Thông báo số 03/TB-VPCP về việc ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009 của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
Số hiệu: | 03/TB-VPCP | Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ | Người ký: | Văn Trọng Lý |
Ngày ban hành: | 05/01/2009 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Nông nghiệp, nông thôn, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 03/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2009 |
THÔNG BÁO
Ý KIẾN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC NĂM 2008 VÀ TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ NĂM 2009 CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Ngày 29 tháng 12 năm 2008 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dự và phát biểu ý kiến tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009 của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Sau khi nghe đại diện lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo tổng kết năm 2008 và triển khai nhiệm vụ năm 2009, ý kiến của các đại biểu, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến như sau:
I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2008
1. Triển khai Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách năm 2008, trong điều kiện trong nước và quốc tế có nhiều biến động, như: rét đậm, rét hại, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp; bão, lũ nặng nề ở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Nam Bộ; khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu, giá cả xăng dầu, vật tư, thiết bị trên thế giới biến động phức tạp tác động lớn đến nền kinh tế và nông nghiệp nước ta, nhưng ngành nông nghiệp, nông thôn đã đạt được thành tựu khá toàn diện, hoàn thành vượt mức hầu hết các chỉ tiêu đến năm 2010 của Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách năm 2008 của cả nước; nổi bật là:
- Sản xuất tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao và phát triển toàn diện trên các lĩnh vực. Sản xuất lương thực năm 2008 đạt 43,16 triệu tấn, trong đó sản lượng thóc đạt 38,6 triệu tấn, tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 (tăng cao nhất trong 20 năm qua). Thủy sản phát triển tích cực về cả khai thác và nuôi trồng; tổng sản lượng tăng 9,2% so với năm 2007. Cây công nghiệp tập trung như cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, điều tiếp tục phát triển và đã gắn với công nghiệp chế biến, góp phần nâng cao chất lượng, hạ giá thành nông sản; nâng cao tỷ suất hàng hóa và kim ngạch xuất khẩu.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, thủy sản, chăn nuôi tăng, nhiều làng nghề khôi phục và phát triển, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông nghiệp, nông thôn được thành lập tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng: diện tích gieo trồng lúa giảm nhưng sản lượng tăng, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Lâm nghiệp có chuyển biến tích cực, độ che phủ của rừng đạt 38%; chất lượng rừng trồng mới được cải thiện.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 16,24 tỷ đô la Mỹ, tăng 22,7% so với năm 2007. Có 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ: gạo, tôm, cá tra, cao su, cà phê và đồ gỗ.
- Khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật mới được áp dụng vào sản xuất; nhất là trong tuyển chọn, tạo giống mới, nhân nhanh giống bằng công nghệ cao, công nghệ sinh học và áp dụng biện pháp canh tác, nuôi trồng tiên tiến đã góp phần tăng năng suất và chất lượng nông sản, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác, nuôi trồng.
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá; đặc biệt, hệ thống thủy lợi, đê điều đã được quan tâm đầu tư, tạo điều kiện cho trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản phát triển, góp phần hạn chế có hiệu quả các thiệt hại do thiên tai gây ra. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm, bộ mặt nông thôn thay đổi nhanh theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa.
- Quan hệ sản xuất có bước chuyển biến tích cực, đang xuất hiện nhiều mô hình hộ nông dân, trang trại, hợp tác xã, nông, lâm trường quốc doanh là mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi.
Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ sự nỗ lực to lớn của hàng chục triệu hộ nông dân, chỉ đạo tập trung của cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lãnh đạo trực tiếp của Đảng và điều hành có hiệu quả của Chính phủ.
Tuy nhiên, trong năm qua, nông nghiệp phát triển kém bền vững, nhiều ngành hàng sức cạnh tranh thấp; vấn đề dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và vệ sinh an toàn thực phẩm đang đặt ra bức xúc; công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn; nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn thấp; đời sống một bộ phận nông dân và phần lớn diêm dân còn nhiều khó khăn; công tác thống kê, dự báo và thông tin để chỉ đạo điều hành sản xuất chưa kịp thời, chính xác; sắp xếp đổi mới lâm trường quốc doanh triển khai chậm.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ CẦN TẬP TRUNG TRIỂN KHAI TRONG NĂM 2009
Năm 2009 kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục còn khó khăn. Triển khai Nghị quyết của Quốc hội và nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách năm 2009, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là: ngăn chặn suy giảm kinh tế; ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý; đảm bảo an sinh xã hội; đề ra năm nhóm giải pháp: tháo gỡ khó khăn, có cơ chế chính sách thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu; huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh kích cầu đầu tư và tiêu dùng; thực hiện đồng bộ các giải pháp bào đảm an sinh xã hội; điều hành chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; chỉ đạo điều hành, tổ chức thực hiện linh hoạt, quyết liệt, phù hợp tình hình thực tế. Nhiệm vụ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2009, cần tập trung triển khai thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
1. Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu: tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rà soát, bổ sung quy hoạch sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với yêu cầu thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhanh chóng cụ thể hóa giải pháp thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu cho từng mặt hàng nông sản theo hướng: tiếp tục duy trì sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường cho doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
a) Về sản xuất lương thực: cần xác định đây là ngành hàng sản xuất có lợi thế và khả năng cạnh tranh của Việt Nam và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giữ ổn định diện tích trồng lúa khoảng 4 triệu ha có tưới ổn định; tập trung đầu tư thâm canh, sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao, áp dụng các phương thức canh tác tiên tiến, thực hiện cơ giới hóa từ làm đất đến thu hoạch, đẩy mạnh công nghệ bảo quản sau thu hoạch và chế biến. Tập trung chỉ đạo kiên quyết không để dịch rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá tái bùng phát trở lại. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh và Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ đạo tốt việc tiêu thụ lúa Đông Xuân 2008-2009 ở đồng bắng sông Cửu Long, bảo đảm cho người sản xuất có lãi khoảng 30%; sớm xây dựng đề án đầu tư hệ thống kho chứa thóc đảm bảo công suất chứa khoảng 4 triệu tấn, giữ được chất lượng thóc, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2009.
b) Thủy sản: là ngành có nhiều lợi thế và hiệu quả kinh tế cao, nhất là tôm và cá tra, cần có giải pháp đồng bộ, cơ chế chính sách hỗ trợ cho các khâu nuôi, chế biến, bảo quản, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu dùng và bảo vệ môi trường để duy trì sản xuất và mở rộng ở nơi có đủ điều kiện. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư trong quý I năm 2009 trình Thủ tướng chính sách tín dụng ưu đãi cho xây dựng kho trữ đông nhằm hỗ trợ năng lực dự trữ lưu thông thủy sản cho doanh nghiệp.
c) Về các loại cây công nghiệp: cần tập trung đầu tư thâm canh diện tích hiện có và mở rộng diện tích ở nơi có điều kiện đối với một số loại cây công nghiệp đang có lợi thế và khả năng cạnh tranh: cao su, cà phê, điều, tiêu và một số cây ăn quả, rau và hoa.
d) Về chăn nuôi: sớm hoàn thành quy hoạch phát triển chăn nuôi, chế biến sản phẩm chăn nuôi theo hướng công nghiệp và sản xuất thức ăn chăn nuôi bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, nhằm tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác phòng chống dịch để ngăn chặn và khống chế dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng gia súc, tai xanh ở lợn.
e) Về lâm nghiệp: trong năm 2009 xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ đề án bảo vệ phát triển rừng đến năm 2020; khuyến khích, tạo điều kiện các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới lâm trường quốc doanh, trước hết là việc rà soát quỹ đất lâm nghiệp và rừng, tiến hành giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho người nhận khoán trồng, chăm sóc bảo vệ.
2. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực kích cầu đầu tư, tiêu dùng trong nông nghiệp: tập trung đầu tư phát triển thủy lợi và cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn bảo đảm yêu cầu thâm canh, tăng năng suất và hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, cải thiện nâng cao đời sống vật chất tinh thần nông dân. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ động phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính có kế hoạch cụ thể sử dụng có hiệu quả gói kích cầu của Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm cả hộ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, ngành nghề nông thôn).
Rà soát lại các công trình, dự án theo hướng ưu tiên hoàn thành các công trình dở dang, đầu tư mới công trình đã được phê duyệt hoặc xong thủ tục đầu tư, trước hết, những công trình trực tiếp giảm nhẹ thiên tai bão lũ, dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm và vệ sinh môi trường ở nông thôn, các công trình thủy lợi phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng vào nuôi trồng thủy sản, các cây hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, sản xuất muối, chăn nuôi tập trung.
Tập trung chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình thủy lợi dở dang và đầu tư mới sử dụng hết nguồn ngân sách và trái phiếu Chính phủ đã bố trí trong kế hoạch và ứng trước năm 2010; ưu tiên vốn đối ứng và thực hiện tiến độ giải ngân theo kế hoạch đối với các dự án ODA.
Khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đổi mới, nâng cấp, nhập khẩu thiết bị công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng nông sản.
3. Thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội: tiếp tục chỉ đạo có hiệu quả các chính sách hiện có về công tác xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm, nhất là đối với nông dân bị thu hồi đất sản xuất cho phát triển công nghiệp, đô thị, xây dựng hạ tầng và nhu cầu công cộng khác; đất sản xuất, đất ở, nhà ở thuộc đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc; nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch nông thôn; đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ tiếp nhận các tiến bộ khoa học, công nghệ của các nước trên thế giới; công tác khuyến nông, khuyến lâm để chuyển giao nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu, phát triển nông nghiệp nông thôn để tăng thêm việc làm, thu nhập.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ động phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về chính sách hỗ trợ giảm nghèo ở 61 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, trong đó giải pháp quan trọng là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; chính sách nhà ở cho người nghèo ở nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số. Phối hợp với Bộ Tài chính sớm xây dựng chính sách bảo hiểm nông nghiệp.
Phối hợp với các ngành và địa phương thường xuyên theo dõi, cập nhật kịp thời có kiến nghị hỗ trợ người dân bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh,... không được để người dân bị thiếu đói.
4. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, đổi mới việc tổ chức chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện có kết quả chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong năm 2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các Bộ ngành có liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc xây dựng các chương trình, đề án đã được giao tại Nghị quyết của Chính phủ về việc hành chương trình hành động của Chính phủ triển khai Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, rà soát, loại bỏ các thủ tục, giấy tờ, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, doanh nghiệp và nông dân; quản lý có hiệu quả, chống lãng phí thất thoát trong xây dựng cơ bản; tiếp tục phân cấp quản lý cho địa phương và cơ sở, tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nược.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương biết, thực hiện./.
Nơi nhận: |
KT.BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |