Thông báo số 98/TB-VPCP về việc ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng tại hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện pháp lệnh phòng, chống mại dâm (2003-2008)
Số hiệu: | 98/TB-VPCP | Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Xuân Phúc |
Ngày ban hành: | 26/03/2009 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Trật tự an toàn xã hội, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 98/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2009 |
THÔNG BÁO
Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG TRƯƠNG VĨNH TRỌNG TẠI HỘI NGHỊ TỔNG KẾT 5 NĂM THỰC HIỆN PHÁP LỆNH PHÒNG, CHỐNG MẠI DÂM (2003-2008)
Ngày 06 tháng 3 năm 2009, tại Hà Nội, Phó Thủ tưởng Trương Vĩnh Trọng, Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm đã chủ trì Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm (2003 - 2008).
Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các Ban, ngành Trung ương, đại diện Ủy ban nhân dân, các Sở: Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Trung tâm Giáo dục - Lao động Xã hội của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đại diện Tổ chức quốc tế, đại sứ quán một số nước tại Hà Nội và một số cơ quan thông tấn, báo chí.
Sau khi nghe báo cáo của các Bộ: Lao động - Thương binh và Xã hội, Tư pháp, Công an, Tài chính, đại diện Tổ chức quốc tế và ý kiến phát biểu của các đại biểu tham dự Hội nghị, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã kết luận như sau:
1. Kết quả sau 5 năm thực hiện Pháp lệnh phòng, chống mại dâm:
a) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Pháp lệnh phòng, chống tệ nạn mại dâm đã được các Bộ, ngành, đoàn thể và các tỉnh, thành phố quan tâm, nhận thức rõ trách nhiệm được giao và chỉ đạo quyết liệt hơn, sâu sát hơn.
b) Hệ thống văn bản pháp luật quản lý Nhà nước về phòng, chống tệ nạn mại dâm đã từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi để các ngành, các cấp và nhân dân thực hiện. Các văn bản pháp luật liên quan hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm được ban hành kịp thời, có hệ thống và tương đối đồng bộ cả về quan điểm, chủ trương, biện pháp, phân công trách nhiệm, cơ chế phối hợp, chế tài xử lý.
c) Bộ máy quản lý và năng lực cán bộ của các cơ quan chuyên trách thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, lực lượng công an và các cơ quan liên quan, tổ chức liên ngành đã được chú trọng. Hệ thống thông tin, số liệu thống kê báo cáo về phòng, chống mại dâm được thực hiện nề nếp hơn, một số địa phương đã quan tâm bố trí cán bộ, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác phòng, chống mại dâm.
d) Nhận thức của cán bộ, đảng viên, người dân về phòng, chống mại dâm được nâng lên rõ rệt. Quan điểm về phòng ngừa, đấu tranh với tệ nạn mại dâm được nhân dân đồng tình, ủng hộ với phương châm phòng ngừa là chính, thông qua công tác tuyên truyền gắn với phong trào xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội và các chương trình an sinh xã hội như: dạy nghề, vay vốn, tạo việc làm nhằm hạn chế phát sinh tệ nạn này.
Việc tổ chức thi tìm hiểu Pháp lệnh phòng, chống mại dâm với gần 11 triệu người tham gia là một kết quả đáng ghi nhận.
Công tác quản lý địa bàn, cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm đã có nhiều cố gắng; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm được bám sát và kịp thời hơn; việc hỗ trợ người lầm lỡ hoàn lương có hiệu quả hơn. Nhiều mô hình hỗ trợ người hoàn lương tốt đã được phổ biến và nhân rộng ở Đà Nẵng, Hà Nội, Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Thanh Hóa, Bạc Liêu...
Việc thực hiện Pháp lệnh phòng, chống mại dâm trong 5 năm qua đã bước đầu kìm chế được tốc độ gia tăng của tệ nạn này, đặc biệt là mại dâm nơi công cộng đã giảm cơ bản so với thời kỳ chưa có Pháp lệnh; hạn chế được mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, giảm các đường dây, các vụ vi phạm quy mô lớn, kịp thời xử lý các tụ điểm mại dâm phức tạp; giảm số xã, phường trọng điểm về mại dâm; giảm rõ rệt tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm.
2. Công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm tuy đã đạt được một số kết quả nhưng vẫn chưa thật vững chắc, còn nhiều mặt hạn chế và tồn tại:
a) Tệ nạn mại dâm có xu hướng giảm về bề nổi nhưng hoạt động tinh vi dưới nhiều hình thức, đặc biệt là lợi dụng kinh doanh dịch vụ nhạy cảm để hoạt động với nhiều thành phần tham gia, sử dụng các kỹ thuật hiện đại để điều hành; mại dâm cấu kết với các loại tệ nạn và tội phạm khác hình thành các nhóm có tổ chức.
Tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới vì mục đích mại dâm chưa giảm; mại dâm đồng tính, nam cải trang thành nữ giới để hoạt động bán dâm, mại dâm có yếu tố nước ngoài đang có xu hướng tăng và phức tạp hơn.
b) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo: Ở một số cấp ủy Đảng, lãnh đạo một số Bộ, ngành và chính quyền các cấp chưa quan tâm đầy đủ, chỉ đạo chưa thường xuyên và thiếu kiên quyết. Có địa phương chưa thấy hết được vai trò, trách nhiệm của chính quyền các cấp, nhất là ở một số xã, phường, công tác quản lý còn buông lỏng để tệ nạn mại dâm còn có lúc, có nơi hoạt động công khai trên địa bàn.
Việc đấu tranh, xử lý các vi phạm còn nhẹ, thiếu tính răn đe, chủ yếu là cảnh cáo, nhắc nhở, phạt hành chính; việc đình chỉ và thu hồi giấy phép kinh doanh chiếm tỷ lệ rất ít, xử lý người mua dâm còn quá nhẹ so với người bán dâm.
Thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, các đợt cao điểm chỉ chú trọng các địa bàn trọng điểm ở khu vực đô thị, xem nhẹ quản lý địa bàn nông thôn, dẫn đến tình trạng một số tụ điểm tệ nạn mại dâm tồn tại thời gian dài không xử lý, gây bức xúc trong dư luận.
Tệ nạn mại dâm ở địa bàn giáp ranh không xử lý kịp thời, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp ở một số Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, các biện pháp phòng ngừa thực hiện chưa đồng bộ, thiếu tập trung trọng điểm. Bên cạnh đó, đầu tư nguồn lực cho công tác phòng, chống mại dâm còn ít, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
c) Công tác tuyên truyền giáo dục còn nghèo nàn về nội dung, độ bao phủ còn thấp, đặc biệt giáo dục hành vi nhân cách, dạy nghề chưa phù hợp và chưa đến từng nhóm đối tượng nên sự tác động của truyền thông hiệu quả chưa cao.
d) Một số quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm còn nhiều bất cập, chậm sửa đổi, bổ sung; các quy định không còn phù hợp với tình hình hiện nay nên khó đi vào cuộc sống.
3. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm trong thời gian tới cần tập trung làm tốt một số công việc sau:
a) Các Bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ với tinh thần trách nhiệm và vai trò tham mưu cho Chính phủ trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và cơ chế cũng như chương trình, kế hoạch cụ thể về công tác phòng, chống mại dâm, chú trọng xoá bỏ tình trạng mại dâm trẻ em và các hình thức bóc lột tình dục đối với phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó, phải luôn bám sát, nắm chắc tình hình thực tế để thường xuyên chỉ đạo, giúp đỡ địa phương kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
b) Các cấp, các ngành và các cơ quan thông tấn, báo chí phải tích cực tham gia đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền cả về bề nổi lẫn bề sâu nhằm nâng cao nhận thức, định hướng giá trị, lối sống lành mạnh gắn với thực hiện lồng ghép các chương trình an sinh xã hội, phát triển kinh tế, an ninh trật tự, thực hiện các biện pháp phòng, chống mại dâm với phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, phòng, chống ma tuý, hạn chế phát sinh và giảm dần tệ nạn này.
c) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu trình Chính phủ các giải pháp phòng, chống mại dâm có hiệu quả trong những năm tới, trước mắt đề xuất các giải pháp quản lý, kiểm tra, kiểm soát tệ nạn mại dâm hoặc xử lý mạnh đối với khách mua dâm, các cá nhân, các cơ sở vi phạm nhằm răn đe, cảnh báo để người khác tránh vi phạm.
- Hỗ trợ các đối tượng mại dâm tiếp cận với các dịch vụ y tế, xã hội, trong đó có phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, phòng chống bạo lực, giảm kỳ thị của xã hội. Nghiên cứu và học tập mô hình của các nước phù hợp với Việt Nam để đề xuất trình Chính phủ, Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm.
- Đánh giá, tổng kết mô hình phòng, chống mại dâm có hiệu quả để nhân rộng, tập trung chỉ đạo xây dựng nhiều xã, phường không có tệ nạn mại dâm, ma tuý…
- Nghiên cứu xây dựng Đề án về cơ chế tổ chức xã, phường phòng, chống AIDS, phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm.
d) Bộ Công an tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, nhất là các đường dây, tổ chức buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài vì mục đích mại dâm, vì mục đích kiếm tiền, kiên quyết xoá bỏ các tụ điểm hoạt động mại dâm trong một số cơ sở kinh doanh dịch vụ, mại dâm ở các địa bàn công cộng, mại dâm ở khu vực giáp ranh, không để tệ nạn này gây rối trật tự, an toàn xã hội. Nghiêm khắc xử lý người mua dâm, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, các cán bộ doanh nghiệp. Lập hồ sơ đưa người mại dâm vào giáo dục tại các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội.
đ) Bộ Tư pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cho phù hợp với công tác phòng, chống mại dâm trong thời gian tới.
e) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Bộ Thông tin và Truyền thông có biện pháp cụ thể hơn nhằm ngăn chặn các văn hóa phẩm đồi trụy có tác động xấu đến thanh, thiếu niên. Đồng thời có những hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội.
g) Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành có liên quan rà soát, đánh giá lại cơ chế kinh phí phòng, chống mại dâm để có đầu tư phù hợp nhằm thúc đẩy công tác này.
h) Đề nghị các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương quan tâm hơn nữa, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống mại dâm; huy động sức mạnh của cả hệ thống chính ra và các nguồn lực của xã hội vào công tác này, đặc biệt chú trọng việc hỗ trợ người hoàn lương trong dạy nghề, vay vốn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, không kỳ thị, phân biệt đối xử, tạo điều kiện và cơ hội cho họ nhanh chóng tái hoà nhập cộng đồng, không tái phạm.
Phải quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị, địa phương khi để xảy ra tình trạng mại dâm phức tạp, tồn tại kéo dài trên địa bàn. Tiếp tục quan tâm đầu tư cho công tác chuyển hoá địa bàn, xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn mại dâm, làm trong sạch các địa bàn; chấn chỉnh các hoạt động kinh doanh dịch vụ nhạy cảm và xử lý nghiêm khắc các vi phạm về an ninh trật tự, lưu hành văn hoá phẩm khiêu dâm, sử dụng ma tuý, thuốc lắc.
i) Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành liên quan tiếp tục tăng cường sự chỉ đạo và lồng ghép các nội dung xây dựng gia đình, làng, xã văn hoá vào cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" góp phần tích cực vào việc xây dựng xã, phường lành mạnh không có tệ nạn xã hội.
k) Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nghiên cứu và tổng hợp những kiến nghị của các Bộ, ngành, các cơ quan, địa phương tại Hội nghị để xem xét giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình các cơ quan có thẩm quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương và cơ sở triển khai thực hiện có hiệu quả.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, các thành viên Ủy ban quốc gia phòng, chống A/DS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận: |
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |