lợi của bên ký kết là bên xuất khẩu nhằm hạn chế tối đa trong khuôn khổ các biện pháp có thể tực hiện được các tác động bất lợi đó.



10. Các quy định của Điều này không ngăn cản các bên ký kết định ra hay duy trì các quy tắc hạn chế số lượng nội địa liên quan tới số lượng phim trình chiếu áp dụng theo đúng các quy định của Điều IV.

Xem nội dung VB
Điều VIII

Phí và các thủ tục liên quan đến Xuất Nhập Khẩu



1. (a) Mọi khoản phí và khoản thu khác với bất cứ tính chất nào (không phải là thuế xuất khẩu và nhập khẩu cũng như các khoản thuế quy định tại điều III) được các bên ký kết áp dụng nhằm vào hay liên quan tới hàng nhập khẩu hay hàng xuất khẩu sẽ chỉ giới hạn trong chừng mực đủ bù các chi phí cung cấp dịch vụ và không mang tính chất bảo hộ gián tiếp cho sản phẩm nội địa hay là thuế đánh vào xuất nhập khẩu với mục đích thu ngân sách.



(b) Các bên ký kết thừa nhận nhu cầu giảm số lượng và chủng loại các khoản phí và khoản thu nêu tại tiểu mục (a).



(c) Các bên ký kết cũng thừa nhận nhu cầu hạn chế xuống tối thiểu các tác động cũng như tính phức tạp của các thủ tục về xuất nhập khẩu và nhu cầu giảm bớt và đơn giản hoá yêu cầu về chứng từ làm thủ tục xuất nhập khẩu.



2. Khi có yêu cầu của một bên ký kết khác hay của Các Bên Ký Kết, một bên ký kết sẽ xem xét lại thực tế áp dụng luật pháp và quy tắc của mình theo tinh thần của điều khoản này.



3. Không một bên ký kết nào sẽ áp dụng những khoản phạt đáng kể với những vi phạm nhỏ về quy tắc hải quan hay các yêu cầu về thủ tục. Đặc biệt, với các lỗi sơ suất hay lỗi về chứng từ hải quan có thể đính chính dễ dàng và vi phạm không cố ý gian trá hay không do các sơ suất lớn sẽ không bị phạt quá mức cần thiết để cảnh cáo.



4. Các quy định của điều khoản này sẽ được áp dụng cả với các khoản phí, thủ tục và các yêu cầu của cơ quan chính phủ về xuất nhập khẩu, kể cả các yêu cầu liên quan tới:

(a) dịch vụ của cơ quan lãnh sự như là cấp hoá đơn hay giấy chứng nhận lãnh sự;

(b) hạn chế định lượng;

(c) cấp phép;

(d) kiểm soát ngoại hối;

(e) dịch vụ thống kê;

(f) lập chứng từ, cung cấp chứng từ và chứng nhận / công chứng;

(g) phân tích và giám định; và

(h) vệ sinh dịch tễ và hun trùng.

Xem nội dung VB
Điều X

Công bố và quản lý các quy tắc thương mại



1. Các luật, quy tắc, quyết định pháp luật và quy tắc hành chính có hiệu lực chung, được bất cứ bên ký kết nào áp dụng liên quan tới việc phân loại hay định trị giá sản phẩm nhằm mục đích thuế quan, hay liên quan tới suất thuế quan, thuế hay phí, hay tới các yêu cầu, các hạn chế hay cấm nhập khẩu hay xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu, hay có tác động tới việc bán, phân phối, vận tải, bảo hiểm, lưu kho, giám định, trưng bày, chế biến, pha trộn hay sử dụng hàng hoá theo cách nào khác sẽ được công bố khẩn trương bằng cách nào đó để các chính phủ hay các doanh nhân biết. Các hiệp định có tác động tới thương mại quốc tế đang có hiệu lực giữa chính phủ hay cơ quan chính phủ với chính phủ hay cơ quan chính phủ của bất cứ bên ký kết nào cũng sẽ được công bố. Các quy định của Điều này sẽ không yêu cầu bất cứ một bên ký kết nào phải điểm lộ thông tin mật có thể gây trở ngại cho việc thực thi pháp luật, hoặc trái với quyền lợi chung hoặc gây tổn hại quyền lợi thương mại chính đáng của một doanh nghiệp nào đó dù là quốc doanh hay tư nhân.



2. Các Bên ký kết sẽ không thực thi trước khi công bố chính thức bất cứ biện pháp nào có phạm vi áp dụng chung mang tính chất nâng suất thuế quan hay nâng các khoản thu khác đánh vào hàng nhập thuộc diện đang thực hiện thống nhất và đã mặc định, hoặc áp đặt ở mức cao hơn một yêu cầu, một hạn chế nhập khẩu hay hạn chế về chuyển tiền thanh toán hàng nhập khẩu.



3. (a) Mỗi bên ký kết sẽ quản lý luật pháp, quy tắc, các quyết định hay quy chế đã nêu tại khoản 1 của điều khoản này một cách thống nhất, vô tư và hợp lý.



(b) Mỗi bên ký kết sẽ duy trì hay thiết lập, sớm nhất có thể, các toà án và thủ tục về chấp pháp, trọng tài hay hành chính cũng như các nội dung khác, có mục đích xem xét và điều chỉnh khẩn trương các hành vi hành chính trong lĩnh vực hải quan. Các cơ quan xét xử và các thủ tục đó sẽ độc lập với các cơ quan hành chính được giao nhiệm vụ thực thi và các quyết định xét xử sẽ được các cơ quan hành chính đó thi hành và có hiệu lực điều chỉnh hành vi chính quyền, trừ khi có kháng án trong cùng thời hạn kháng án áp dụng với các nhà nhập khẩu; miễn là cấp thẩm quyền trung ương của cơ quan đó có thể có phương thức để xem xét lại vấn đề theo một quy trình khác nếu có lý do chính đáng để tin rằng quyết định đó không đáp ứng các nguyên tắc pháp luật đã hình thành và thực tế vụ việc.



(c) Các quy định của điểm (b) thuộc khoản này sẽ không yêu cầu phải triệt tiêu hay thay thế các thủ tục có hiệu lực trên lãnh thổ của một bên ký kết vào ngày Hiệp định này được ký kết mà trong thực tế đã xem xét khách quan và vô tư các hành vi của chính quyền dẫu rằng các thủ tục đó không hoàn toàn hoặc về hình thức không độc lập với các cơ quan được giao nhiệm vụ thực thi hành chính. Khi được yêu cầu bất kỳ bên ký kết nào áp dụng chính sách biện pháp nêu trên sẽ cung cấp cho Các Bên Ký Kết thông tin đầy đủ về các biện pháp đó, để Các Bên Ký Kết có thể định đoạt rằng các thủ tục đó có đáp ứng các yêu cầu của tiểu doạn này hay không.

Xem nội dung VB
Điều XVI

Trợ cấp



Điểm A - Trợ cấp nói chung



1. Nếu bất kỳ bên ký kết nào hiện dành hay duy trì trợ cấp, bao gồm mọi hình thức hỗ trợ thu nhập hay trợ giá, trực tiếp hoặc gián tiếp có tác động làm tăng xuất khẩu một sản phẩm từ lãnh thổ của bên ký kết đó hay làm giảm nhập khẩu vào lãnh thổ của mình, bên ký kết đó sẽ thông báo bằng văn bản cho Các Bên Ký Kết về mức độ, tính chất của việc trợ cấp đó, các tác động để có cơ sở đánh giá số lượng của sản phẩm hay các sản phẩm xuất khẩu hay nhập khẩu chịu tác động của trợ cấp đó và đánh giá hoàn cảnh dẫn đến nhu cầu cần phải trợ cấp. Trong mọi trường hợp, khi xác định được việc trợ cấp đó gây ra hay đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của một bên ký kết khác, khi được yêu cầu, bên ký kết đang áp dụng trợ cấp sẽ cùng bên ký kết kia hoặc các bên ký kết có liên quan hoặc Các Bên Ký Kết thảo luận khả năng hạn chế trợ cấp.



Mục B - Các quy định bổ sung về trợ cấp xuất khẩu.



2. Các Bên Ký Kết thừa nhận rằng việc một bên ký kết có trợ cấp cho xuất khẩu một sản phẩm có thể dẫn tới hậu quả gây thiệt hại cho các bên ký kết khác, dù là với nước nhập khẩu hay xuất khẩu; và rằng việc đó có thể gây rối loạn không thuận tới quyền lợi thương mại thông thường và gây trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu được đề ra trong Hiệp định này.



3. Do vậy, các bên ký kết phải cố gắng tránh sử dụng trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm sơ cấp. Tuy nhiên, nếu một bên ký kết cho hưởng trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp dưới một hình thức nào đó, có tác dụng tăng xuất khẩu một sản phẩm sơ cấp từ lãnh thổ của mình, trợ cấp đó cũng không được áp dụng để dẫn tới việc tăng thị phần của bên áp dụng trợ cấp lên trên mức hợp lý của tổng xuất khẩu sản phẩm đó trong thương mại quốc tế, có tính đến thị phần đã có của bên ký kết đó trong một thời kỳ có tính đại diện trước đó cũng như mọi nhân tố đặc biệt có thể tác động đến thương mại sản phẩm đó.



4. Ngoài ra, kể từ năm ngày 1 tháng 1 năm 1958 hay vào thời hạn sớm nhất sau ngày đó, các bên ký kết sẽ ngừng việc trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp cho xuất khẩu dưới bất kỳ hình thức nào cho bất kỳmột sản phẩm nào có tác dụng giảm giá bán xuất khẩu sản phẩm này xuống dưới mức giá bán sản phẩm tương tự cho người mua trên thị trường trong nước. Từ nay tới ngày 31 tháng 12 năm 1957, không một bên ký kết nào mở rộng diện thực thi trợ cấp như trên quá mức đã áp dụng vào ngày 1 tháng 1 năm 1955, bằng cách áp dụng trợ cấp mới hay mở rộng diện trợ cấp hiện hành.



5. Các Bên Ký Kết sẽ định kỳ tiến hành xem xét tổng thể việc thực thi các quy định của điều khoản này nhằm xác định, rút kinh nghiệm, xem các quy định đó có thực sự đóng góp hữu hiệu cho việc thực hiện mục tiêu của Hiệp định này và có cho phép thực sự tránh được việc trợ cấp gây tổn hại nghiêm trọng tới thương mại hay tới quyền lợi của các bên ký kết.

Xem nội dung VB
Điều 25
Các thông báo
...

25.3 Nội dung thông báo phải đủ chi tiết cụ thể để các Thành viên khác có thể đánh giá tác động thương mại của nó và hiểu về hoạt động của chương trình trợ cấp được thông báo. Về phương diện này và không làm ảnh hưởng đến nội dung và hình thức bản các câu hỏi về trợ cấp[54], các Thành viên sẽ đảm bảo rằng thông báo sẽ gồm những thông tin sau đây:

(i) hình thức trợ cấp (ví dụ như các khoản thu hoặc cấp, cho vay, ưu đãi về thuế);

(ii) trợ cấp tính theo đơn vị hoặc khi không thể tính cụ thể được, là tổng trị giá hay số tiền trợ cấp cả năm ngân sách dành cho trợ cấp (nếu có thể nêu mức trợ cấp trung bình tính theo đơn vị đã thực hiện năm trước);

(iii) mục tiêu hoặc mục đích về mặt chính sách của trợ cấp;

(iv) thời hạn trợ cấp và/ hoặc thời hạn khác gắn liền với trợ cấp;

(v) số liệu thống kê cho phép đánh giá tác động thương mại của trợ cấp.

Xem nội dung VB
Điều 1: Những qui định chung

1. Trong Hiệp định này, cấp phép nhập khẩu được hiểu là các thủ tục[1] hành chính được sử dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu, yêu cầu phải nộp đơn xin nhập khẩu hoặc các loại giấy tờ khác (không phải giấy tờ cần thiết cho các mục đích hải quan) cho cơ quan hành chính liên quan như là điều kiện đặt ra trước khi nhập khẩu hàng vào lãnh thổ hải quan của Thành viên nhập khẩu.

2. Các Thành viên đảm bảo rằng các thủ tục hành chính được áp dụng để thực hiện chế độ cấp phép nhập khẩu theo các qui định có liên quan của GATT 1994, kể cả các phụ lục, nghị định thư như được hiểu theo Hiệp định này nhằm ngăn chặn tình trạng bóp méo thương mại có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện không đúng các thủ tục đó, có tính đến mục đích phát triển kinh tế và nhu cầu tài chính, thương mại của các Thành viên đang phát triển[2].

3. Các quy định về thủ tục cấp phép nhập khẩu phải mang tính trung lập trong áp dụng và được thực hiện một cách bình đẳng và công bằng.

4. (a) Mọi quy định, thông tin liên quan đến thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như điều kiện để người, công ty và tổ chức được quyền nộp đơn xin cấp phép, cơ quan hành chính cấp phép, danh mục hàng hoá phải xin phép nhập khẩu phải được công bố, đồng thời phải được thông báo cho Uỷ ban Cấp phép Nhập khẩu nói tại Điều 4 (trong Hiệp định này gọi là "Uỷ ban") với cách thức sao cho chính phủ[3] các nước và nhà kinh doanh có thể nắm bắt được. Nếu điều kiện cho phép, các Thành viên phải thông báo công khai các thông tin trên trong thời hạn 21 ngày trước khi các qui định, yêu cầu có hiệu lực, tuy nhiên trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày có hiệu lực. Tất cả các trường hợp ngoại lệ hoặc thay đổi qui định liên quan đến thủ tục cấp phép nhập khẩu hay danh mục các mặt hàng phải xin phép phải được công bố theo cách thức và trong cùng thời hạn nói trên. Các Thành viên phải gửi cho Ban Thư ký một bản sao tài liệu công bố trên.

(b) Các Thành viên muốn đưa ra nhận xét bằng văn bản đều có cơ hội để thảo luận về các nhận xét đó khi có yêu cầu. Thành viên liên quan phải xem xét cẩn trọng các nhận xét và kết quả thảo luận.

5. Mẫu đơn xin cấp phép nhập khẩu hoặc mẫu xin gia hạn giấy phép nhập khẩu, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Khi nộp đơn xin phép nhập khẩu, có thể phải cung cấp một số tài liệu và thông tin được coi là tối cần thiết để thực hiện đúng chế độ cấp phép nhập khẩu.

6. Thủ tục nộp đơn và gia hạn giấy phép, nếu có, phải càng đơn giản càng tốt. Người nộp đơn được cho phép có một khoảng thời gian hợp lý để nộp đơn xin cấp phép nhập khẩu. Nếu có xác định ngày hết hạn nhận đơn, thì khoảng thời hạn nộp đơn phải tối thiểu là 21 ngày với quy định về việc gia hạn thời hạn này trong trường hợp khi chưa nhận đủ số đơn trong thời hạn này. Người làm đơn chỉ phải nộp đơn cho một cơ quan hành chính duy nhất. Trong trường hợp nhất thiết phải tiếp cận nhiều cơ quan hành chính, thì số cơ quan này không được quá 3 cơ quan.

7. Không được phép từ chối đơn xin cấp phép chỉ vì những lỗi nhỏ về tài liệu mà không làm thay đổi những số liệu cơ bản thể hiện trên tài liệu đó. Trong trường hợp có sai sót hoặc nhầm lẫn trong tài liệu hoặc thủ tục, thì hình phạt không được nặng hơn mức cần thiết để cảnh cáo nếu những sai sót hoặc nhầm lẫn này không nhằm mục đích gian lận hoặc do quá cẩu thả.

8. Không được từ chối hàng nhập khẩu đã được cấp phép chỉ vì có sự khác biệt nhỏ về giá trị, số lượng hay trọng lượng so với con số ghi trên giấy phép do sự chênh lệch phát sinh trong quá trình giao hàng, do tính chất của việc bốc hàng dời và những khác biệt nhỏ khác phù hợp với thực tiễn thương mại bình thường.

9. Người có giấy phép có quyền tiếp cận nguồn ngoại hối cần thiết để thanh toán hàng nhập khẩu cấp phép theo cùng điều kiện giống như đối với các nhà nhập khẩu hàng không cần giấy phép.

10. Các qui định của Điều XXI của GATT 1994 sẽ được áp dụng đối với các ngoại lệ vì lý do an ninh;

11. Những qui định trong Hiệp định này không yêu cầu các Thành viên phải tiết lộ thông tin bí mật ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật hoặc những thông tin trái ngược với lợi ích công cộng hoặc làm tổn hại đến lợi ích thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân cụ thể.

Điều 2: Cấp phép Nhập khẩu Tự động[4]

1. Cấp phép nhập khẩu tự động là việc cấp phép mà mọi đơn xin cấp phép đều được phê chuẩn, và phù hợp với yêu cầu của 2(a);

2. Ngoài các qui định từ khoản 1 đến khoản 11 Điều 2 và qui định tại khoản 1 của Điều này, các qui định sau[5] đây được áp dụng đối với việc cấp phép tự động:

(a) Thủ tục cấp phép nhập khẩu tự động sẽ không được tiến hành theo cách thức có tính chất hạn chế đối với những hàng nhập khẩu thuộc diện cấp phép tự động. Thủ tục cấp phép nhập khẩu tự động được coi là không có tác động hạn chế thương mại nếu:

(i) Tất cả những người, cơ quan hoặc tổ chức đáp ứng đầy đủ yêu cầu pháp lý của Thành viên nhập khẩu về việc tham gia hoạt động nhập khẩu mặt hàng thuộc diện cấp phép tự động đều có quyền nộp đơn xin cấp phép và được quyền nhận giấy phép;

(ii) Có thể nộp đơn xin cấp phép vào bất kỳ ngày làm việc nào trước khi làm thủ tục thông quan cho hàng hoá;

(iii) Đơn xin cấp phép hợp lệ và đầy đủ theo mẫu được thông qua ngay khi thụ lý nếu như điều kiện hành chính cho phép, nhưng tối đa là 10 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý.

(b) Các Thành viên công nhận rằng cấp phép nhập khẩu tự động là cần thiết khi không có thủ tục khác tương ứng. Cấp phép nhập khẩu tự động có thể được duy trì cho đến khi ban hành thủ tục tương ứng hoặc khi không có cách nào khác phù hợp hơn để đạt được mục tiêu hành chính dự định.

Điều 3: Cấp phép nhập khẩu không tự động

1. Ngoài các qui định từ khoản 1 đến khoản 11 của Điều 1, các qui định sau đây được áp dụng đối với thủ tục cấp phép nhập khâủ không tự động. Thủ tục cấp phép nhập khẩu không tự động là việc cấp phép không nằm trong định nghĩa nói tại khoản 1 của Điều 2.

2. Ngoài những hạn chế áp dụng đối với hàng nhập khẩu, cấp phép không tự động không được tạo thêm nên những tác động hạn chế hoặc cản trở thương mại. Các thủ tục cấp phép không tự động phải tương ứng với phạm vi và thời hạn áp dụng biện pháp mà các thủ tục đó được sử dụng để thực hiện và không được tạo thêm gánh nặng hành chính quá mức thực sự cần thiết để thực hiện biện pháp đó.

3. Trong trường hợp yêu cầu cấp phép không phải vì mục đích hạn chế số lượng, Thành viên phải công bố thông tin đầy đủ để các Thành viên khác và các nhà kinh doanh được biết cơ sở cấp hay phân bổ giấy phép.

4. Nếu như Thành viên dành cho người, công ty hay tổ chức có cơ hội yêu cầu được hưởng ngoại lệ hay miễn tuân thủ yêu cầu cấp phép, thì Thành viên cũng đưa ra thông tin được công bố theo khoản 4 của Điều 1 và nêu rõ làm thế nào để có thể đưa ra yêu cầu và với mức độ có thể chỉ rõ trong trường hợp nào thì yêu cầu sẽ được xem xét.

5. (a) Theo yêu cầu của bất kỳThành viên nào quan tâm tới thương mại một sản phẩm, Thành viên sẽ cung cấp tất cả các thông tin liên quan về:

(i) các hạn chế và cơ chế quản lý;

(ii) giấy phép nhập khẩu được cấp trong thời gian gần đây;

(iii) phân bổ giấy phép giữa các nước cung ứng;

(iv) số liệu thống kê nhập khẩu (ví dụ trị giá, số lượng...) về sản phẩm phải cấp phép nhập khẩu, khi có điều kiện. Các Thành viên đang phát triển không phải chịu thêm nghĩa vụ hành chính và tài chính trong công việc này.

(b) Các Thành viên sử dụng giấy phép để quản lý hạn ngạch phải công bố tổng số lượng hoặc tổng giá trị hạn ngạch, ngày bắt đầu và kết thúc của hạn ngạch, những thay đổi liên quan trong thời hạn qui định tại khoản 4 của Điều 1 và với sao cho các chính phủ và các nhà kinh doanh có thể nắm được những qui định này;

(c) Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước cung cấp, Thành viên áp dụng hạn chế phải thông báo kịp thời cho tất cả các Thành viên có quyền lợi trong việc cung cấp mặt hàng đó về tỷ lệ hạn ngạch hiện được phân bổ cho các nước cung cấp khác nhau, theo giá trị hoặc theo số lượng, đồng thời cũng công bố thông tin này trong thời hạn qui định tại khoản 4 của Điều 1 và sao cho các chính phủ và các nhà kinh doanh nắm được qui định này;

(d) Trong trường hợp cần ấn định ngày mở hạn ngạch sớm hơn, những thông tin nêu tại khoản 4 của Điều 1 cũng cần phải được công bố trong thời hạn qui định tại khoản 4 của Điều 1 và sao cho các chính phủ và các nhà kinh doanh nắm được qui định này;

(e) Tất cả những người, công ty hoặc tổ chức đáp ứng đầy đủ yêu cầu pháp lý và hành chính củaThành viên nhập khẩu đều có quyền ngang nhau trong việc nộp đơn xin cấp và được xem xét để cấp phép. Nếu đơn xin cấp giấy phép không được chấp nhận, thì theo yêu cầu của người nộp đơn, cơ quan chức năng phải thông báo lý do không chấp nhận và người nộp đơn được quyền khiếu kiện và yêu cầu xem xét lại theo pháp luật và thủ tục trong nước củaThành viên nhập khẩu.

(f) Trừ trường hợp không thể vì những lý do phát sinh ngoài sự kiểm soát của Thành viên, thời gian xem xét đơn xin cấp phép không được vượt quá 30 ngày, nếu đơn được xem xét ngay khi nhận được, có nghĩa là theo nguyên tắc đơn nộp trước sẽ được xét trước, và không quá 60 ngày nếu xét tất cả các đơn cùng một lúc. Trong trường hợp hợp xét tất cả các đơn đồng thời, thời gian xét đơn được tính từ ngày ngay sau ngày hết hạn nộp đơn đã thông báo;

(g) Thời hạn hiệu lực của giấy phép phải hợp lý, không được quá ngắn để ngăn chặn nhập khẩu; Thời hạn hiệu lực của giấy phép không được ngăn chặn hàng nhập khẩu từ nơi xa, trừ trường hợp đặc biệt khi hàng nhập khẩu là cần thiết để đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn không lường trước được;

(h) Khi quản lý hạn ngạch, các Thành viên không được ngăn cản việc nhập khẩu đang được tiến hành theo giấy phép đã được cấp, và không được hạn chế việc sử dụng hết hạn ngạch;

(i) Khi cấp giấy phép, các Thành viên cần tính đến mức độ cần thiết của việc cấp giấy phép cho các sản phẩm theo số lượng kinh tế nhất.

(j) Khi phân bổ giấy phép, các Thành viên cần xem xét tình hình nhập khẩu của người nộp đơn. Về phương diện này cần phải xét xem liệu giấy phép cấp cho người nộp đơn trong quá khứ có được sử dụng hết trong một khoảng thời gian có tính chất tiêu biểu gần đây hay không. Trong trường hợp người nộp đơn đã không sử dụng hết giấy phép đã được cấp, Thành viên phải tìm hiểu lý do tại sao và cân nhắc tới những lý do này khi phân bổ giấy phép mới. Ngoài ra cần phải cân nhắc để đảm bảo việc phân bổ một cách hợp lý giấy phép cho các nhà nhập khẩu mới và có tính đến mức độ cần thiết của việc cấp giấy phép theo số lượng cho các sản phẩm theo số lượng kinh tế nhất về việc này cần đặc biệt quan tâm đến nhà nhập khẩu mua hàng có xuất xứ từ các Thành viên đang phát triển nhất là từ các nước kém phát triển.

(k) Trong trường hợp hạn ngạch được quản lý bằng giấy phép không được phân bổ giữa các nước cung ứng, người được cấp phép[6] có toàn quyền chọn nguồn nhập khẩu. Trong trường hợp phân bổ hạn ngạch giữa các nước cung cấp, trong giấy phép phải qui định rõ tên (các) nước;

(l) Khi áp dụng khoản 8 của Điều 1, nếu lượng nhập khẩu vượt quá mức được cấp phép, thì có thể sẽ điều chỉnh mức phân bổ giấy phép trong tương lai để bù lại lượng nhập quá phép.

Xem nội dung VB
Điều 1: Những qui định chung
...

4. (a) Mọi quy định, thông tin liên quan đến thủ tục nộp đơn xin giấy phép nhập khẩu như điều kiện để người, công ty và tổ chức được quyền nộp đơn xin cấp phép, cơ quan hành chính cấp phép, danh mục hàng hoá phải xin phép nhập khẩu phải được công bố, đồng thời phải được thông báo cho Uỷ ban Cấp phép Nhập khẩu nói tại Điều 4 (trong Hiệp định này gọi là "Uỷ ban") với cách thức sao cho chính phủ[3] các nước và nhà kinh doanh có thể nắm bắt được. Nếu điều kiện cho phép, các Thành viên phải thông báo công khai các thông tin trên trong thời hạn 21 ngày trước khi các qui định, yêu cầu có hiệu lực, tuy nhiên trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày có hiệu lực. Tất cả các trường hợp ngoại lệ hoặc thay đổi qui định liên quan đến thủ tục cấp phép nhập khẩu hay danh mục các mặt hàng phải xin phép phải được công bố theo cách thức và trong cùng thời hạn nói trên. Các Thành viên phải gửi cho Ban Thư ký một bản sao tài liệu công bố trên.

(b) Các Thành viên muốn đưa ra nhận xét bằng văn bản đều có cơ hội để thảo luận về các nhận xét đó khi có yêu cầu. Thành viên liên quan phải xem xét cẩn trọng các nhận xét và kết quả thảo luận.

Xem nội dung VB
Điều 5: Thông báo
...

2. Thông báo ban hành thủ tục cấp phép cần phải bao gồm những thông tin sau:

(a) danh mục hàng hoá phải làm thủ tục cấp phép;

(b) cơ quan liên lạc để cung cấp thông tin về điều kiện được quyền làm đơn xin phép nhập khẩu;

(c) cơ quan hành chính thụ lý đơn xin nhập khẩu;

(d) ngày và tên của ấn bản công bố thủ tục cấp phép;

(e) nêu rõ thủ tục cấp phép là tự động hay không tự động theo định nghĩa tại Điều 2 và 3;

(f) mục đích hành chính của việc cấp phép đối với trường hợp thủ tục cấp phép tự động;

(g) nêu rõ biện pháp đang được thực hiện thông qua việc cấp phép đối với trường hợp thủ tục cấp phép không tự động;

(h) thời hạn dự kiến của thủ tục cấp phép, nếu thời hạn này là có thể dự đoán được với một xác xuất nào đó, nếu không phải nêu rõ lý do tại sao không thể cung cấp được thông tin này.

3. Thông báo thay đổi thủ tục cấp phép nhập khẩu cũng phải nêu rõ những yếu tố trên nếu chúng bị thay đổi.

Xem nội dung VB
Điều XI

Triệt tiêu chung các hạn chế định lượng



1. Không một sự cấm hay hạn chế nào khác ngoại trừ thuế quan và các khoản thu khác, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác sẽ được bất cứ một bên ký kết nào định ra hay duy trì nhằm vào việc nhập khẩu từ lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào hay nhằm vào việc xuất khẩu hay bán hàng để xuất khẩu đến lãnh thổ của bất kỳ bên ký kết nào.



2. Các quy định của khoản 1 trong điều khoản này sẽ không được áp dụng với các trường hợp dưới đây:



(a) Cấm hay hạn chế xuất khẩu tạm thời áp dụng nhằm ngăn ngừa hay khắc phục sự khan hiếm trầm trọng về lương thực hay các sản phẩm khác mang tính trọng yếu đối với với Bên ký kết đang xuất khẩu;



(b) Cấm hay hạn chế xuất khẩu cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy chế về phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trên thị trường quốc tế;



(c) Hạn chế nhập khẩu nông sản hay thuỷ sản dù nhập khẩu dưới bất cứ hình thức nào nhằm triển khai các biện pháp của chính phủ được áp dụng:



(i) để hạn chế số lượng các sản phẩm nội địa tương tự được phép tiêu thụ trên thị trường hay sản xuất, hoặc là nếu không có một nền sản xuất trong nước đáng kể, thì để hạn chế số lượng một sản phẩm nội địa có thể bị sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế; hoặc



(ii) để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nội địa tương tự, hoặc nếu không có nền sản xuất một sản phẩm nội địa tương tự, để loại trừ tình trạng dư thừa một sản phẩm nhập khẩu trực tiếp thay thế, bằng cách đem số lượng dư thừa để phục vụ một nhóm người tiêu dùng miễn phí hay giảm giá dưới giá thị trường; hoặc



(iii) để hạn chế số lượng cho phép sản xuất với một súc sản mà việc sản xuất lại phụ thuộc trực tiếp một phần hay toàn bộ vào một mặt hàng nhập khẩu, nếu sản xuất mặt hàng đó trong nước tương đối nhỏ.



Bất cứ một bên ký kết nào khi áp dụng hạn chế nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào theo nội dung điểm (c) của khoản này sẽ công bố tổng khối lượng hay tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định trong tương lai và mọi thay đổi về số lượng hay trị giá nói trên. Hơn thế nữa, bất cứ sự hạn chế nào được áp dụng theo nội dung mục (i) nói trên cũng không nhằm hạn chế tổng khối lượng nhập khẩu trong tương quan với tổng khối lượng được sản xuất trong nước, so với tỷ trọng hợp lý có thể có trong điều kiện không có hạn chế. Khi xác định tỷ trọng này bên ký kết đó cần quan tâm đúng mức tới tỷ trọng đã có trong một thời gian đại diện trước đó hay quan tâm tới một nhân tố riêng biệt nào đó có thể đã hay đang ảnh hưởng tới sản phẩm liên quan.
...

Điều XIII

áp dụng các hạn chế số lượng một cách không phân biệt đối xử



1. Không một sự cấm hay hạn chế nào sẽ được bất kỳ một bên ký kết nào áp dụng với việc nhập khẩu bất kỳ một sản phẩm nào có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết khác hay với một sản phẩm xuất khẩu đến lãnh thổ của bất kỳ một bên ký kết khác, trừ khi những sự cấm đoán hạn chế tương tự cũng được áp dụng với sản phẩm tương tự có xuất xứ từ một nước thứ ba hay với một sản phẩm tương tự xuất khẩu đi một nước thứ ba.



2. Khi áp dụng các hạn chế với nhập khẩu một sản phẩm nào đó, các bên ký kết sẽ cố gắng đạt đến sự phân bổ về thương mại sản phẩm đó gần nhất với thực trạng thương mại của sản phẩm đó mà các bên ký kết khác nhau có thể có được trong hoàn cảnh không có các hạn chế đó, và các bên ký kết sẽ tuân thủ các quy định sau:



(a) Khi có thể tiến hành được, tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu (dù có phân bổ giữa cho các nhà cung cấp hay không) sẽ được xác định và công bố theo quy định của điểm b) khoản 3 của Điều này.



(b) Khi không thể xác định được tổng hạn ngạch, các hạn chế có thể được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập khẩu không có tổng khối lượng.



(c) Trừ khi vận dụng hạn ngạch phân bổ phù hợp với điểm d) thuộc khoản này, các bên ký kết sẽ không đưa ra quy định rằng giấy phép nhập khẩu được sử dụng để nhập khẩu một sản phẩm xác định có xuất xứ từ một nước hay một nguồn cụ thể nào.



(d) Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước cung cấp, bên ký kết đang áp dụng hạn ngạch có thể thoả thuận với các bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm đó về mức được phân bổ. Trong những trường hợp phương thức nêu trên không hợp lý, bên ký kết nói trên sẽ phân chia hạn ngạch thành các phần tương ứng cho các bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm đó theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên ký kết trong nhập khẩu một hàng đó trong một thời kỳ trước đó có tính đại diện, có tính đến mọi nhân tố đặc biệt có thể tác động đến thương mại của sản phẩm đó. Không một điều kiện hay thủ tục riêng nào mang tính chất ngăn cản một bên ký kết sử dụng hết phần hạn ngạch đã được phân bổ, được đặt ra với điều kiện hàng được nhập khẩu trong thời hạn đã quy định trong giấy phép sử dụng hạn ngạch.



3. (a) Trong trường hợp áp dụng việc cấp phép nhập khẩu khi hạn chế nhập khẩu, khi các bên ký kết quan tâm tới việc nhập khẩu sản phẩm nói trên có yêu cầu, bên ký kết đang áp dụng hạn chế sẽ cung cấp các thông tin hữu ích liên quan tới việc áp dụng các hạn chế, các giấy phép đã cấp trong thời gian gần đó và việc phân bổ giấy phép giữa các nước cung cấp, tuy nhiên không phải cung cấp tên các nhà nhập khẩu hay nhà cung cấp.



(b) Trong trường hợp hạn chế nhập khẩu thông qua hạn ngạch, bên ký kết đang áp dụng hạn chế sẽ công bố tổng khối lượng và tổng trị giá của sản phẩm được phép nhập khẩu trong thời kỳ sắp tới cũng như công bố mọi thay đổi liên quan. Nếu một sản phẩm nào đó đang trên đường vận chuyển khi việc hạn chế được công bố, hàng hoá sẽ không bị từ chối nhập khẩu khi tới cảng. Tuy nhiên được phép khấu trừ, trong chừng mực có thể, trong số lượng cho phép nhập khẩu trong thời kỳ có hạn chế số lượng nêu trên và nếu cần, khấu trừ trong số lượng cho phép nhập khẩu vào thời kỳ tiếp theo. Ngoài ra nếu một bên ký kết, theo thông lệ, miễn áp dụng hạn chế sản phẩm với các sản phẩm được hoàn thành thủ tục hải quan trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố Danh mục hạn chế được coi là thoả mãn hoàn toàn các quy định của điểm này.



(c) Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước cung cấp, bên ký kết áp dụng hạn chế sẽ thông báo trong thời hạn ngắn nhất tất cả các bên ký kết quan tâm đến việc cung cấp sản phẩm liên quan về phần hạn ngạch được phân bổ cho các nước cung cấp khác nhau, tính theo khối lượng và trọng lượng, thời hạn có hiệu lực và công bố mọi thông tin hữu ích liên quan.



4. Với các hạn chế áp dụng phù hợp với khoản 2 d) của Điều này hay khoản 2 c) của Điều XI, trước tiên Bên ký kết áp dụng các hạn chế tự mình chọn thời kỳ đại diện cho mỗi sản phẩm cũng như bất kỳ nhân tố đặc biệt nào tác động đến thương mại của sản phẩm đó. Tuy nhiên, khi một Bên ký kết có quyền lợi đáng kể trong việc cung cấp sản phẩm đó yêu cầu hay Các Bên Ký Kết có yêu cầu, bên ký kết nói trên sẽ tham vấn không chậm trễ với bên ký kết kia hoặc Các Bên Ký Kết về việc cần xem xét lại tỷ lệ phần trăm đã phân bổ hay thời kỳ đại diện đã được chọn hay đánh giá về các nhân tố đặc biệt mới đã được đưa vào tính toán, hay loại bỏ các điều kiện, thủ tục, hay các quy định khác được đưa ra một cách đơn phương và có liên quan tới việc phân bổ hạn ngạch cho thích hợp hay việc sử dụng hạn ngạch không bị hạn chế.



5. Các quy định của Điều này cũng được áp dụng với hạn ngạch thuế quan được một bên ký kết đặt ra hay duy trì; hơn nữa, trong chừng mực có thể, các nguyên tắc này cũng được áp dụng với các biện pháp hạn chế xuất khẩu.

Xem nội dung VB
Điều XVII

Doanh nghiệp thương mại nhà nước



1. a) Mỗi bên ký kết cam kết rằng khi lập ra một doanh nghiệp thương mại nhà nước, khi phân bổ hoặc dành cho một doanh nghiệp độc quyền hay đặc quyền thương mại theo luật pháp hay trong thực tế, doanh nghiệp đó khi tiến hành mua bán thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu sẽ tuân thủ các nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này đối với các biện pháp của chính phủ tác động tới hoạt động nhập khẩu hay xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân.



b) Các quy định của điểm a) thuộc khoản này phải được hiểu là đòi hỏi các doanh nghiệp nói trên nhìn nhận đúng mức các quy định khác của Hiệp định này và khi tiến hành mua bán như vậy chỉ xem xét quyết định chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại như giá cả, chất lượng, khả năng sẵn có, khả năng cung cấp, vận tải và các điều kiện mua bán khác, cũng như được hiểu là phải dành cho các doanh nghiệp của các bên ký kết khác khả năng thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này trong các điều kiện tự do cạnh tranh và phù hợp với tập quán thương mại thông thường.



c) Không một bên ký kết nào ngăn cản các doanh nghiệp (dù là doanh nghiệp được đề cập ở điểm a) khoản này hay không chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước mình) hành động phù hợp với các nguyên tắc đã nêu tại điểm a) và điểm b) của khoản này.



2. Các quy định của khoản 1 điều khoản này không áp dụng với việc nhập khẩu sản phẩm dành cho tiêu dùng ngay hay cuối cùng được tiêu dùng bởi các cơ quan chính quyền hay do chính quyền thanh toán mà không được bán lại hoặc được dùng để sản xuất hàng hoá nhằm mục đích bán lại. Với các hoạt động thương mại này mỗi bên ký kết sẽ dành sự đãi ngộ công bằng với các bên ký kết khác.



3. Các bên ký kết thừa nhận rằng các doanh nghiệp thuộc loại được định nghĩa tại điểm a) của khoản 1 điều khoản này có thể được sử dụng theo cách có thể dẫn tới gây trở ngại nghiêm trọng cho thương mại, do vậy để đảm bảo cho sự phát triển của thương mại quốc tế, vấn đề quan trọng là tiến hành đàm phán trên cơ sở có đi có lại và các bên cùng có lợi, nhằm giới hạn hay giảm bớt các trở ngại đó.



4. a) Các bên ký kết sẽ thông báo cho Các Bên Ký Kết các sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ lãnh thổ của mình do các doanh nghiệp thuộc loại đã định nghĩa tại tiểu mục 1 của điều khoản này tiến hành.



b) Bên ký kết đặt ra hay cho phép một sự độc quyền nhập khẩu một sản phẩm không thuộc diện nhân nhượng (thuế quan) theo nội dung điều khoản II, khi có yêu cẩu của một bên ký kết đang mua/bán ở mức đáng kể sản phẩm này, sẽ thông báo cho Các Bên Ký Kết biết chênh lệch giá nhập khẩu của sản phẩm đó trong một thời kỳ đại diện gần nhất và hoặc, khi có thể, cho biết giá bán ra của sản phẩm đó.



c) Khi một bên ký kết có yêu cầu và có lý do để tin rằng quyền lợi của mình trong khuôn khổ Hiệp định này đang bị tổn hại do hoạt động của các doanh nghiệp thuộc loại đã định nghĩa tại điểm a) của khoản 1, Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu bên ký kết đang lập ra, duy trì hay cho phép một doanh nghiệp như vậy cung cấp các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp đó liên quan tới việc tuân thủ các nguyên tắc của Hiệp định này.



d) Các quy định của khoản này không buộc các bên ký kết phải điểm lộ các thông tin không phổ biến mà nếu được điểm lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay làm tổn hại đến quyền lợi thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất định.

Xem nội dung VB
Điều VI



Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng



1. Các bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, tức là việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Nhằm vận dụng điều khoản này, một sản phẩm được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác



(a) thấp hơn giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc



(b) trường hợp không có một giá nội địa như vậy, thấp hơn một trong hai mức



(i) giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc



(ii) giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận.



Trong mỗi trường hợp trên, sẽ có xem xét điều chỉnh một cách thoả đáng đối với các khác biệt về điều kiện và điều khoản bán hàng, khác biệt về chế độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.



2. Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, một bên ký kết có thể đánh vào bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán phá giá của sản phẩm đó. Trong khuôn khổ Điều này, biên độ bán phá giá được coi là sự chênh lệch về giá được xác định phù hợp với các quy định tại khoản 1.



3. Thuế đối kháng không được phép đánh vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác ở mức vượt quá mức tương ứng với khoản hỗ trợ hay trợ cấp đã xác định là đã được cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chế biến, sản xuất hay xuất khẩu của sản phẩm đó tại nước xuất xứ hay nước xuất khẩu, trong đó bao gồm cả các khoản trợ cấp đặc biệt cho việc chuyên chở sản phẩm đó. Thuật ngữ thuế đối kháng được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào.



4 Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với lý do đã được miễn thuế mà một sản phẩm tương tự phải trả khi tiêu thụ tại nước xuất xứ hoặc xuất khẩu, hay vì lí do đã được hoàn lại các thuế đó.



5. Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu.



6. (a) Không một bên ký kết nào sẽ đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với hàng nhập khẩu xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết khác trừ khi đã xác định, tuỳ theo trường hợp cụ thể, thực sự đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước đã được thiết lập hay làm chậm đáng kể việc lập nên một ngành sản xuất trong nước.



(b) Các Bên Ký Kết có thể cho phép miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) đoạn này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với việc nhập khẩu bất cứ sản phẩm nào nhằm mục đích triệt tiêu việc bán phá giá hay trợ cấp đã gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể với một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác là bên xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm đã nói trên. Các Bên Ký Kết sẽ miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) thuộc khoản này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế đối kháng trong trường hợp nhận thấy rằng việc trợ cấp đang gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác cũng xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm.



(c) Tuy nhiên trong các tình huống đặc biệt, nếu việc trì hoãn có thể gây ra tổn hại khó có thể khắc phục được, một bên ký kết có thể đánh thuế đối kháng với mục đích như đã nêu tại điểm (b) của khoản này mà không cần được Các Bên Ký Kết thông qua trước; miễn rằng phải thông báo lại ngay cho Các Bên Ký Kết biết và khi Các Bên Ký Kết không tán thành thì sẽ rút bỏ ngay việc áp dụng thuế này.



7. Một hệ thống ổn định giá trong nước hay ổn định sự hoàn vốn cho các nhà sản xuất sản phẩm sơ cấp trong nước, không phụ thuộc vào biến động giá cả trong xuất khẩu có khi dẫn tới bán hàng cho xuất khẩu với giá thấp hơn giá so sánh dành cho người mua trên thị trường trong nước, sẽ không được suy diễn là dẫn tới tổn hại đáng kể hiểu theo ý của khoản 6 nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm này sau khi tham vấn thấy rằng:



(a) hệ thống đó cũng dẫn đến kết quả là sản phẩm được bán cho xuất khẩu với giá cao hơn giá so sánh bán sản phẩm tương tự cho người mua trong nước, và



(b) hệ thống cũng vận hành như vậy, hoặc trong điều chỉnh thực tế sản xuất, hoặc một lý do nào khác, không dẫn tới hệ quả là thúc đẩy không chính đáng xuất khẩu hay làm tổn hại nghiêm trọng quyền lợi của các bên ký kết khác.
...

Điều XVI

Trợ cấp



Điểm A - Trợ cấp nói chung



1. Nếu bất kỳ bên ký kết nào hiện dành hay duy trì trợ cấp, bao gồm mọi hình thức hỗ trợ thu nhập hay trợ giá, trực tiếp hoặc gián tiếp có tác động làm tăng xuất khẩu một sản phẩm từ lãnh thổ của bên ký kết đó hay làm giảm nhập khẩu vào lãnh thổ của mình, bên ký kết đó sẽ thông báo bằng văn bản cho Các Bên Ký Kết về mức độ, tính chất của việc trợ cấp đó, các tác động để có cơ sở đánh giá số lượng của sản phẩm hay các sản phẩm xuất khẩu hay nhập khẩu chịu tác động của trợ cấp đó và đánh giá hoàn cảnh dẫn đến nhu cầu cần phải trợ cấp. Trong mọi trường hợp, khi xác định được việc trợ cấp đó gây ra hay đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của một bên ký kết khác, khi được yêu cầu, bên ký kết đang áp dụng trợ cấp sẽ cùng bên ký kết kia hoặc các bên ký kết có liên quan hoặc Các Bên Ký Kết thảo luận khả năng hạn chế trợ cấp.



Mục B - Các quy định bổ sung về trợ cấp xuất khẩu.



2. Các Bên Ký Kết thừa nhận rằng việc một bên ký kết có trợ cấp cho xuất khẩu một sản phẩm có thể dẫn tới hậu quả gây thiệt hại cho các bên ký kết khác, dù là với nước nhập khẩu hay xuất khẩu; và rằng việc đó có thể gây rối loạn không thuận tới quyền lợi thương mại thông thường và gây trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu được đề ra trong Hiệp định này.



3. Do vậy, các bên ký kết phải cố gắng tránh sử dụng trợ cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm sơ cấp. Tuy nhiên, nếu một bên ký kết cho hưởng trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp dưới một hình thức nào đó, có tác dụng tăng xuất khẩu một sản phẩm sơ cấp từ lãnh thổ của mình, trợ cấp đó cũng không được áp dụng để dẫn tới việc tăng thị phần của bên áp dụng trợ cấp lên trên mức hợp lý của tổng xuất khẩu sản phẩm đó trong thương mại quốc tế, có tính đến thị phần đã có của bên ký kết đó trong một thời kỳ có tính đại diện trước đó cũng như mọi nhân tố đặc biệt có thể tác động đến thương mại sản phẩm đó.



4. Ngoài ra, kể từ năm ngày 1 tháng 1 năm 1958 hay vào thời hạn sớm nhất sau ngày đó, các bên ký kết sẽ ngừng việc trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp cho xuất khẩu dưới bất kỳ hình thức nào cho bất kỳmột sản phẩm nào có tác dụng giảm giá bán xuất khẩu sản phẩm này xuống dưới mức giá bán sản phẩm tương tự cho người mua trên thị trường trong nước. Từ nay tới ngày 31 tháng 12 năm 1957, không một bên ký kết nào mở rộng diện thực thi trợ cấp như trên quá mức đã áp dụng vào ngày 1 tháng 1 năm 1955, bằng cách áp dụng trợ cấp mới hay mở rộng diện trợ cấp hiện hành.



5. Các Bên Ký Kết sẽ định kỳ tiến hành xem xét tổng thể việc thực thi các quy định của điều khoản này nhằm xác định, rút kinh nghiệm, xem các quy định đó có thực sự đóng góp hữu hiệu cho việc thực hiện mục tiêu của Hiệp định này và có cho phép thực sự tránh được việc trợ cấp gây tổn hại nghiêm trọng tới thương mại hay tới quyền lợi của các bên ký kết.

Xem nội dung VB
Điều VI

Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng

1. Các bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, tức là việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Nhằm vận dụng điều khoản này, một sản phẩm được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác

(a) thấp hơn giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc

(b) trường hợp không có một giá nội địa như vậy, thấp hơn một trong hai mức

(i) giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc

(ii) giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận.

Trong mỗi trường hợp trên, sẽ có xem xét điều chỉnh một cách thoả đáng đối với các khác biệt về điều kiện và điều khoản bán hàng, khác biệt về chế độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.*

2. Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, một bên ký kết có thể đánh vào bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán phá giá của sản phẩm đó. Trong khuôn khổ Điều này, biên độ bán phá giá được coi là sự chênh lệch về giá được xác định phù hợp với các quy định tại khoản 1.*

3. Thuế đối kháng không được phép đánh vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác ở mức vượt quá mức tương ứng với khoản hỗ trợ hay trợ cấp đã xác định là đã được cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chế biến, sản xuất hay xuất khẩu của sản phẩm đó tại nước xuất xứ hay nước xuất khẩu, trong đó bao gồm cả các khoản trợ cấp đặc biệt cho việc chuyên chở sản phẩm đó. Thuật ngữ thuế đối kháng được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào.

4 Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với lý do đã được miễn thuế mà một sản phẩm tương tự phải trả khi tiêu thụ tại nước xuất xứ hoặc xuất khẩu, hay vì lí do đã được hoàn lại các thuế đó.

5. Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu.

6. (a) Không một bên ký kết nào sẽ đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với hàng nhập khẩu xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết khác trừ khi đã xác định, tuỳ theo trường hợp cụ thể, thực sự đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước đã được thiết lập hay làm chậm đáng kể việc lập nên một ngành sản xuất trong nước.

(b) Các Bên Ký Kết có thể cho phép miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) đoạn này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với việc nhập khẩu bất cứ sản phẩm nào nhằm mục đích triệt tiêu việc bán phá giá hay trợ cấp đã gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể với một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác là bên xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm đã nói trên. Các Bên Ký Kết sẽ miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) thuộc khoản này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế đối kháng trong trường hợp nhận thấy rằng việc trợ cấp đang gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác cũng xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm.

(c) Tuy nhiên trong các tình huống đặc biệt, nếu việc trì hoãn có thể gây ra tổn hại khó có thể khắc phục được, một bên ký kết có thể đánh thuế đối kháng với mục đích như đã nêu tại điểm (b) của khoản này mà không cần được Các Bên Ký Kết thông qua trước; miễn rằng phải thông báo lại ngay cho Các Bên Ký Kết biết và khi Các Bên Ký Kết không tán thành thì sẽ rút bỏ ngay việc áp dụng thuế này.

7. Một hệ thống ổn định giá trong nước hay ổn định sự hoàn vốn cho các nhà sản xuất sản phẩm sơ cấp trong nước, không phụ thuộc vào biến động giá cả trong xuất khẩu có khi dẫn tới bán hàng cho xuất khẩu với giá thấp hơn giá so sánh dành cho người mua trên thị trường trong nước, sẽ không được suy diễn là dẫn tới tổn hại đáng kể hiểu theo ý của khoản 6 nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm này sau khi tham vấn thấy rằng:

(a) hệ thống đó cũng dẫn đến kết quả là sản phẩm được bán cho xuất khẩu với giá cao hơn giá so sánh bán sản phẩm tương tự cho người mua trong nước, và

(b) hệ thống cũng vận hành như vậy, hoặc trong điều chỉnh thực tế sản xuất, hoặc một lý do nào khác, không dẫn tới hệ quả là thúc đẩy không chính đáng xuất khẩu hay làm tổn hại nghiêm trọng quyền lợi của các bên ký kết khác.

Xem nội dung VB
Điều VI

Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng

1. Các bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, tức là việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Nhằm vận dụng điều khoản này, một sản phẩm được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác

(a) thấp hơn giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc

(b) trường hợp không có một giá nội địa như vậy, thấp hơn một trong hai mức

(i) giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc

(ii) giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận.

Trong mỗi trường hợp trên, sẽ có xem xét điều chỉnh một cách thoả đáng đối với các khác biệt về điều kiện và điều khoản bán hàng, khác biệt về chế độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.*

2. Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, một bên ký kết có thể đánh vào bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán phá giá của sản phẩm đó. Trong khuôn khổ Điều này, biên độ bán phá giá được coi là sự chênh lệch về giá được xác định phù hợp với các quy định tại khoản 1.*

3. Thuế đối kháng không được phép đánh vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác ở mức vượt quá mức tương ứng với khoản hỗ trợ hay trợ cấp đã xác định là đã được cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chế biến, sản xuất hay xuất khẩu của sản phẩm đó tại nước xuất xứ hay nước xuất khẩu, trong đó bao gồm cả các khoản trợ cấp đặc biệt cho việc chuyên chở sản phẩm đó. Thuật ngữ thuế đối kháng được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào.

4 Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với lý do đã được miễn thuế mà một sản phẩm tương tự phải trả khi tiêu thụ tại nước xuất xứ hoặc xuất khẩu, hay vì lí do đã được hoàn lại các thuế đó.

5. Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu.

6. (a) Không một bên ký kết nào sẽ đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với hàng nhập khẩu xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết khác trừ khi đã xác định, tuỳ theo trường hợp cụ thể, thực sự đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước đã được thiết lập hay làm chậm đáng kể việc lập nên một ngành sản xuất trong nước.

(b) Các Bên Ký Kết có thể cho phép miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) đoạn này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với việc nhập khẩu bất cứ sản phẩm nào nhằm mục đích triệt tiêu việc bán phá giá hay trợ cấp đã gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể với một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác là bên xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm đã nói trên. Các Bên Ký Kết sẽ miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) thuộc khoản này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế đối kháng trong trường hợp nhận thấy rằng việc trợ cấp đang gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác cũng xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm.

(c) Tuy nhiên trong các tình huống đặc biệt, nếu việc trì hoãn có thể gây ra tổn hại khó có thể khắc phục được, một bên ký kết có thể đánh thuế đối kháng với mục đích như đã nêu tại điểm (b) của khoản này mà không cần được Các Bên Ký Kết thông qua trước; miễn rằng phải thông báo lại ngay cho Các Bên Ký Kết biết và khi Các Bên Ký Kết không tán thành thì sẽ rút bỏ ngay việc áp dụng thuế này.

7. Một hệ thống ổn định giá trong nước hay ổn định sự hoàn vốn cho các nhà sản xuất sản phẩm sơ cấp trong nước, không phụ thuộc vào biến động giá cả trong xuất khẩu có khi dẫn tới bán hàng cho xuất khẩu với giá thấp hơn giá so sánh dành cho người mua trên thị trường trong nước, sẽ không được suy diễn là dẫn tới tổn hại đáng kể hiểu theo ý của khoản 6 nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm này sau khi tham vấn thấy rằng:

(a) hệ thống đó cũng dẫn đến kết quả là sản phẩm được bán cho xuất khẩu với giá cao hơn giá so sánh bán sản phẩm tương tự cho người mua trong nước, và

(b) hệ thống cũng vận hành như vậy, hoặc trong điều chỉnh thực tế sản xuất, hoặc một lý do nào khác, không dẫn tới hệ quả là thúc đẩy không chính đáng xuất khẩu hay làm tổn hại nghiêm trọng quyền lợi của các bên ký kết khác.

Xem nội dung VB
Điều XIX



Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định



1. a) Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và do kết quả của những nghĩa vụ, trong đó có những nhân nhượng thuế quan của một bên ký kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước, bên ký kết đó có quyền ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan, đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục tổn hại đó.



b) Nếu một bên ký kết đã chấp nhận một sự nhân nhượng liên quan tới một sự ưu đãi và sản phẩm là đối tượng ưu đãi được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết có tình huống như nêu tại điểm a) của khoản này tới mức mà nhập khẩu đó đã gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay trực tiếp cạnh tranh là các nhà sản xuất trên lãnh thổ của bên ký kết đang được hưởng hay đã được hưởng sự ưu dãi đó, bên ký kết này có thể đề nghị bên ký kết đang nhập khẩu và bên ký kết đang nhập khẩu có quyền tạm ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn ngừa và khắc phục tổn hại đó.



2. Trước khi một bên ký kết áp dụng những biện pháp phù hợp với các quy định của khoản đầu điều khoản này, bên đó sẽ thông báo trước bằng văn bản sớm nhất có thể cho Các Bên Ký Kết biết. Bên ký kết đó sẽ dành cho Các Bên Ký Kết cũng như các bên ký kết khác với tư cách là nước xuất khẩu các sản phẩm nói trên cơ hội cùng xem xét các biện pháp được dự kiến áp dụng. Nếu thông báo về một nhân nhượng liên quan tới một ưu đãi, trong thông báo sẽ nêu rõ tên bên ký kết đã đề nghị áp dụng biện pháp đó. Trong các hoàn cảnh khó khăn mà mọi sự chậm trễ sẽ dẫn đến những hậu quả khó có thể khắc phục được, các biện pháp đã dự kiến tại khoản đầu tiên của điều khoản này có thể được tạm thời áp dụng mà không cần tham vấn trước, với điều kiện là tham vấn được tiến hành ngay sau khi các biện pháp được áp dụng.



3. a) Nếu các bên ký kết liên quan không đi đến nhất trí, bên ký kết đề nghị áp dụng và duy trì biện pháp đó có quyền tiếp tục hành động. Nếu hành động đó được áp dụng hay tiếp tục được áp dụng, trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày các biện pháp được áp dụng và sau 30 ngày kể từ khi Các Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng văn bản, các bên ký kết chịu tác động của các biện pháp đó có quyền ngừng không cho thương mại của bên ký kết đang áp dụng các biện pháp đó hoặc trong trường hợp đã dự liệu tại điểm b) của khoản đầu tiên điều khoản này không cho thương mại của bên ký kết đã yêu cầu áp dụng các biện pháp đó hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ tương ứng đáng kể khác thuộc Hiệp định này và việc ngừng đó sẽ không bị Các Bên Ký Kết phản đối.



b) Không làm tổn hại đến các quy định của điểm a) thuộc khoản này, nếu các biện pháp đã áp dụng theo tinh thần khoản 2 điều khoản này, không có tham vấn trước, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước, trên lãnh thổ của một bên ký kết khác chịu tác động của các biện pháp đó, khi mỗi sự chậm trễ có thể gây ra những thiệt hại khó có thể khắc phục được, bên ký kết này có quyền ngừng cho hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ khác trong thời hạn cần thiết để ngăn ngừa hay khắc phục thiệt hại đó, có hiệu lực ngay từ khi các biện pháp nói trên được áp dụng hay trong suốt thời kỳ tham vấn.

Xem nội dung VB
Điều XIX



Biện pháp khẩn cấp đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nhất định



1. a) Nếu do hậu quả của những diễn tiến không lường trước được và do kết quả của những nghĩa vụ, trong đó có những nhân nhượng thuế quan của một bên ký kết theo Hiệp định này, một sản phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng gia tăng và với các điều kiện đến mức gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay sản phẩm cạnh tranh trực tiếp trong nước, bên ký kết đó có quyền ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan, đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục tổn hại đó.



b) Nếu một bên ký kết đã chấp nhận một sự nhân nhượng liên quan tới một sự ưu đãi và sản phẩm là đối tượng ưu đãi được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết có tình huống như nêu tại điểm a) của khoản này tới mức mà nhập khẩu đó đã gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất những sản phẩm tương tự hay trực tiếp cạnh tranh là các nhà sản xuất trên lãnh thổ của bên ký kết đang được hưởng hay đã được hưởng sự ưu dãi đó, bên ký kết này có thể đề nghị bên ký kết đang nhập khẩu và bên ký kết đang nhập khẩu có quyền tạm ngừng hoàn toàn hay một phần các cam kết của mình, rút bỏ hay điều chỉnh nhân nhượng thuế quan đối với sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để ngăn ngừa và khắc phục tổn hại đó.



2. Trước khi một bên ký kết áp dụng những biện pháp phù hợp với các quy định của khoản đầu điều khoản này, bên đó sẽ thông báo trước bằng văn bản sớm nhất có thể cho Các Bên Ký Kết biết. Bên ký kết đó sẽ dành cho Các Bên Ký Kết cũng như các bên ký kết khác với tư cách là nước xuất khẩu các sản phẩm nói trên cơ hội cùng xem xét các biện pháp được dự kiến áp dụng. Nếu thông báo về một nhân nhượng liên quan tới một ưu đãi, trong thông báo sẽ nêu rõ tên bên ký kết đã đề nghị áp dụng biện pháp đó. Trong các hoàn cảnh khó khăn mà mọi sự chậm trễ sẽ dẫn đến những hậu quả khó có thể khắc phục được, các biện pháp đã dự kiến tại khoản đầu tiên của điều khoản này có thể được tạm thời áp dụng mà không cần tham vấn trước, với điều kiện là tham vấn được tiến hành ngay sau khi các biện pháp được áp dụng.



3. a) Nếu các bên ký kết liên quan không đi đến nhất trí, bên ký kết đề nghị áp dụng và duy trì biện pháp đó có quyền tiếp tục hành động. Nếu hành động đó được áp dụng hay tiếp tục được áp dụng, trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày các biện pháp được áp dụng và sau 30 ngày kể từ khi Các Bên Ký Kết nhận được thông báo trước bằng văn bản, các bên ký kết chịu tác động của các biện pháp đó có quyền ngừng không cho thương mại của bên ký kết đang áp dụng các biện pháp đó hoặc trong trường hợp đã dự liệu tại điểm b) của khoản đầu tiên điều khoản này không cho thương mại của bên ký kết đã yêu cầu áp dụng các biện pháp đó hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ tương ứng đáng kể khác thuộc Hiệp định này và việc ngừng đó sẽ không bị Các Bên Ký Kết phản đối.



b) Không làm tổn hại đến các quy định của điểm a) thuộc khoản này, nếu các biện pháp đã áp dụng theo tinh thần khoản 2 điều khoản này, không có tham vấn trước, gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước, trên lãnh thổ của một bên ký kết khác chịu tác động của các biện pháp đó, khi mỗi sự chậm trễ có thể gây ra những thiệt hại khó có thể khắc phục được, bên ký kết này có quyền ngừng cho hưởng các nhân nhượng hay ngừng các nghĩa vụ khác trong thời hạn cần thiết để ngăn ngừa hay khắc phục thiệt hại đó, có hiệu lực ngay từ khi các biện pháp nói trên được áp dụng hay trong suốt thời kỳ tham vấn.

Xem nội dung VB
Điều VII

Xác định trị giá tính thuế quan

1. Các bên ký kết thừa nhận hiệu lực của các nguyên tắc chung về xác định trị giá tính thuế quan nêu tại các khoản tiếp theo của Điều này và cam kết thực thi các nguyên tắc đó với mọi sản phẩm phải chịu thuế quan và phụ thu* hoặc chịu các hạn chế về nhập khẩu và xuất khẩu căn cứ vào hoặc điều chỉnh theo trị giá bằng bất cứ cách nào. Ngoài ra, ngay khi một bên ký kết khác có yêu cầu, các bên sẽ xem xét lại việc vận dụng bất cứ luật hay quy chế nào liên quan tới trị giá tính thuế quan căn cứ vào các nguyên tắc nêu ở đây. Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu (những) bên ký kết có báo cáo về các bước đi đã được áp dụng theo quy định của điều khoản này.

2. (a) Trị giá tính thuế quan với hàng nhập phải dựa vào giá trị thực của hàng nhập khẩu làm cơ sở tính thuế quan, hoặc trị giá thực của hàng tương tự, không được phép căn cứ vào trị giá của hàng có xuất xứ nội hay trị giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ.

(b) "Giá trị thực" sẽ là giá cả hàng hoá đó hay hàng hoá tương tự được bán hay chào bán vào một thời điểm và tại một địa điểm được xác định theo luật pháp nước nhập khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ. Trong chừng mực hàng hoá đó hay hàng tương tự bị chi phối bởi số lượng gắn liền với một dịch vụ nhất định, giá cả đưa ra xem xét sẽ được căn cứ vào những điều kiện như vậy với (i) số lượng so sánh được hoặc các số lượng xác định không kém phần thuận lợi cho nhà nhập khẩu tính theo giá lô hàng nhập khẩu lớn nhất trong quan hệ thương mại giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.

(c) Khi trị giá thực không xác định được theo quy định tại điểm (b) của khoản này, trị giá dùng để tính thuế quan sẽ là trị giá gần nhất tương đương với trị giá nói trên.*

3. Trị giá để tính thuế quan của bất cứ sản phẩm nhập khẩu nào sẽ không bao gồm bất cứ khoản thuế nội địa nào, đã được nước xuất xứ hoặc xuất khẩu đã cho hoặc sẽ cho hàng đó được miễn thuế hay hoàn thuế.

4. (a) Trừ khi có quy định khác trong khoản này, để một bên ký kết vận dụng các quy định của khoản 2 của Điều này vào việc quy đổi giá hàng tính bằng đồng tiền của một nước khác sang nội tệ, tỷ giá quy đổi sẽ dựa trên trị giá tương ứng tuân thủ quy định tại Các Điều khoản Thoả thuận của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc theo tỷ giá quy đổi được Quỹ công nhận, hoặc theo trị giá tương ứng xác định phù hợp với một thoả thuận ngoại hối đặc biệt tuân thủ theo Điều XV của Hiệp định này.

(b) Khi không có chuẩn mực về trị giá tương ứng, hay tỷ giá được thừa nhận đó, tỷ giá quy đổi sẽ phản ảnh đúng giá trị giao dịch thương mại của đồng tiền hiện thời.

(c) Các Bên Ký Kết, cùng thoả thuận với Quỹ tiền tệ Quốc tế, sẽ xây dựng quy tắc điều chỉnh việc các bên ký kết áp dụng cơ chế nhiều tỷ giá quy đổi tiền tệ cho phù hợp với nội dung Điều khoản Thoả thuận của Quỹ tiền tệ Quốc tế. Bất cứ bên ký kết nào cũng có quyền áp dụng các quy tắc này trong quy đổi ngoại tệ nhằm các mục đích đã nêu tại khoản 2 của điều khoản này thay cho trị giá tương ứng. Trong khi chờ đợi Các Bên Ký Kết thông qua các quy tắc đó, bất cứ một bên ký kết nào cũng có thể sử dụng các quy tắc chuyển đổi nhằm mục đích như nêu tại Điều 2 của điều khoản này đã được xây dựng để phản ảnh đúng giá trị thương mại của các ngoại tệ đó.

(d) Không một quy định nào trong điều khoản này được lập ra để đòi hỏi bất kỳ một bên ký kết nào thay đổi các nguyên tắc có hiệu lực trên lãnh thổ của mình vào ngày ký Hiệp định này, nếu sự thay đổi đó có tác dụng nâng mức thuế trung bình đánh vào hàng nhập khẩu.

5. Cơ sở và phương pháp xác định trị giá sản phẩm chịu thuế quan hay các khoản thu khác hoặc chịu các hạn chế dựa vào hay chịu sự điều chỉnh về trị giá theo bất cứ cách nào sẽ phải ổn định, công bố rộng rãi đủ để thương nhân có thể ước tính được trị giá để tính thuế với mức độ hợp lý về tính chắc chắn.

Xem nội dung VB
Điều VII



Xác định trị giá tính thuế quan



1. Các bên ký kết thừa nhận hiệu lực của các nguyên tắc chung về xác định trị giá tính thuế quan nêu tại các khoản tiếp theo của Điều này và cam kết thực thi các nguyên tắc đó với mọi sản phẩm phải chịu thuế quan và phụ thu hoặc chịu các hạn chế về nhập khẩu và xuất khẩu căn cứ vào hoặc điều chỉnh theo trị giá bằng bất cứ cách nào. Ngoài ra, ngay khi một bên ký kết khác có yêu cầu, các bên sẽ xem xét lại việc vận dụng bất cứ luật hay quy chế nào liên quan tới trị giá tính thuế quan căn cứ vào các nguyên tắc nêu ở đây. Các Bên Ký Kết có thể yêu cầu (những) bên ký kết có báo cáo về các bước đi đã được áp dụng theo quy định của điều khoản này.



2. (a) Trị giá tính thuế quan với hàng nhập phải dựa vào giá trị thực của hàng nhập khẩu làm cơ sở tính thuế quan, hoặc trị giá thực của hàng tương tự, không được phép căn cứ vào trị giá của hàng có xuất xứ nội hay trị giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ.



(b) "Giá trị thực" sẽ là giá cả hàng hoá đó hay hàng hoá tương tự được bán hay chào bán vào một thời điểm và tại một địa điểm được xác định theo luật pháp nước nhập khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ. Trong chừng mực hàng hoá đó hay hàng tương tự bị chi phối bởi số lượng gắn liền với một dịch vụ nhất định, giá cả đưa ra xem xét sẽ được căn cứ vào những điều kiện như vậy với (i) số lượng so sánh được hoặc các số lượng xác định không kém phần thuận lợi cho nhà nhập khẩu tính theo giá lô hàng nhập khẩu lớn nhất trong quan hệ thương mại giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.



(c) Khi trị giá thực không xác định được theo quy định tại điểm (b) của khoản này, trị giá dùng để tính thuế quan sẽ là trị giá gần nhất tương đương với trị giá nói trên.



3. Trị giá để tính thuế quan của bất cứ sản phẩm nhập khẩu nào sẽ không bao gồm bất cứ khoản thuế nội địa nào, đã được nước xuất xứ hoặc xuất khẩu đã cho hoặc sẽ cho hàng đó được miễn thuế hay hoàn thuế.



4. (a) Trừ khi có quy định khác trong khoản này, để một bên ký kết vận dụng các quy định của khoản 2 của Điều này vào việc quy đổi giá hàng tính bằng đồng tiền của một nước khác sang nội tệ, tỷ giá quy đổi sẽ dựa trên trị giá tương ứng tuân thủ quy định tại Các Điều khoản Thoả thuận của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc theo tỷ giá quy đổi được Quỹ công nhận, hoặc theo trị giá tương ứng xác định phù hợp với một thoả thuận ngoại hối đặc biệt tuân thủ theo Điều XV của Hiệp định này.



(b) Khi không có chuẩn mực về trị giá tương ứng, hay tỷ giá được thừa nhận đó, tỷ giá quy đổi sẽ phản ảnh đúng giá trị giao dịch thương mại của đồng tiền hiện thời.



(c) Các Bên Ký Kết, cùng thoả thuận với Quỹ tiền tệ Quốc tế, sẽ xây dựng quy tắc điều chỉnh việc các bên ký kết áp dụng cơ chế nhiều tỷ giá quy đổi tiền tệ cho phù hợp với nội dung Điều khoản Thoả thuận của Quỹ tiền tệ Quốc tế. Bất cứ bên ký kết nào cũng có quyền áp dụng các quy tắc này trong quy đổi ngoại tệ nhằm các mục đích đã nêu tại khoản 2 của điều khoản này thay cho trị giá tương ứng. Trong khi chờ đợi Các Bên Ký Kết thông qua các quy tắc đó, bất cứ một bên ký kết nào cũng có thể sử dụng các quy tắc chuyển đổi nhằm mục đích như nêu tại Điều 2 của điều khoản này đã được xây dựng để phản ảnh đúng giá trị thương mại của các ngoại tệ đó.



(d) Không một quy định nào trong điều khoản này được lập ra để đòi hỏi bất kỳ một bên ký kết nào thay đổi các nguyên tắc có hiệu lực trên lãnh thổ của mình vào ngày ký Hiệp định này, nếu sự thay đổi đó có tác dụng nâng mức thuế trung bình đánh vào hàng nhập khẩu.



5. Cơ sở và phương pháp xác định trị giá sản phẩm chịu thuế quan hay các khoản thu khác hoặc chịu các hạn chế dựa vào hay chịu sự điều chỉnh về trị giá theo bất cứ cách nào sẽ phải ổn định, công bố rộng rãi đủ để thương nhân có thể ước tính được trị giá để tính thuế với mức độ hợp lý về tính chắc chắn.

Xem nội dung VB
Điều 2: Chuẩn bị, thông qua và áp dụng các quy định kỹ thuật của các cơ quan chính phủ

Đối với các cơ quan chính phủ:
...

2.9.Khi một tiêu chuẩn quốc tế có liên quan không tồn tại hoặc nội dung kỹ thuật của một quy định kỹ thuật được dự kiến không phù hợp với nội dung kỹ thuật của các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương mại của các Thành viên khác, các Thành viên phải:

2.9.1.công bố trên một ấn phẩm vào thời điểm đủ sớm để các bên hữu quan ở các Thành viên khác được biết rằng mình dự định đưa vào áp dụng một quy định kỹ thuật cụ thể nào đó;

2.9.2. qua Ban Thư ký thông báo cho các Thành viên khác về các sản phẩm dự kiến sẽ phải áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật, cùng với chỉ dẫn ngắn gọn về các mục tiêu và lý do áp dụng. Thông báo này sẽ sớm được đưa ra để có thể sửa đổi và xem xét các ý kiến đóng góp;

2.9.3. khi được yêu cầu, phải cung cấp cho các Thành viên khác bản sao của quy định kỹ thuật dự định áp dụng và, khi cần thiết, làm rõ những phần nội dung của quy định đó có sự khác biệt với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan;

2.9.4.trên cơ sở không phân biệt đối xử, dành thời gian hợp lý cho các Thành viên khác góp ý kiến bằng văn bản, thảo luận về các góp ý này khi được yêu cầu và có xem xét đến các ý kiến đóng góp và kết quả của các cuộc thảo luận này.
...

Điều 5: Thủ tục đánh giá tínhphù hợp của các cơ quan chính phủ
...

5.6. Khi bất kỳ một hướng dẫn hoặc các khuyến nghị liên quan nào đó do một cơ quan tiêu chuẩn hóa đề ra không còn tồn tại hoặc nội dung kỹ thuật của thủ tục đánh giá tính phù hợp được đề nghị không phù hợp với các hướng dẫn và khuyến nghị tương ứng của các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế và nếu thủ tục đánh giá tính phù hợp có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thương mại của các Thành viên khác, thì các Thành viên sẽ:

5.6.1.công bố trên các ấn phẩm vào thời điểm sớm để thông báo cho các bên hữu quan của các Thành viên khác biết rằng nước mình dự định thực hiện một thủ tục đánh giá tính phù hợp cụ thể nào đó;

5.6.2. thông báo cho các Thành viên khác, qua Ban Thư ký, về các sản phẩm sẽ phải áp dụng thủ tục dự kiến về đánh giá tính phù hợp kèm theo, cùng với chỉ dẫn ngắn gọn về mục đích và lý do áp dụng. Thông báo này cần được thực hiện sớm để có thời gian thực hiện các sửa đổi và xem xét các ý kiến đóng góp;

5.6.3. khi được yêu cầu, phải cung cấp cho các Thành viên khác bản sao của thủ tục dự định áp dụng và, khi cần thiết, làm rõ những phần trong quy định này về bản chất khác với các hướng dẫn và khuyến nghị tương ứng của các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốc tế;

5.6.4.trên cơ sở không phân biệt đối xử, dành thời gian hợp lý cho các Thành viên khác góp ý kiến bằng văn bản, thảo luận về các góp ý này khi được yêu cầu và có xem xét đến các ý kiến đóng góp và kết quả của các cuộc thảo luận này.

Xem nội dung VB
Điều 6: Các quy định trong nước

1. Trong những lĩnh vực đã cam kết cụ thể, mỗi Thành viên phải đảm bảo rằng tất cả các biện pháp áp dụng chung tác động đến thương mại dịch vụ được quản lý một cách hợp lý, khách quan và bình đẳng.

2. (a) Ngay khi có thể, mỗi Thành viên phải duy trì hoặc thành lập các tòa án tư pháp, trọng tài hoặc tòa án hành chính hoặc thủ tục để xem xét nhanh chóng và đưa ra các biện pháp khắc phục đối với các quyết định hành chính có tác động đến thương mại dịch vụ theo yêu cầu của nhà cung cấp dịch vụ chịu tác động. Khi những thủ tục này không độc lập với cơ quan có thẩm quyền đưa ra quyết định hành chính có liên quan, Thành viên này phải đảm bảo rằng các thủ tục trên thực tế được xem xét một cách khách quan và bình đẳng.

(b) Các quy định của điểm (a) không được hiểu là nhằm yêu cầu các Thành viên phải thành lập những tòa án hoặc thủ tục trái với thể chế hoặc bản chất hệ thống pháp luật của Thành viên đó.

3. Trong trường hợp thủ tục phê duyệt được yêu cầu đối với việc cung cấp một dịch vụ đã có cam kết cụ thể thì sau khi nhận được đơn xin cấp phép được coi là đầy đủ theo quy định của pháp luật trong nước, cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên sẽ thông báo cho người nộp đơn về quyết định của mình trong khoảng thời gian hợp lý. Nếu người nộp đơn có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đó sẽ phải cung cấp không chậm trễ thông tin về hiện trạng của đơn xin phép.

4. Nhằm đảm bảo để các biện pháp liên quan tới yêu cầu chuyên môn, thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu cấp phép không tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại dịch vụ, thông qua những cơ quan thích hợp có thể được thành lập, Hội đồng Thương mại Dịch vụ sẽ phát triển bất kỳ nguyên tắc cần thiết nào. Những nguyên tắc đó nhằm đảm bảo rằng các yêu cầu này:

(a) dựa trên những tiêu chí khách quan và minh bạch, như năng lực và khả năng cung cấp dịch vụ;

(b) không phiền hà hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ;

(c) trong trường hợp áp dụng thủ tục cấp phép, không trở thành hạn chế về cung cấp dịch vụ.

5. (a) Trong những lĩnh vực mà Thành viên đã cam kết cụ thể, thì trong thời gian chưa áp dụng các nguyên tắc được đề ra trong những lĩnh vực này phù hợp với khoản 4, Thành viên đó không được áp dụng các yêu cầu về cấp phép và chuyên môn và các tiêu chuẩn kỹ thuật làm vô hiệu hoặc giảm bớt mức cam kết đó theo cách thức:

(i) không phù hợp với các tiêu chí đã được nêu tại điểm 4(a), (b) hoặc (c); và

(ii) tại thời điểm các cam kết cụ thể trong các lĩnh vực đó được đưa ra, các Thành viên đã không có ý định áp dụng các biện pháp này

(b) Khi xác định liệu một Thành viên có tuân thủ các nghĩa vụ quy định tại điểm5(a) hay không, cần tính đến các tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế liên quan[3] được Thành viên đó áp dụng.

6. Trong những lĩnh vực có các cam kết cụ thể liên quan đến dịch vụ nghề nghiệp, mỗi Thành viên phải quy định những thủ tục phù hợp để kiểm tra năng lực chuyên môn của người cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp của các Thành viên khác.

Xem nội dung VB
Điều 31

Các hình thức sử dụng khác không được phép của người nắm giữ quyền

Trường hợp luật của một Thành viên quy định việc cấp phép sử dụng đối tượng patent dưới hình thức khác [7] khi không được phép của người nắm giữ quyền, bao gồm cả việc sử dụng do Chính phủ hoặc do các bên thứ ba được Chính phủ cho phép thực hiện, các quy định sau đây phải được tôn trọng:

a) việc cấp phép sử dụng phải được xem xét theo tình huống cụ thể;

b) chỉ được cấp phép sử dụng nếu, trước khi sử dụng, người có ý định sử dụng đã cố gắng để được người nắm giữ quyền cấp phép với giá cả và các điều kiện thương mại hợp lý nhưng sau một thời gian hợp lý, những cố gắng đó vẫn không đem lại kết quả. Yêu cầu này có thể được Thành viên bỏ qua trong tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác hoặc trong các trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại. Tuy nhiên, trong những trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác, người nắm quyền phải được thông báo ngay khi điều kiện thực tế cho phép. Trong trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại, nếu Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác, mặc dù không tiến hành tra cứu sáng chế, nhưng biết hoặc có căn cứ rõ ràng để biết rằng Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác đang hoặc sẽ sử dụng một patent đang có hiệu lực thì người nắm quyền phải được thông báo ngay;

c) phạm vi và thời gian sử dụng phải được giới hạn trong việc thực hiện mục đích cấp phép sử dụng, và đối với công nghệ bán dẫn, chỉ được cấp phép sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại, hoặc nhằm chế tài những hoạt động bị cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính coi là chống cạnh tranh;

d) quyền sử dụng này phải là không độc quyền;

e) quyền sử dụng này phải là quyền không chuyển nhượng được, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với bộ phận của doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh được hưởng quyền sử dụng đó;

f) chỉ được cấp phép sử dụng chủ yếu để cung cấp cho thị trường nội địa của Thành viên cấp phép;

g) việc cho phép sử dụng phải có khả năng bị đình chỉ khi các điều kiện dẫn đến việc cấp phép chấm dứt tồn tại và không có khả năng tái hiện nhưng phải bảo vệ một cách thoả đáng lợi ích hợp pháp của những người được cấp phép sử dụng. Khi được yêu cầu, các cơ quan có thẩm quyền phải được quyền xem xét lại sự tiếp tục tồn tại các điều kiện đó;

h) trong mọi trường hợp, người nắm giữ quyền phải được trả tiền đền bù thoả đáng tuỳ theo giá trị kinh tế của quyền sử dụng đã cấp;

i) hiệu lực pháp lý của mọi quyết định cấp phép sử dụng đều phải là đối tượng có thể bị xem xét lại theo thủ tục tư pháp hoặc xem xét lại theo thủ tục độc lập khác tại cơ quan cấp cao hơn ở Thành viên đó;

j) mọi quyết định liên quan đến khoản tiền đền bù cho việc sử dụng đều phải là đối tượng có thể bị xem xét lại theo thủ tục tư pháp hoặc thủ tục độc lập khác tại cơ quan cấp cao hơn ở Thành viên đó;

k) các Thành viên không có nghĩa vụ phải áp dụng các điều kiện quy định tại các điểm (b) và (f) trong trường hợp cấp phép sử dụng nhằm chế tài những hoạt động bị cơ quan xét xử hoặc hành chính coi là chống cạnh tranh. Để xác định số lượng tiền đền bù trong những trường hợp nêu trên, có thể dựa vào mức độ cần thiết phải chấn chỉnh các hoạt động chống cạnh tranh. Các cơ quan có thẩm quyền chỉ có quyền từ chối việc đình chỉ quyền sử dụng khi các điều kiện dẫn đến việc cấp phép sử dụng có khả năng tái hiện;

l) trường hợp cấp phép sử dụng patent ("patent thứ nhất") để tạo điều kiện khai thác một patent khác ("patent thứ hai"), là patent không thể khai thác được nếu không xâm phạm patent thứ nhất, phải áp dụng các điều kiện bổ sung sau đây:

(i) sáng chế thuộc patent thứ hai phải là một bước tiến bộ kỹ thuật quan trọng có ý nghĩa kinh tế lớn so với sáng chế thuộc patent thứ nhất;

(ii) chủ sở hữu patent thứ nhất phải được cấp li-xăng ngược lại với những điều kiện hợp lý để sử dụng sáng chế thuộc patent thứ hai; và

(iii) quyền sử dụng sáng chế thuộc patent thứ nhất phải là quyền không chuyển nhượng được, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng quyền sở hữu patent thứ hai.

Xem nội dung VB
Điều 39

1. Để bảo đảm chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hữu hiệu theo quy định tại Điều 10bis Công ước Paris (1967), các Thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật theo quy định tại khoản 2 sau đây và bảo hộ các dữ liệu được trình nộp cho các Chính phủ hoặc các cơ quan Chính phủ theo quy định tại khoản 3 sau đây.

2. Các thể nhân và pháp nhân phải có được khả năng ngăn chặn để thông tin mà mình kiểm soát một cách hợp pháp không bị tiết lộ cho những người không được mình đồng ý, không bị những người đó chiếm đoạt hoặc sử dụng theo cách thức trái với hoạt động thương mại trung thực[10], nếu thông tin đó:

- có tính chất bí mật với nghĩa là những người thường xuyên xử lý loại thông tin đó nói chung không biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó;

- có giá trị thương mại vì có tính chất bí mật; và

- được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng những biện pháp phù hợp thực tế.

3. Nếu các Thành viên quy định rằng điều kiện để được phép tiếp thị dược phẩm hoặc sản phẩm hoá nông có chứa các thành phần hoá học mới là phải nộp kết quả thử nghiệm hoặc các dữ liệu bí mật khác thu được nhờ những nỗ lực lớn, thì phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh. Ngoài ra, các Thành viên phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị tiết lộ, trừ trường hợp cần bảo vệ công chúng hoặc trừ khi có thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh.

Xem nội dung VB
Điều 22

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý

1. Trong Hiệp định này chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.

2. Liên quan đến chỉ dẫn địa lý, các Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa:

a) việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hoá nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hoá đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hoá;

b) bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris (1967).

3. Mỗi Thành viên phải, mặc nhiên nếu pháp luật quốc gia cho phép như vậy hoặc theo yêu cầu của bên liên quan, từ chối hoặc huỷ bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá có chứa hoặc được cấu thành bằng một chỉ dẫn địa lý dùng cho hàng hoá không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng, nếu việc sử dụng chỉ dẫn đó trên nhãn hiệu hàng hoá cho những hàng hoá như vậy tại nước Thành viên đó khiến công chúng hiểu sai về xuất xứ thực.

4. Quy định tại các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 trên đây phải được áp dụng đối với cả các chỉ dẫn địa lý mặc dù đúng theo nghĩa đen về lãnh thổ, khu vực hoặc địa phương là nơi xuất xứ của hàng hoá, nhưng lại làm công chúng hiểu là hàng hoá đó bắt nguồn từ lãnh thổ khác.

Xem nội dung VB
Điều 3

Đãi ngộ quốc gia

1. Mỗi Thành viên phải chấp nhận cho các công dân của các Thành viên khác sự đối xử không kém thiện chí hơn so với sự đối xử của Thành viên đó đối với công dân của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ[3], trong đó có lưu ý tới các ngoại lệ đã được quy định tương ứng trong Công ước Paris (1967), Công ước Berne (1971), Công ước Rome và Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp. Đối với những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình, nghĩa vụ này chỉ áp dụng với các quyền được quy định theo Hiệp định này. Bất kỳ Thành viên nào sử dụng các quy định tại Điều 6 Công ước Berne và khoản 1(b) Điều 16 Công ước Rome cũng phải thông báo như đã nêu trong các điều khoản nói trên cho Hội đồng TRIPS.

2. Các Thành viên chỉ có thể sử dụng các ngoại lệ nêu tại khoản 1 liên quan đến các thủ tục xét xử và hành chính, kể cả việc chỉ định địa chỉ dịch vụ hoặc bổ nhiệm đại diện trong phạm vi quyền hạn của một Thành viên, nếu những ngoại lệ đó là cần thiết để bảo đảm thi hành đúng các luật và quy định không trái với các quy định của Hiệp định này và nếu cách tiến hành các hoạt động đó không là một sự hạn chế trá hình hoạt động thương mại.
...

Điều 5

Các thoả thuận đa phương về việc đạt được hoặc duy trì hiệu lực bảo hộ

Các nghĩa vụ quy định tại các Điều 3 và 4 không áp dụng cho các thủ tục quy định trong các Thoả ước đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của WIPO liên quan đến việc đạt được và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ.

Xem nội dung VB
Điều 4

Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc

Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một Thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác. Được miễn nghĩa vụ này bất kỳ sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào mà một Thành viên dành cho nước khác:

a) trên cơ sở các thoả ước quốc tế về việc giúp đỡ trong tố tụng hoặc thực thi luật theo nghĩa tổng quát chứ không giới hạn riêng biệt về bảo hộ sở hữu trí tuệ;

b) phù hợp với các quy định của Công ước Berne (1971) hoặc Công ước Rome, theo đó sự đãi ngộ không phải là đãi ngộ quốc gia mà là sự đãi ngộ áp dụng tại một nước khác;

c) đối với các quyền của những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình không phải do Hiệp định này quy định;

d) trên cơ sở các thoả ước quốc tế liên quan đến việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đã có hiệu lực trước khi Hiệp định WTO có hiệu lực, với điều kiện là các thoả ước đó được thông báo cho Hội đồng TRIPS và không tạo nên sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác.

Điều 5

Các thoả thuận đa phương về việc đạt được hoặc duy trì hiệu lực bảo hộ

Các nghĩa vụ quy định tại các Điều 3 và 4 không áp dụng cho các thủ tục quy định trong các Thoả ước đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của WIPO liên quan đến việc đạt được và duy trì các quyền sở hữu trí tuệ.

Xem nội dung VB
Điều 15

Đối tượng có khả năng bảo hộ

1. Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hoá. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hoá. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được.

2. Khoản 1 trên đây không có nghĩa là cấm các Thành viên từ chối đăng ký nhãn hiệu hàng hoá dựa vào những căn cứ khác, miễn là những căn cứ khác đó không trái với quy định của Công ước Paris (1967).

3. Các Thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào việc sử dụng. Tuy nhiên, không được coi việc sử dụng thực sự nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện để nộp đơn đăng ký. Không được từ chối đơn đăng ký với lý do duy nhất là dự định sử dụng không được thực hiện trước khi kết thúc thời hạn 3 năm kể từ ngày nộp đơn.

4. Bản chất của hàng hoá hoặc dịch vụ sẽ mang nhãn hiệu hàng hoá không ảnh hưởng tới khả năng được đăng ký của nhãn hiệu hàng hoá đó.

5. Các Thành viên phải công bố từng nhãn hiệu hàng hoá trước khi hoặc ngay sau khi nhãn hiệu được đăng ký và phải dành cơ hội hợp lý cho việc nộp đơn yêu cầu huỷ bỏ việc đăng ký đó. Ngoài ra, các Thành viên có thể quy định cơ hội để được phản đối việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.

Điều 16

Các quyền được cấp

1. Chủ sở hữu một nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký phải có độc quyền ngăn cấm những người không được phép của mình sử dụng trong hoạt động thương mại các dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho hàng hoá hoặc dịch vụ trùng hoặc tương tự với những hàng hoá hoặc dịch vụ được đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng như vậy có nguy cơ gây nhầm lẫn. Việc sử dụng cùng một dấu hiệu cho cùng một loại hàng hoá hoặc dịch vụ phải bị coi là có nguy cơ gây nhầm lẫn. Các quyền nêu trên sẽ không làm tổn hại đến bất kỳ quyền nào tồn tại trước, cũng không cản trở các Thành viên cấp các quyền trên cơ sở sử dụng.

2. Điều 6bis Công ước Paris (1967) phải được áp dụng , với những sửa đổi thích hợp, đối với các dịch vụ. Để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không, phải xem xét danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng có liên quan, kể cả danh tiếng tại nước Thành viên tương ứng đạt được nhờ hoạt động quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó.

3. Điều 6bis Công ước Paris (1967) phải được áp dụng, với những sửa đổi thích hợp, đối với những hàng hoá hoặc dịch vụ không tương tự với những hàng hoá hoặc dịch vụ được đăng ký kèm theo một nhãn hiệu hàng hoá, với điều kiện là việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đó cho những hàng hoá hoặc dịch vụ nói trên có khả năng làm người ta hiểu rằng có sự liên quan giữa những hàng hoá hoặc dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký và với điều kiện là lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký có nguy cơ bị việc sử dụng nói trên gây tổn hại.

Điều 17

Ngoại lệ

Các Thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với các quyền được cấp liên quan đến một nhãn hiệu hàng hoá, chẳng hạn như việc sử dụng với mục đích lành mạnh các thuật ngữ mang tính chất mô tả, với điều kiện là những ngoại lệ đó không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá và của các bên thứ ba.

Điều 18

Thời hạn bảo hộ

Đăng ký lần đầu và mỗi lần gia hạn đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá phải có thời hạn hiệu lực không dưới 7 năm. Hiệu lực đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá phải có khả năng được gia hạn không giới hạn số lần gia hạn.

Điều 19

Yêu cầu sử dụng

1. Nếu việc sử dụng là điều kiện để duy trì hiệu lực đăng ký thì đăng ký chỉ có thể bị đình chỉ hiệu lực sau một thời gian liên tục, ít nhất là 3 năm, không sử dụng, và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá không nêu được những lý do chính đáng cản trở việc sử dụng. Những điều kiện khách quan gây trở ngại cho việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, như việc hạn chế nhập khẩu hoặc các yêu cầu khác của Chính phủ đối với hàng hoá hoặc dịch vụ được bảo hộ thông qua nhãn hiệu hàng hoá đó, phải được coi là lý do chính đáng đối với việc không sử dụng.

2. Việc một người khác sử dụng nhãn hiệu hàng hoá dưới sự kiểm soát của chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá phải được công nhận là sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đó nhằm duy trì hiệu lực đăng ký.

Điều 20

Các yêu cầu khác

Không được đưa ra các yêu cầu đặc biệt gây cản trở một cách bất hợp lý đến việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá trong hoạt động thương mại, chẳng hạn như yêu cầu sử dụng kết hợp với một nhãn hiệu hàng hoá khác, sử dụng dưới hình thức đặc biệt hoặc sử dụng theo một cách nào đó làm hại đến khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Điều này không loại trừ yêu cầu buộc nhãn hiệu hàng hoá dùng để chỉ dẫn doanh nghiệp sản xuất hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ phải được sử dụng đồng thời với, nhưng không nhất thiết phải gắn liền với, nhãn hiệu hàng hoá dùng để phân biệt từng hàng hoá hoặc dịch vụ cụ thể của doanh nghiệp đó.

Điều 21

Cấp li-xăng (chuyển giao quyền sử dụng) và chuyển nhượng quyền sở hữu

Các Thành viên có thể quy định các điều kiện cấp li-xăng (chuyển giao quyền sử dụng) và chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá, trong đó không được quy định việc cấp li-xăng không tự nguyện đối với nhãn hiệu hàng hoá và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký phải có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hoá có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh có nhãn hiệu hàng hoá đó.

Xem nội dung VB
Điều 22

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý

1. Trong Hiệp định này chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.

2. Liên quan đến chỉ dẫn địa lý, các Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa:

a) việc sử dụng bất kỳ phương tiện nào để gọi tên hoặc giới thiệu hàng hoá nhằm chỉ dẫn hoặc gợi ý rằng hàng hoá đó bắt nguồn từ một khu vực địa lý khác với xuất xứ thực, với cách thức lừa dối công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hoá;

b) bất kỳ hành vi sử dụng nào cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo ý nghĩa của Điều 10bis Công ước Paris (1967).

3. Mỗi Thành viên phải, mặc nhiên nếu pháp luật quốc gia cho phép như vậy hoặc theo yêu cầu của bên liên quan, từ chối hoặc huỷ bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá có chứa hoặc được cấu thành bằng một chỉ dẫn địa lý dùng cho hàng hoá không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng, nếu việc sử dụng chỉ dẫn đó trên nhãn hiệu hàng hoá cho những hàng hoá như vậy tại nước Thành viên đó khiến công chúng hiểu sai về xuất xứ thực.

4. Quy định tại các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 trên đây phải được áp dụng đối với cả các chỉ dẫn địa lý mặc dù đúng theo nghĩa đen về lãnh thổ, khu vực hoặc địa phương là nơi xuất xứ của hàng hoá, nhưng lại làm công chúng hiểu là hàng hoá đó bắt nguồn từ lãnh thổ khác.

Điều 23

Bảo hộ bổ sung đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang và rượu mạnh

1. Mỗi Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của các rượu vang cho những loại rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó hoặc sử dụng chỉ dẫn địa lý của rượu mạnh cho những loại rượu mạnh không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch hoặc được sử dụng kèm theo các từ như "loại", "kiểu", "dạng", "phỏng theo" hoặc những từ tương tự như vậy. [4]

2. Việc đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá dùng cho rượu vang, có chứa hoặc được cấu thành bằng chỉ dẫn địa lý của rượu vang, hoặc nhãn hiệu hàng hoá dùng cho rượu mạnh, có chứa hoặc được cấu thành bằng chỉ dẫn địa lý của rượu mạnh phải bị từ chối hoặc bị huỷ bỏ hiệu lực, một cách mặc nhiên nếu pháp luật quốc gia của Thành viên cho phép như vậy, hoặc theo yêu cầu của bên liên quan, đối với những loại rượu vang hoặc rượu mạnh không có xuất xứ tương ứng.

3. Mỗi chỉ dẫn địa lý trong số các chỉ dẫn địa lý đồng âm dùng cho rượu vang đều được bảo hộ phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 22. Mỗi Thành viên phải xác định các điều kiện thực tế để các chỉ dẫn đồng âm được phân biệt với nhau trong đó phải bảo đảm đối xử công bằng với các nhà sản xuất và bảo đảm để người tiêu dùng không bị lừa dối.

4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang, Hội đồng TRIPS phải tiến hành các cuộc đàm phán về việc thành lập một hệ thống đa phương để thông báo và đăng ký các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang cần được bảo hộ tại các nước Thành viên tham gia hệ thống đó.

Điều 24

Đàm phán quốc tế, Ngoại lệ

1. Các Thành viên thoả thuận sẽ tham gia các cuộc đàm phán nhằm tăng cường việc bảo hộ từng chỉ dẫn địa lý cụ thể theo Điều 23. Không Thành viên nào được sử dụng các quy định tại các khoản từ 4 đến 8 sau đây để từ chối tham gia đàm phán hoặc ký kết các thoả thuận song phương hoặc đa phương. Trong các cuộc đàm phán đó, các Thành viên phải có thiện chí xem xét khả năng tiếp tục áp dụng các quy định nói trên đối với từng chỉ dẫn địa lý cụ thể mà việc sử dụng các chỉ dẫn đó là nội dung đàm phán.

2. Hội đồng TRIPS phải thường xuyên xem xét lại việc áp dụng quy định của Mục này; lần xem xét lại thứ nhất phải được thực hiện trong vòng 2 năm từ khi Hiệp định WTO có hiệu lực. Bất kỳ vấn đề nào ảnh hưởng đến việc thực hiện các nghĩa vụ theo các quy định đó đều có thể được Hội đồng xem xét. Theo yêu cầu của một Thành viên, Hội đồng phải trao đổi ý kiến với một hay nhiều Thành viên bất kỳ nào khác về vấn đề không thể có giải pháp thoả đáng thông qua những cuộc thương lượng song phương hoặc đa phương giữa các Thành viên liên quan. Hội đồng phải tiến hành các hoạt động theo thoả thuận có thể có giữa các Thành viên nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện và đẩy mạnh các mục tiêu của Mục này.

3. Để thi hành Mục này, không một Thành viên nào được giảm nhẹ việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã tồn tại trong nước ngay trước thời điểm Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực.

4. Không một quy định nào trong Mục này buộc một Thành viên phải cấm công dân hoặc cư dân nước mình không được tiếp tục sử dụng hoặc sử dụng theo cách thức tương tự một chỉ dẫn địa lý cụ thể về rượu vang hoặc rượu mạnh của Thành viên khác cho hàng hoá hoặc dịch vụ, nếu những người đó đã liên tục sử dụng trong lãnh thổ của Thành viên đó chỉ dẫn địa lý đó cho hàng hoá hoặc dịch vụ cùng loại hoặc liên quan (a) trong thời gian ít nhất là 10 năm trước ngày 15/4/1994 hoặc; (b) một cách có thiện ý trước thời điểm đó.

5. Đối với nhãn hiệu hàng hoá đã được nộp đơn đăng ký hoặc đã được đăng ký một cách có thiện ý hoặc đối với các quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá đạt được thông qua việc sử dụng có thiện ý thuộc một trong hai trường hợp sau đây:

a) trước thời điểm thi hành các quy định này ở nước Thành viên đó như quy định tại Phần VI dưới đây; hoặc

b) trước khi chỉ dẫn địa lý liên quan được bảo hộ ở nước xuất xứ;

Các biện pháp được áp dụng để thi hành quy định của Mục này không được làm ảnh hưởng đến khả năng được đăng ký hoặc hiệu lực đăng ký của nhãn hiệu hàng hoá, hoặc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, với lý do nhãn hiệu hàng hoá nói trên trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý.

6. Không một quy định nào trong Mục này buộc mỗi Thành viên phải áp dụng các quy định của mình cho một chỉ dẫn địa lý của bất cứ một Thành viên nào khác dùng cho hàng hoá hoặc dịch vụ nếu chỉ dẫn đó trùng với thuật ngữ mà theo ngôn ngữ phổ thông trong lãnh thổ của Thành viên đó có nghĩa là tên gọi thông thường của hàng hoá hoặc dịch vụ đó. Không một quy định nào trong Phần này buộc mỗi Thành viên phải áp dụng các quy định của mình cho một chỉ dẫn địa lý của bất cứ một Thành viên nào khác dùng cho các sản phẩm của cây nho, nếu chỉ dẫn đó trùng với tên gọi thông thường của một giống nho quả đã có trong lãnh thổ của Thành viên đó vào thời điểm Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực.

7. Một Thành viên có thể quy định rằng bất kỳ một đề nghị nào theo quy định của Mục này về việc sử dụng hoặc việc đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá đều phải được đề đạt trong vòng 5 năm kể từ khi việc sử dụng đối nghịch nói trên của chỉ dẫn được bảo hộ đã được biết đến rộng rãi tại nước Thành viên đó hoặc sau ngày nhãn hiệu hàng hoá được đăng ký tại nước Thành viên đó với điều kiện nhãn hiệu hàng hoá đã được công bố vào ngày đăng ký, nếu ngày đó sớm hơn ngày mà việc sử dụng đối nghịch trên đã được biết đến một cách rộng rãi tại nước Thành viên đó, với điều kiện là chỉ dẫn địa lý này được sử dụng hoặc đăng ký một cách có thiện ý.

8. Các quy định của Mục này không được làm ảnh hưởng đến quyền của bất kỳ người nào được sử dụng trong hoạt động thương mại, tên của mình hoặc tên của người chuyển nhượng hoặc để thừa kế doanh nghiệp cho mình, trừ trường hợp tên đó được sử dụng theo cách thức lừa dối công chúng.

9. Thoả ước này không quy định nghĩa vụ bảo hộ những chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ hoặc đã bị đình chỉ bảo hộ, hoặc không còn được sử dụng ở nước xuất xứ của những chỉ dẫn đó.

Xem nội dung VB
Điều 10bis. Cạnh tranh không lành mạnh

(1) Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho công dân của các nước thành viên đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại hành động cạnh tranh không lành mạnh.

(2) Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.

(3) Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:

1. tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh;

2. những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh;

3. những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.

Xem nội dung VB
Điều 27

Đối tượng có khả năng được cấp Patent

1. Tuỳ thuộc vào quy định tại các khoản 2 và khoản 3 sau đây, patent phải được cấp cho bất kỳ một sáng chế nào, dù là sản phẩm hay là quy trình, thuộc mọi lĩnh vực công nghệ, với điều kiện sáng chế đó phải mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp[5]. Tuỳ thuộc vào khoản 4 Điều 65, khoản 8 Điều 70 và khoản 3 Điều này, các patent phải được cấp và các quyền patent phải được hưởng không phân biệt nơi tạo ra sáng chế, lĩnh vực công nghệ và bất kể các sản phẩm được nhập khẩu hay được sản xuất trong nước.

2. Các Thành viên có thể loại trừ không cấp patent cho những sáng chế cần phải bị cấm khai thác nhằm mục đích thương mại trong lãnh thổ của mình để bảo vệ trật tự công cộng hoặc đạo đức xã hội, kể cả để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người và động vật hoặc thực vật hoặc để tránh gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường, với điều kiện những ngoại lệ đó được quy định không chỉ vì lý do duy nhất là việc khai thác các sáng chế tương ứng bị pháp luật của nước đó ngăn cấm.

3. Các Thành viên cũng có thể loại trừ không cấp patent cho:

a) các phương pháp chẩn đoán bệnh, các phương pháp nội và ngoại khoa để chữa bệnh cho người và động vật;

b) thực vật và động vật không phải là các chủng vi sinh, và các quy trình sản xuất thực vật và động vật, chủ yếu mang tính chất sinh học và không phải là các quy trình phi sinh học hoặc vi sinh. Tuy nhiên, các Thành viên phải bảo hộ giống cây bằng hệ thống patent hoặc bằng một hệ thống riêng hữu hiệu, hoặc bằng sự kết hợp giữa hai hệ thống đó dưới bất kỳ hình thức nào. Các quy định của điểm này phải được xem xét lại sau 4 năm kể từ khi Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực.

Điều 28

Các quyền được cấp

1. Patent phải xác nhận các độc quyền sau đây của chủ sở hữu patent:

a) nếu đối tượng của patent là một sản phẩm, cấm các bên thứ ba thực hiện các hành vi sau đây nếu không được phép của chủ sở hữu: chế tạo, sử dụng, chào bán, bán sản phẩm đó hoặc nhập khẩu[6] sản phẩm đó để thực hiện những mục đích nói trên;

b) nếu đối tượng của patent là một quy trình, cấm các bên thứ ba thực hiện hành vi sử dụng quy trình đó và các hành vi sau đây nếu không được phép của chủ sở hữu: sử dụng, chào bán, bán hoặc nhập khẩu nhằm mục đích đó ít nhất đối với các sản phẩm đã được tạo ra trực tiếp bằng quy trình đó.

2. Các chủ sở hữu patent cũng phải có quyền chuyển nhượng, để thừa kế

quyền sở hữu patent đó và ký kết các hợp đồng li-xăng.

Điều 29

Điều kiện đối với người nộp đơn xin cấp patent

1. Các Thành viên phải yêu cầu người nộp đơn xin cấp patent bộc lộ sáng chế một cách rõ ràng và đầy đủ đến mức căn cứ vào đó một chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể thực hiện sáng chế, và có thể yêu cầu người nộp đơn chỉ ra cách thức tối ưu trong số cách thức thực hiện sáng chế mà tác giả sáng chế biết tính đến ngày nộp đơn, hoặc tính đến ngày ưu tiên của đơn nếu có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.

2. Các Thành viên có thể yêu cầu người nộp đơn xin cấp patent cung cấp thông tin liên quan đến các đơn và văn bằng tương ứng ở nước ngoài của người nộp đơn đó.

Điều 30

Ngoại lệ đối với các quyền được cấp

Các Thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với các độc quyền được cấp trên cơ sở patent với điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường patent đó và không làm tổn hại một cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu patent, và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.



Điều 31

Các hình thức sử dụng khác không được phép của người nắm giữ quyền

Trường hợp luật của một Thành viên quy định việc cấp phép sử dụng đối tượng patent dưới hình thức khác [7] khi không được phép của người nắm giữ quyền, bao gồm cả việc sử dụng do Chính phủ hoặc do các bên thứ ba được Chính phủ cho phép thực hiện, các quy định sau đây phải được tôn trọng:

a) việc cấp phép sử dụng phải được xem xét theo tình huống cụ thể;

b) chỉ được cấp phép sử dụng nếu, trước khi sử dụng, người có ý định sử dụng đã cố gắng để được người nắm giữ quyền cấp phép với giá cả và các điều kiện thương mại hợp lý nhưng sau một thời gian hợp lý, những cố gắng đó vẫn không đem lại kết quả. Yêu cầu này có thể được Thành viên bỏ qua trong tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác hoặc trong các trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại. Tuy nhiên, trong những trường hợp có tình trạng khẩn cấp quốc gia hoặc các trường hợp đặc biệt cấp bách khác, người nắm quyền phải được thông báo ngay khi điều kiện thực tế cho phép. Trong trường hợp sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại, nếu Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác, mặc dù không tiến hành tra cứu sáng chế, nhưng biết hoặc có căn cứ rõ ràng để biết rằng Chính phủ hoặc người được Chính phủ uỷ thác đang hoặc sẽ sử dụng một patent đang có hiệu lực thì người nắm quyền phải được thông báo ngay;

c) phạm vi và thời gian sử dụng phải được giới hạn trong việc thực hiện mục đích cấp phép sử dụng, và đối với công nghệ bán dẫn, chỉ được cấp phép sử dụng vào mục đích công cộng, không nhằm mục đích thương mại, hoặc nhằm chế tài những hoạt động bị cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính coi là chống cạnh tranh;

d) quyền sử dụng này phải là không độc quyền;

e) quyền sử dụng này phải là quyền không chuyển nhượng được, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với bộ phận của doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh được hưởng quyền sử dụng đó;

f) chỉ được cấp phép sử dụng chủ yếu để cung cấp cho thị trường nội địa của Thành viên cấp phép;

g) việc cho phép sử dụng phải có khả năng bị đình chỉ khi các điều kiện dẫn đến việc cấp phép chấm dứt tồn tại và không có khả năng tái hiện nhưng phải bảo vệ một cách thoả đáng lợi ích hợp pháp của những người được cấp phép sử dụng. Khi được yêu cầu, các cơ quan có thẩm quyền phải được quyền xem xét lại sự tiếp tục tồn tại các điều kiện đó;

h) trong mọi trường hợp, người nắm giữ quyền phải được trả tiền đền bù thoả đáng tuỳ theo giá trị kinh tế của quyền sử dụng đã cấp;

i) hiệu lực pháp lý của mọi quyết định cấp phép sử dụng đều phải là đối tượng có thể bị xem xét lại theo thủ tục tư pháp hoặc xem xét lại theo thủ tục độc lập khác tại cơ quan cấp cao hơn ở Thành viên đó;

j) mọi quyết định liên quan đến khoản tiền đền bù cho việc sử dụng đều phải là đối tượng có thể bị xem xét lại theo thủ tục tư pháp hoặc thủ tục độc lập khác tại cơ quan cấp cao hơn ở Thành viên đó;

k) các Thành viên không có nghĩa vụ phải áp dụng các điều kiện quy định tại các điểm (b) và (f) trong trường hợp cấp phép sử dụng nhằm chế tài những hoạt động bị cơ quan xét xử hoặc hành chính coi là chống cạnh tranh. Để xác định số lượng tiền đền bù trong những trường hợp nêu trên, có thể dựa vào mức độ cần thiết phải chấn chỉnh các hoạt động chống cạnh tranh. Các cơ quan có thẩm quyền chỉ có quyền từ chối việc đình chỉ quyền sử dụng khi các điều kiện dẫn đến việc cấp phép sử dụng có khả năng tái hiện;

l) trường hợp cấp phép sử dụng patent ("patent thứ nhất") để tạo điều kiện khai thác một patent khác ("patent thứ hai"), là patent không thể khai thác được nếu không xâm phạm patent thứ nhất, phải áp dụng các điều kiện bổ sung sau đây:

(i) sáng chế thuộc patent thứ hai phải là một bước tiến bộ kỹ thuật quan trọng có ý nghĩa kinh tế lớn so với sáng chế thuộc patent thứ nhất;

(ii) chủ sở hữu patent thứ nhất phải được cấp li-xăng ngược lại với những điều kiện hợp lý để sử dụng sáng chế thuộc patent thứ hai; và

(iii) quyền sử dụng sáng chế thuộc patent thứ nhất phải là quyền không chuyển nhượng được, trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng quyền sở hữu patent thứ hai.

Điều 32

Huỷ bỏ/Đình chỉ

Phải quy định một cơ hội để mọi quyết định huỷ bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực patent đều có thể được xem xét lại theo thủ tục tư pháp.





Điều 33

Thời hạn bảo hộ

Thời hạn bảo hộ theo quy định không được kết thúc trước khi hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn.[8]

Điều 34

Các sáng chế quy trình: nghĩa vụ dẫn chứng

1. Trong thủ tục tố tụng dân sự đối với việc xâm phạm các quyền của chủ sở hữu quy định tại khoản 1(b) Điều 28, nếu đối tượng của patent là quy trình chế tạo một loại sản phẩm, các cơ quan xét xử phải có quyền yêu cầu bị đơn chứng minh rằng quy trình được sử dụng để thu được chính loại sản phẩm đó không phải là quy trình đã được cấp patent. Vì vậy, ít nhất trong trường hợp thuộc một trong hai trường hợp sau đây, các Thành viên phải quy định rằng mọi sản phẩm loại đó được sản xuất mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu patent đều phải bị coi là sản phẩm thu được bằng quy trình đã được cấp patent trừ khi chứng minh được điều ngược lại;

(a) nếu loại sản phẩm thu được bằng quy trình đã được cấp patent là sản phẩm mới;

(b) nếu có một khả năng lớn là chính loại sản phẩm đó thu được chế tạo bằng quy trình được cấp patent và chủ sở hữu patent dù đã có những cố gắng hợp lý vẫn không thể xác định được quy trình thực sự đã được sử dụng.

2. Mỗi Thành viên đều được tự do quy định rằng nghĩa vụ chứng minh nêu tại khoản 1 chỉ ràng buộc bị đơn trong trường hợp thoả mãn điều kiện quy định tại điểm (a) hoặc trong trường hợp thoả mãn điều kiện quy định tại điểm (b).

3. Khi yêu cầu dẫn phản chứng, phải xét đến lợi ích hợp pháp của bị đơn trong việc bảo hộ các bí mật sản xuất và kinh doanh.

Xem nội dung VB
Điều 25

Các yêu cầu bảo hộ

1. Các Thành viên phải bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập. Các Thành viên có thể quy định rằng kiểu dáng công nghiệp không được coi là mới hoặc nguyên gốc nếu không khác biệt cơ bản với những kiểu dáng đã biết hoặc với tổ hợp các đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng đã biết. Các Thành viên có thể quy định rằng việc bảo hộ đó không áp dụng cho những kiểu dáng mà hình dáng chủ yếu do các đặc tính kỹ thuật và chức năng quyết định.

2. Mỗi Thành viên phải bảo đảm rằng các tiêu chuẩn bảo hộ đối với các kiểu dáng hàng dệt, đặc biệt là yêu cầu về lệ phí, xét nghiệm hoặc công bố, không làm giảm một cách bất hợp lý cơ hội tìm kiếm và và đạt được sự bảo hộ đó. Các Thành viên được tự do chọn áp dụng luật kiểu dáng công nghiệp hoặc luật bản quyền để thực hiện nghĩa vụ này.

Điều 26

Bảo hộ

1. Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ phải có quyền cấm những người không được phép của mình sản xuất, bán hoặc nhập khẩu những sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là bản sao, hoặc về cơ bản là một bản sao, của kiểu dáng được bảo hộ đó, nếu các hành vi nói trên được thực hiện nhằm mục đích thương mại.

2. Các Thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, với điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường các kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ và không làm tổn hại một cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu kiểu dáng được bảo hộ, và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.

3. Thời hạn bảo hộ theo quy định ít nhất phải là 10 năm.

Xem nội dung VB
Điều 35

Mối quan hệ với Hiệp ước IPIC

Các Thành viên thoả thuận bảo hộ thiết kế bố trí (topograph) mạch tích hợp (trong Hiệp định này gọi là "thiết kế bố trí") phù hợp với các Điều từ Điều 2 đến Điều 7 (không kể khoản 3 Điều 6), Điều 12 và khoản 3 Điều 16 Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp, và đồng thời phù hợp với các quy định sau đây.

Điều 36

Phạm vi bảo hộ

Theo quy định tại khoản 1 Điều 37, các Thành viên phải coi những hành vi sau đây là bất hợp pháp, nếu thực hiện mà không được phép của người nắm giữ quyền [9]: nhập khẩu, bán, hoặc phân phối dưới hình thức khác nhằm mục đích thương mại thiết kế bố trí đang được bảo hộ, mạch tích hợp thể hiện thiết kế bố trí đang được bảo hộ, hoặc sản phẩm chứa mạch tích hợp như vậy, chừng nào sản phẩm đó vẫn còn chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp.

Điều 37

Các hành vi không cần phải có phép của người nắm giữ quyền

1. Bất kể Điều 36, không một Thành viên nào được coi là bất hợp pháp việc thực hiện bất kỳ hành vi nào nêu tại Điều đó đối với mạch tích hợp chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp hoặc bất kỳ sản phẩm nào chứa mạch tích hợp như vậy, nếu tại thời điểm tiếp nhận mạch tích hợp hoặc sản phẩm chứa mạch tích hợp đó người thực hiện hoặc khiến người khác thực hiện những hành vi nói trên không biết hoặc không có căn cứ hợp lý để biết rằng trong đó chứa thiết kế bố trí bị sao chép bất hợp pháp. Các Thành viên phải quy định rằng kể từ thời điểm có đủ thông tin rằng thiết kế bố trí đó bị sao chép bất hợp pháp, người đó có thể thực hiện bất kỳ hành vi nào nói trên đối với hàng hoá đã tiếp nhận hoặc đã đặt trước thời điểm đó, nhưng phải trả cho người nắm quyền một khoản tiền tương đương với khoản tiền bản quyền thoả đáng như là thanh toán theo một li-xăng tự nguyện đối với thiết kế bố trí đó.

2. Các điều kiện quy định tại các điểm từ điểm (a) đến điểm (k) Điều 31 phải được áp dụng, với những sửa đổi thích hợp, đối với bất kỳ li-xăng không tự nguyện nào về thiết kế bố trí đó, hoặc việc sử dụng thiết kế bố trí đó mà không được phép của người nắm giữ quyền do Chính phủ thực hiện hoặc do người khác thực hiện cho Chính phủ.

Điều 38

Thời hạn bảo hộ

1. Tại những Thành viên quy định rằng đăng ký là điều kiện bảo hộ, thời hạn bảo hộ thiết kế bố trí không được kết thúc trước khi kết thúc 10 năm tính từ ngày nộp đơn đăng ký hoặc từ ngày việc khai thác nhằm mục đích thương mại xảy ra lần đầu tiên ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.

2. Tại những Thành viên không quy định đăng ký là điều kiện để bảo hộ, các thiết kế bố trí phải được bảo hộ trong thời hạn không dưới 10 năm tính từ ngày việc khai thác nhằm mục đích thương mại xảy ra lần đầu tiên ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

3. Bất kể khoản 1 và khoản 2 trên đây, Thành viên có thể quy định rằng thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt khi hết 15 năm kể từ khi tạo ra thiết kế bố trí.

Xem nội dung VB
Điều 39

1. Để bảo đảm chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hữu hiệu theo quy định tại Điều 10bis Công ước Paris (1967), các Thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật theo quy định tại khoản 2 sau đây và bảo hộ các dữ liệu được trình nộp cho các Chính phủ hoặc các cơ quan Chính phủ theo quy định tại khoản 3 sau đây.

2. Các thể nhân và pháp nhân phải có được khả năng ngăn chặn để thông tin mà mình kiểm soát một cách hợp pháp không bị tiết lộ cho những người không được mình đồng ý, không bị những người đó chiếm đoạt hoặc sử dụng theo cách thức trái với hoạt động thương mại trung thực[10], nếu thông tin đó:

- có tính chất bí mật với nghĩa là những người thường xuyên xử lý loại thông tin đó nói chung không biết đến hoặc không thể dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ, tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của thông tin đó;

- có giá trị thương mại vì có tính chất bí mật; và

- được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ bí mật bằng những biện pháp phù hợp thực tế.

3. Nếu các Thành viên quy định rằng điều kiện để được phép tiếp thị dược phẩm hoặc sản phẩm hoá nông có chứa các thành phần hoá học mới là phải nộp kết quả thử nghiệm hoặc các dữ liệu bí mật khác thu được nhờ những nỗ lực lớn, thì phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh. Ngoài ra, các Thành viên phải bảo hộ để các dữ liệu đó không bị tiết lộ, trừ trường hợp cần bảo vệ công chúng hoặc trừ khi có thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm để các dữ liệu đó không bị sử dụng trong thương mại một cách không lành mạnh.

Xem nội dung VB
Điều 10bis. Cạnh tranh không lành mạnh

(1) Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm cho công dân của các nước thành viên đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại hành động cạnh tranh không lành mạnh.

(2) Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.

(3) Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:

1. tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh;

2. những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh tranh;

3. những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.

Xem nội dung VB
Điều 41

1. Các Thành viên phải bảo đảm rằng các thủ tục thực thi quyền nêu tại Phần này phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ được đề cập trong Hiệp định này, trong đó có những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Các thủ tục đó phải được áp dụng theo cách thức nhằm tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp và nhằm quy định các biện pháp bảo đảm cho các thủ tục đó không bị lạm dụng.

2. Các thủ tục liên quan đến việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ phải đúng đắn và công bằng. Các thủ tục đó không được phức tạp hoặc tốn kém quá mức, không được quy định những thời hạn bất hợp lý hoặc việc trì hoãn vô thời hạn.

