Thông báo số 243/TB-VPCP về việc kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc
Số hiệu: | 243/TB-VPCP | Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ | Người ký: | Phạm Văn Phượng |
Ngày ban hành: | 05/09/2008 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Thương mại, đầu tư, chứng khoán, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 243/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2008 |
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI LÃNH ĐẠO TỈNH VĨNH PHÚC
Ngày 29 tháng 8 năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm và làm việc tại tỉnh Vĩnh Phúc. Cùng thăm và làm việc với Thủ tướng có đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Văn phòng Chính phủ, Xây dựng, Giao thông vận tải, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường. Tại buổi làm việc, sau khi nghe đồng chí Bí thư Tỉnh ủy báo cáo tình hình kinh tế-xã hội 8 tháng đầu năm và nhiệm vụ, giải pháp những tháng cuối năm 2008; ý kiến của các Bộ, cơ quan dự họp; Thủ tướng đã kết luận như sau:
I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH
Sau hơn 10 năm tái lập Tỉnh, nhất là trong hơn 2 năm qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã cùng cả nước thực hiện được nửa nhiệm kỳ kế hoạchh 5 năm 2006-2010. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ, chính quyền và quân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng, năng động sáng tạo với nhiều cách làm hay, mô hình tốt, đã đạt được thành tựu khá toàn diện trong phát triển kinh tế-xã hội; tăng trưởng kinh tế bình quân 10 năm (1997-2007) đạt 17,5%. Riêng 2 năm gần đây, kinh tế tăng trưởng khá cao, năm 2006 đạt 19,76% và năm 2007 là 21,86%. Sáu tháng đầu năm 2008, trong điều kiện tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều diễn biến bất lợi, thiên tai dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi, đã gây khó khăn, thiệt hại nặng nề cho sản xuất và đời sống của nhân dân, nhưng Tỉnh đã quán triệt và triển khai nghiêm túc sự chỉ đạo của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng bền vững, kinh tế vẫn tăng trưởng khá cao, đạt 20,69%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ công nghiệp- xây dựng tăng lên 58,8%, nông-lâm-ngư nghiệp giảm xuống còn 17,11%; nông nghiệp tăng trưởng cao hơn bình quân cả nước; đầu tư phát triển hạ tầng gắn với đô thị hóa có nhiều cố gắng; thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài đạt kết quả nổi bật; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực; đào tạo nghề có bước tiến bộ đáng kể, lao động đã qua đào tạo đạt tỷ lệ cao (37%); đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 10%; cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh và thu được kết quả bước đầu; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố và tăng cường; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng biểu dương sự cố gắng và những kết quả mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt được.
Tuy nhiên, Tỉnh vẫn còn một số khó khăn yếu kém: chất lượng tăng trưởng, khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm còn thấp; công nghiệp nội địa chưa phát triển, còn dựa chủ yếu vào đầu tư nước ngoài; dịch vụ phát triển chậm; công tác quy hoạch và quản lý đầu tư xây dựng còn nhiều bất cập; chênh lệch về phát triển và thu nhập giữa các vùng miền trong Tỉnh, nhất là nông thôn, thành thị ngày càng gia tăng; vật chất tinh thần, nhà ở của người lao động trong khu công nghiệp còn khó khăn; khiếu nại, tố cáo của công dân, đình công, lãn công ở các khu công nghiệp còn xảy ra nhiều; ô nhiễm môi trường chưa được xử lý một cách căn bản; việc áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất còn chậm; hệ thống hạ tầng, số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tai nạn giao thông, tội phạm, tệ nạn xã hội chưa được kiềm chế có hiệu quả.
II. NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
Về cơ bản đồng ý với nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong báo cáo của Tỉnh. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2006-2010, trong thời gian tới Tỉnh cần tiến hành sơ kết nửa nhiệm kỳ, đánh giá, khẳng định những kết quả đạt được để tiếp tục phát huy; chỉ ra những yếu kém, tồn tại, những chỉ tiêu còn đạt thấp, phân tích nguyên nhân, đề ra biện pháp để thực hiện. Nhiệm vụ đặt ra cho những năm còn lại của nửa nhiệm kỳ kế hoạch 5 năm và những tháng còn lại của năm 2008 là rất nặng nề. Để phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của Tỉnh, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Tỉnh phải phấn đấu quyết liệt hơn nữa, vượt qua khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, thuận lợi để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của Tỉnh, nhất là có vị trí liền kề và nằm trong quy hoạch Vùng Thủ đô, thuộc trục phát triển Hai hành lang, Một vành đai kinh tế với Trung Quốc; có tài nguyên về đất đai đa dạng (cả đất đồi và đất bằng) thuận lợi cho phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp; tiềm năng phát triển du lịch, nhất là có khí hậu mát gắn với Vườn quốc gia Tam Đảo; có nhiều trục quốc lộ, đường sắt, đường sông đi qua, gần sân bay quốc tế...Trong thời gian tới, Tỉnh cần tập trung làm tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, trong đó lưu ý một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Đối với phát triển công nghiệp, phải lựa chọn các dự án công nghệ nguồn, có suất đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, sử dụng ít đất, tiết kiệm năng lượng, sản phẩm có giá trị gia tăng cao và tỷ lệ xuất khẩu lớn. Gắn với phát triển công nghiệp, Tỉnh phải quan tâm phát triển đô thị, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, nhất là tại các khu công nghiệp tập trung.
Nông nghiệp phải được quy hoạch lại theo đúng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; trước hết là phải giữ diện tích đất lúa, bảo đảm an ninh lương thực và đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; tập trung vào những sản phẩm có giá trị gia tăng cao; gắn sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu tập trung với công nghiệp chế biến; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong Tỉnh mà cần tính toán đáp ứng cho một phần của Thủ đô Hà Nội.
So với mục tiêu của kế hoạch 5 năm, nhiệm vụ đặt ra đối với phát triển dịch vụ trong thời gian tới là rất nặng nề. Tỉnh cần quan tâm phát triển đồng bộ các dịch vu, trong đó phải đặc biệt chú ý phát triển du lịch; khai thác tốt tiềm năng, lợi thế và địa danh Tam Đảo.
Cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, Tỉnh cần tập trung làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa các vùng miền, khu vực; tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh.
Từ nay đến cuối năm, tiếp tục thực hiện tốt việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững. Trong đó tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc, bảo đảm đủ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu; tiếp tục thực hiện việc rà soát, điều chỉnh, cắt giảm đầu tư theo chỉ đạo của Chính phủ để dồn vốn cho những công trình, dự án cấp bách, sớm phát huy hiệu quả; tạo điều kiện thuận lợi thu hút và giải ngân nhanh vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế; quản lý thật tốt thị trường, giá cả, nhất là đối với các mặt hàng thiết yếu, lãi suất tín dụng; chống đầu cơ đẩy giá lên cao; quan tâm đến bảo đảm an sinh xã hội, trước hết là thực hiện tốt những chínhh sách hiện có, trợ giúp thiết thực cho những hộ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh và giá cả tăng cao; chủ động triển khai các biện pháp phòng chống thiên tai, lụt bão trong mọi trường hợp xảy ra.
Tỉnh cần thực hiện tốt Chỉ thị số 723/CT-TTg , ngày 6 tháng 6 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009. Trong đó lưu ý nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần, đưa về 1 con số vào năm 2010; duy trì tăng trưởng cao hơn năm 2008; bảo đảm vững chắc hơn kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội; quan tâm hơn nữa đến người nghèo, người thu nhập thấp, người làm công ăn lương; chuẩn bị các điều kiện để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; huy động các nguồn vốn để phát triển hạ tầng; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; dành nhiều hơn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước để giải quyết các nhiệm vụ an sinh xã hội, y tế giáo dục, môi trường; đồng thời, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ các nguồn khác cho phát triển kinh tế; điều hành giá cả theo hướng tiếp cận thị trường.
III. MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ CỦA TỈNH
1. Về chỉ đạo sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 78/2007/NĐ-CP , ngày 11 tháng 5 năm 2007 về đầu tư theo hình thức BOT, BTO và BT; Nghị định 69/2008/NĐ-CP , ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao; sửa đổi bổ sung một số nội dung của Luật Đất đai cho phù hợp với tình hình thực tế; rà soát điều chỉnh, ban hành các qui định pháp luật, chế độ, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp; ban hành chính sách ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực xây dựng nhà ở, công trình phúc lợi cho công nhân ở các khu công nghiệp; giao các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Nội vụ, Giáo dục & Đào tạo, Y tế, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, khẩn trương ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành.
2. Về giảm tỷ lệ điều tiết ngân sách Tỉnh về Trung ương để bù đắp phần Vĩnh Phúc đầu tư cho huyện Mê Linh và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật: Đồng ý vẫn giữ nguyên tỷ lệ như hiện nay.
3. Về cho phép Tỉnh được sử dụng số dư từ nguồn thực hiện cải cách tiền lương cho đầu tư phát triển: Đồng ý với đề nghị của Tỉnh.
4. Về sớm phê duyệt bổ sung một số khu công nghiệp của Tỉnh đưa vào danh mục phát triển các khu công nghiệp của nhà nước đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020: Đồng ý về nguyên tắc. Lưu ý cần phải lấp đầy các khu, cụm công nghiệp hiện có; phải có quy hoạch cụ thể, tăng cường sử dụng đất đồi và đất nông nghiệp hiệu quả thấp; hạn chế tối đa việc sử dụng đất lúa. Quan tâm hơn việc phát triển các cụm nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, cùng với việc làm tốt công tác khuyến công, tập trung phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành nghề truyền thống, chế biến nông-lâm-hải sản.
5. Về cho phép đầu tư xây dựng Khu du lịch Tam Đảo II, Trường đua ngựa:
- Về đầu tư xây dựng Khu du lịch Tam Đảo II: Đồng ý về nguyên tắc. Tỉnh làm việc với các Bộ, ngành liên quan để xây dựng và phê duyệt quy hoạch, lập dự án đầu tư, đánh giá tác động môi trường theo quy định. Tinh thần là phải khai thác hợp lý cảnh quan, môi trường để phát triển kinh tế-xã hội.
- Về đầu tư Trường đua ngựa: Việc này sẽ được xử lý sau khi ban hành qui chế chung quy định về lĩnh vực này.
6. Về đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cầu Vĩnh Thịnh, đường vành đai 5: Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất nguồn vốn để sớm triển khai thực hiện.
7. Về đề nghị Chính phủ sớm phê duyệt tách huyện Lập Thạch thành 2 huyện Lập Thạch và Sông Lô: Tỉnh làm việc với Bộ Nội vụ để xử lý theo quy định.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, cơ quan và Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc biết, thực hiện./.
Nơi nhận: |
KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |
Chỉ thị 723/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009 Ban hành: 06/06/2008 | Cập nhật: 11/06/2008
Nghị định 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường Ban hành: 30/05/2008 | Cập nhật: 05/06/2008
Nghị định 78/2007/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao Ban hành: 11/05/2007 | Cập nhật: 26/05/2007