3. Các quyết định phán xử vụ việc nên được thể hiện bằng văn bản và nêu rõ lý do. Các quyết định đó ít nhất phải được trao cho các bên tham gia khiếu kiện mà không được chậm trễ quá mức. Quyết định phán xử vụ việc chỉ được dựa vào chứng cứ mà các bên đều đã được tạo cơ hội trình bày ý kiến về chứng cứ đó.

4. Các bên tham gia khiếu kiện phải có quyền yêu cầu cơ quan tư pháp xem xét lại các quyết định hành chính cuối cùng và, theo quy định trong luật quốc gia của Thành viên về thẩm quyền tài phán theo mức độ nghiêm trọng của vụ án, ít nhất là xem xét lại các khía cạnh pháp lý của các quyết định xét xử vụ việc ở cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, các Thành viên không có nghĩa vụ phải quy định quyền yêu cầu xem xét lại những tuyên bố tha bổng trong các vụ án hình sự.

5. Cần hiểu là Phần này không quy định nghĩa vụ thiết lập một hệ thống tư pháp để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ tách biệt với hệ thống tư pháp để thực thi luật nói chung, cũng không làm ảnh hưởng đến năng lực của các Thành viên trong việc thực thi luật của mình nói chung. Không một quy định nào trong Phần này ràng buộc nghĩa vụ phân chia các nguồn lực giữa việc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ và việc thực thi luật nói chung.

Điều 42

Các thủ tục đúng đắn và công bằng

Các Thành viên phải quy định cho chủ thể quyền[11] được tham gia các thủ tục tố tụng dân sự liên quan đến việc thực thi bất kỳ loại quyền sở hữu trí tuệ nào quy định trong Hiệp định này. Bị đơn phải có quyền được thông báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi tiết, trong đó nêu cả căn cứ của các yêu cầu. Các bên phải được phép có cố vấn pháp luật độc lập làm đại diện, và các thủ tục không được đòi hỏi quá mức việc đương sự buộc phải có mặt tại toà. Các bên tham gia tố tụng phải có quyền biện minh cho yêu cầu của mình và có quyền đưa ra mọi chứng cứ thích hợp. Thủ tục đó phải có phương tiện để nhận biết và bảo hộ thông tin bí mật, trừ khi điều này trái với các quy định của hiến pháp hiện hành.

Điều 43

Chứng cứ

1. Trong trường hợp một bên đã đưa ra chứng cứ có thể có được một cách hợp lý, đủ để biện minh cho những yêu cầu của mình và đã chỉ ra chứng cứ thích hợp để biện minh cho các yêu cầu đó của mình nhưng nằm dưới sự kiểm soát của bên kia, các cơ quan có thẩm quyền xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên kia đưa ra chứng cứ đó, nhưng phải tuân thủ các điều kiện bảo đảm việc bảo hộ thông tin mật trong những trường hợp cần thiết.

2. Trong những trường hợp một bên tham gia tố tụng tự ý và không có lý do xác đáng từ chối không cho tiếp cận, hoặc bằng cách khác không cung cấp thông tin cần thiết trong một thời hạn hợp lý, hoặc gây trở ngại đáng kể cho thủ tục tố tụng liên quan đến việc thực thi quyền, một Thành viên có thể cho các cơ quan xét xử được quyền ra quyết định tạm thời và quyết định cuối cùng, khẳng định hoặc phủ định, dựa trên cơ sở những thông tin được đệ trình, kể cả đơn tố cáo hoặc đơn kiện của bên chịu bất lợi vì bị từ chối không được tiếp cận thông tin, nhưng phải tạo cho các bên cơ hội được trình bày ý kiến về lý lẽ hoặc chứng cứ đã được đưa ra.

Điều 44

Lệnh của toà án

1. Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh chấm dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan. Các Thành viên không có nghĩa vụ phải quy định thẩm quyền đó đối với đối tượng được bảo hộ do một người tiếp nhận hoặc đặt hàng trước khi biết hoặc có căn cứ để biết rằng kinh doanh đối tượng đó sẽ dẫn đến việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

2. Không phụ thuộc vào các quy định khác của Phần này, và với điều kiện tuân thủ các quy định riêng về việc sử dụng do Chính phủ, hoặc những người được Chính phủ cho phép, thực hiện mà không được phép của người nắm quyền nêu tại Phần II, các Thành viên có thể giới hạn những biện pháp chế tài theo quy định đối với việc sử dụng đó trong việc trả thù lao theo quy định tại điểm (h) Điều 31. Trong những trường hợp khác, các biện pháp chế tài theo Phần này phải được áp dụng, hoặc phải quy định việc tuyên án và buộc bồi thường thoả đáng, nếu các biện pháp chế tài đó mâu thuẫn với luật quốc gia của Thành viên.



Điều 45

Đền bù thiệt hại

1. Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.

2. Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc người xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền các phí tổn, trong đó có thể bao gồm cả phí đại diện thích hợp. Trong những trường thích hợp, các Thành viên có thể cho các cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi các khoản lợi nhuận và/hoặc trả các khoản đền bù thiệt hại đã ấn định trước, kể cả trường hợp người xâm phạm đã thực hiện hành vi xâm phạm khi không biết hoặc không có căn cứ để biết điều đó.

Điều 46

Các biện pháp chế tài khác

Để ngăn chặn một cách hữu hiệu các hành vi xâm phạm, các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh, mà không có bồi thường dưới bất kỳ hình thức nào, buộc những hàng hoá xâm phạm do các cơ quan đó phát hiện phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức tránh gây bất cứ thiệt hại nào cho chủ thể quyền, hoặc phải bị tiêu huỷ trừ khi việc tiêu huỷ trái với quy định của hiến pháp hiện hành. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh, mà không có bồi thường dưới bất kỳ hình thức nào, buộc các vật liệu và phương tiện đã được sử dụng chủ yếu để sản xuất hàng hoá xâm phạm phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tiếp diễn hành vi xâm phạm. Khi xem xét các yêu cầu đó, phải chú ý đến sự cần thiết phải có tính tương xứng giữa các biện pháp chế tài và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, cũng như phải chú đến lợi ích của các bên thứ ba. Đối với hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giả mạo, trừ những trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần gỡ bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hoá một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng hoá đó được vào lưu thông trong các kênh thương mại.

Điều 47

Quyền được thông tin

Các Thành viên có thể quy định rằng các cơ quan xét xử có quyền, trừ khi điều này không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham gia vào việc sản xuất hoặc phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm và về các kênh phân phối của những người đó.

Điều 48

Bồi thường cho bên bị

1. Các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài và đã lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản bồi thường tương xứng với thiệt hại do sự lạm dụng đó gây ra. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn các chi phí, trong đó có thể bao gồm cả phí đại diện thích hợp.

Đối với việc điêu hành bất cứ luật nào liên quan đến việc bảo hộ hoặc thực thi các quyền sở hữu trí tuệ, các Thành viên chỉ được miễn trách nhiệm pháp lý cho cả các cơ quan và các viên chức nhà nước không phải chịu những biện pháp chế tài tương ứng nếu các hành vi được thực hiện hoặc được dự định thực hiện một cách có thiện ý nhằm điều hành các luật đó.

Điều 49

Các thủ tục hành chính

Trong phạm vi mà các thủ tục hành chính xử lý vụ việc có thể buộc áp dụng bất kỳ biện pháp chế tài dân sự nào, các thủ tục đó phải phù hợp với các nguyên tắc về cơ bản tương đương với những nguyên tắc quy định trong Mục này.

Điều 50

1. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp và hữu hiệu các biện pháp tạm thời:

(a) nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ loại quyền sở hữu trí tuệ nào, và đặc biệt nhằm ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu vào các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình ngay sau khi hoàn thành thủ tục hải quan;

(b) nhằm bảo tồn các chứng cứ liên quan đến hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền.

2. Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt, nếu bất kỳ một sự chậm trễ nào cũng có nguy cơ gây hậu quả không khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc nếu có thể thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị thủ tiêu, các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bày ý kiến.

3. Các cơ quan xét xử cũng phải có quyền yêu cầu nguyên đơn cung cấp bất kỳ chứng cứ nào có thể có được một cách hợp lý, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là chủ thể quyền và quyền của nguyên đơn đang bị hoặc hoặc rõ ràng có nguy cơ bị xâm phạm, và buộc nguyên đơn phải nộp khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và ngăn chặn sự lạm dụng.

4. Trường hợp đã ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời trước khi nghe bị đơn trình bầy ý kiến, các bên bị áp dụng biện pháp đó phải được thông báo ngay, chậm nhất là sau khi thi hành các biện pháp đó. Trong một thời hạn hợp lý kể từ khi thông báo lệnh áp dụng các biện pháp đó, theo yêu cầu của bị đơn lệnh áp dụng biện pháp tạm thời phải được xem xét lại, trong đó có cả việc nghe bị đơn trình bày ý kiến để đi đến quyết định sửa đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó.

5. Nguyên đơn có thể được cơ quan sẽ thi hành các biện pháp tạm thời yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết để xác định hàng hoá có liên quan.

6. Không ảnh hưởng đến khoản 4, theo yêu cầu của bị đơn, các biện pháp tạm thời được áp dụng theo các khoản 1 và khoản 2 phải bị huỷ bỏ hoặc bị đình chỉ hiệu lực dưới hình thức khác, nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc không được tiến hành trong một thời hạn hợp lý, do cơ quan xét xử đã ra lệnh áp dụng các biện pháp đó ấn định nếu luật pháp quốc gia của Thành viên cho phép như vậy, hoặc không quá 20 ngày làm việc hoặc 31 ngày theo lịch, tính theo thời hạn nào dài hơn, nếu luật quốc gia không cho phép ấn định thời hạn đó.

7. Nếu các biện pháp tạm thời bị huỷ bỏ, hoặc bị đình chỉ hiệu lực vì bất cứ hành vi hay thiếu sót nào của nguyên đơn, hoặc nếu sau đó thấy rằng quyền sở hữu trí tuệ không bị xâm phạm hoặc không có nguy cơ bị xâm phạm, theo yêu cầu của bị đơn, các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn khoản bồi thường thoả đáng đối với bất kỳ thiệt hại nào do các biện pháp đó gây ra.

8. Trong phạm vi mà các thủ tục hành chính xử lý vụ việc có thể buộc áp dụng bất kỳ biện pháp tạm thời nào, các thủ tục đó phải phù hợp với các nguyên tắc về cơ bản tương đương với những nguyên tắc quy định trong Mục này.

Xem nội dung VB
Điều 51

Đình chỉ thông quan tại các Cơ quan hải quan

Các Thành viên phải ban hành, một cách phù hợp với các quy định sau đây, các thủ tục[13] cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giả mạo hoặc vi phạm bản quyền[14] có thể xẩy ra, được đệ đơn cho các cơ quan có thẩm quyền, là cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử, yêu cầu đình chỉ thông quan tại các cơ quan hải quan để ngăn chặn các hàng hoá đó vào lưu thông tự do. Các Thành viên có thể cho phép đệ đơn như vậy đối với hàng hoá xâm phạm các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, với điều kiện phải đáp ứng các yêu cầu của Mục này. Các Thành viên cũng có thể quy định các thủ tục tương ứng về việc đình chỉ thông quan tại các cơ quan hải quan đối với những hàng hoá xâm phạm được tập kết để xuất khẩu ra khỏi lãnh thổ của mình.

Điều 52

Đơn

Bất kỳ một chủ thể quyền nào tiến hành các thủ tục theo Điều 51 trên đây đều phải cung cấp chứng cứ thích hợp để chứng minh với các cơ quan có thẩm quyền rằng, theo luật của nước nhập khẩu, hiển nhiên có sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải cung cấp một bản mô tả hàng hoá chi tiết đến mức các cơ quan hải quan có thể dễ dàng nhận biết những hàng hoá đó. Trong một thời hạn hợp lý, các cơ quan có thẩm quyền phải thông báo cho nguyên đơn về việc đơn có được chấp nhận hay không, và về thời hạn mà các cơ quan hải quan sẽ hành động nếu điều này được các cơ quan có thẩm quyền ấn định thời hạn đó.

Điều 53

Khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương

1. Các cơ quan có thẩm quyền phải có quyền yêu cầu nguyên đơn nộp khoản bảo đảm hoặc bảo chứng tương đương đủ để bảo vệ bị đơn và các cơ quan có thẩm quyền và để ngăn ngừa sự lạm dụng. Khoản bảo đảm hoặc vật bảo chứng tương đương đó không được cản trở một cách bất hợp lý việc vận dụng các thủ tục đó.

2. Nếu thể theo đơn yêu cầu được nộp theo quy định của Mục này, việc thông quan đối với hàng hoá liên quan đến các kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí hoặc thông tin bí mật để đưa vào lưu thông tự do bị đình chỉ tại các cơ quan hải quan theo quyết định không phải của một cơ quan xét xử hoặc một cơ quan độc lập khác, nếu thời hạn quy định tại Điều 55 đã kết thúc mà cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định áp dụng biện pháp tạm thời, và nếu mọi điều kiện khác đối với việc nhập khẩu đều được thoả mãn, thì hàng hoá đó của chủ sở hữu, người nhập khẩu, hoặc người nhập khẩu theo uỷ thác phải được thông quan nếu những người đó nộp khoản bảo đảm với một số lượng đủ để bảo vệ chủ thể quyền đối với bất kỳ sự xâm phạm nào. Việc nộp khoản bảo đảm đó không được ảnh hưởng đến bất cứ biện pháp chế tài nào khác mà chủ thể quyền có thể vận dụng, điều này được hiểu là khoản bảo đảm phải được hoàn trả nếu chủ thể quyền không thực hiện quyền tố tụng trong một thời hạn hợp lý.

Điều 54

Thông báo về việc đình chỉ

Người nhập khẩu và nguyên đơn phải được thông báo ngay về việc đình chỉ thông quan đối với hàng hoá theo Điều 51 trên đây.

Điều 55

Thời hạn đình chỉ

Trong một thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ khi nguyên đơn được thông báo về việc đình chỉ thông quan, nếu các cơ quan hải quan không được thông báo rằng thủ tục để xét xử vụ việc đó đã được một bên không phải là bị đơn tiến hành, hoặc rằng cơ quan có thẩm quyền đã quyết định áp dụng các biện pháp tạm thời để kéo dài thời hạn đình chỉ việc thông quan đối với hàng hoá, thì hàng hoá đó phải được thông quan, nếu đáp ứng mọi điều kiện khác đối với việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu; trong những trường hợp thích hợp, thời hạn này có thể được gia hạn thêm 10 ngày làm việc. Nếu thủ tục tố tụng để xét xử vụ việc đó đã được tiến hành, thì theo yêu cầu của bị đơn việc xem xét lại, bao gồm cả việc nghe bị đơn trình bầy ý kiến, phải được thực hiện, trong một thời hạn hợp lý, để ra quyết định sửa đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên những biện pháp đó. Không phụ thuộc vào các quy định trên, trường hợp việc đình chỉ thông quan hàng hoá được thực hiện hoặc được tiếp tục thực hiện theo một biện pháp xét xử tạm thời, các quy định tại khoản 6 Điều 50 phải được áp dụng.

Điều 56

Bồi thường cho người nhập khẩu và chủ sở hữu hàng hoá

Các cơ quan hữu quan phải có quyền buộc nguyên đơn phải trả cho người nhập khẩu, người nhập khẩu theo uỷ thác hoặc chủ sở hữu hàng hoá khoản bồi thường thoả đáng đối với bất cứ thiệt hại nào mà người đó phải gánh chịu do việc ngăn giữ hàng hoá một cách sai trái hoặc do việc ngăn giữ hàng hoá đã được thông quan theo Điều 55 trên đây.

Điều 57

Quyền kiểm tra và thông tin
Với điều kiện không làm ảnh hưởng tới việc bảo hộ thông tin bí mật, các Thành viên phải cho các cơ quan có thẩm quyền quyền dành cơ hội cho chủ thể quyền được yêu cầu tiến hành kiểm tra bất kỳ hàng hoá nào bị cơ quan hải quan ngăn giữ để chứng minh yêu cầu của mình. Các cơ quan có thẩm quyền cũng phải có quyền tạo cơ hội tương đương cho người nhập khẩu yêu cầu tiến hành kiểm tra bất cứ hàng hoá nào như vậy. Đối với trường hợp vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, các Thành viên có thể quy định cho các cơ quan có thẩm quyền quyền thông báo cho chủ thể quyền biết về tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó.
...

Điều 59

Các biện pháp chế tài

Với điều kiện không làm ảnh hưởng tới các quyền khiếu kiện dành cho chủ thể quyền và quyền của bị đơn được yêu cầu cơ quan xét xử xem xét lại vụ việc, các cơ quan có thẩm quyền phải có quyền ra lệnh tiêu huỷ hoặc xử lý hàng hoá xâm phạm theo các nguyên tắc nêu tại Điều 46 trên đây. Đối với hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo, các cơ quan có thẩm quyền không được cho phép tái xuất những hàng hoá xâm phạm vẫn giữ nguyên trạng hoặc xử lý chúng theo một thủ tục hải quan khác, trừ các trường hợp ngoại lệ.

Điều 60

Nhập khẩu với số lượng nhỏ

Các Thành viên có thể không áp dụng các quy định trên đối với những hàng hoá phi thương mại với số lượng nhỏ, là hành lý cá nhân hoặc hàng gửi với số lượng nhỏ.

Xem nội dung VB