Quyết định 2472/QĐ-UBND năm 2011 về Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020
Số hiệu: 2472/QĐ-UBND Loại văn bản: Quyết định
Nơi ban hành: Tỉnh Quảng Nam Người ký: Trần Minh Cả
Ngày ban hành: 05/08/2011 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Lao động, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2472/QĐ-UBND

Quảng Nam, ngày 05 tháng 8 năm 2011

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2020

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

Căn cứ Bộ luật Lao động ngày 26/3/1994; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 12/4/2002; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động ngày 29/6/2006;

Căn cứ Luật Dạy nghề số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006;

Căn cứ Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020;

Theo đề nghị của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tại Tờ trình số 60/TTr- LĐTBXH ngày 09/5/2011,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015.

Điều 2. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành liên quan và UBND các huyện, thành phố có kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược đạt mục tiêu đề ra. Thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện, định kỳ tổng hợp, báo cáo kết quả với UBND tỉnh.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các Sở, ngành: Lao động - Thương binh và Xã hội, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Y tế, Công an tỉnh; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký./.

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH




Trần Minh Cả

 

CHIẾN LƯỢC

PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
(Kèm theo Quyết định số 2472/QĐ-UBND ngày 05/8/2011 của UBND tỉnh)

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động là một trong những thị trường cơ bản và quan trọng nhất. Đối với nước ta, phát triển thị trường lao động là chủ trương lớn và lâu dài của Đảng và Nhà nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh phải "đẩy mạnh phát triển thị trường lao động" nhằm góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước đã tạo điều kiện cho thị trường lao động tỉnh Quảng Nam hình thành và ngày càng phát triển, góp phần quan trọng phân bố và sử dụng hiệu quả các nguồn lực (nhất là nguồn nhân lực) cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, gắn kết cung - cầu lao động, tạo nhiều việc làm, xóa đói giảm nghèo...

Trong 10 năm qua, kinh tế Quảng Nam không ngừng phát triển, tăng trưởng cao và ổn định, không chỉ đảm bảo duy trì việc làm cho lao động đang có việc làm, mà còn tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động góp phần to lớn ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, thị trường lao động Quảng Nam phát triển chưa mạnh và đồng đều, cung - cầu lao động còn mất cân đối nghiêm trọng nên sức ép về việc làm vẫn khá lớn, số lao động thất nghiệp và thiếu việc làm còn nhiều, tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn khá cao (năm 2010 là 24,18% theo chuẩn mới).

Để thúc đẩy thị trường lao động Quảng Nam phát triển mạnh và hoạt động hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm nghèo bền vững, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020.

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2010

I. Tình hình kinh tế - xã hội và đặc điểm của phát triển thị trường lao động ở Quảng Nam hiện nay

1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam

a) Điều kiện tự nhiên

Quảng Nam nằm ở trung độ của cả nước, trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung, có diện tích tự nhiên 10.406,83 km2, dân số gần 1,5 triệu người, có Cảng Kỳ Hà và sân bay Chu Lai, là cửa ngõ ra biển của khu vực Nam Lào qua hành lang Đông - Tây, trong không gian đường hàng hải và hàng không quốc tế. Quảng Nam có lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế du lịch với 2 di sản văn hóa thế giới (khu đền tháp Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An), khu dự trữ sinh quyển thế giới - đảo Cù Lao Chàm, và hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia, gắn kết với con đường Di sản miền trung và các quần thể di tích, du lịch của khu vực như: Phong Nha - Kẻ Bàng Quảng Bình, Cố đô Huế, khu du lịch Bà Nà, Non Nước - Đà Nẵng… với cảnh quan môi trường thích hợp cho việc đa dạng hóa các loại hình du lịch. Điều kiện địa hình đồi núi chiếm khoảng 75% diện tích tự nhiên với nhiều sông, suối là một tiềm năng lớn để phát triển thủy lợi, thủy điện. Nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tổng hợp theo vùng lãnh thổ.

b) Điều kiện kinh tế - xã hội

Được tái lập từ năm 1997, cho đến nay tỉnh Quảng Nam đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, phát huy tiềm năng và nguồn lực sẵn có để đạt được những bước tăng trưởng ổn định, liên tục đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Giai đoạn 2006 - 2010, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) đạt bình quân 12,6% năm. GDP năm 2010 tăng gấp 1,8 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng từ 34% năm 2005 lên 39,8% năm 2010, tỷ trọng ngành dịch vụ - du lịch tăng từ 35% năm 2005 lên 39,05% năm 2010, giảm tỷ trọng của ngành nông - lâm - ngư nghiệp từ 31% năm 2005 xuống còn 21,2% năm 2010. GDP bình quân đầu người (theo giá thực tế) đạt khoảng 17,66 triệu đồng/người/năm. Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân giai đoạn 2000 - 2010 là 0,32%/năm, thấp hơn mức tăng bình quân của cả nước. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, hiện nay tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và dịch vụ chiếm 40%. Cơ chế, chính sách mới đã có tác dụng phát huy ưu thế, tiềm năng của tỉnh và thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung nâng cấp và đầu tư xây dựng mới, tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhất là việc làm, giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông đang được tập trung đầu tư phát triển (đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ 1A, 14B, 14D, 14E, đường cao tốc Đà Nẵng - Dung Quốc, cầu Cửa Đại, đường Thanh niên ven biển...), mạng lưới trục ngang kết nối liên vùng từng bước được hình thành và phát huy hiệu quả. Đô thị hóa tăng nhanh cùng với một số trung tâm vùng đang hình thành và phát triển mạnh nhứ Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn, Núi Thành... sẽ mở ra triển vọng cho sự phát triển trong tương lai. Những kết quả đạt được về kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện cho thị trường lao động tỉnh Quảng Nam phát triển.

Tuy nhiên, tỉnh Quảng Nam cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Quảng Nam nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, đặc biệt hậu quả để lại sau các các đợt bão lũ lớn rất nặng nề, phải khôi phục trong nhiều năm. Kinh tế Quảng Nam phát triển nhưng quy mô còn nhỏ, chất lượng tăng trưởng chưa cao, khối lượng, giá trị sản xuất tăng cao nhưng giá trị gia tăng còn thấp. GDP bình quân đầu người còn thấp so với mức bình quân chung cả nước. Kết cấu hạ tầng đô thị, các Khu công nghiệp, Khu kinh tế mở chưa đồng bộ. Kinh tế - xã hội miền núi tuy đã được tập trung đầu tư từ nhiều nguồn của Trung ương và địa phương nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực (trong đó có quản lý, điều tiết thị trường lao động) còn nhiều bất cập. Giáo dục, đào tạo nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đội ngũ công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề còn thiếu, lao động chưa có việc làm cũng như thiếu việc làm còn nhiều. Lao động nông - lâm - ngư nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn (gần 60%) trong cơ cấu lao động. Đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện hơn nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao hơn mức bình quân cả nước (toàn tỉnh hiện có 126 xã nghèo theo chuẩn mới, trong đó 53 xã đặc biệt khó khăn). Những thách thức về phát triển kinh tế - xã hội sẽ là những rào cản đối với việc phát triển thị trường lao động ở tỉnh trong những năm đến.

2. Đặc điểm của phát triển thị trường lao động Quảng Nam

Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi về việc làm, tiền công, tiền lương và các điều kiện làm việc khác giữa một bên là người sử dụng lao động (phía cầu lao động) và một bên là người lao động (phía cung lao động) theo nguyên tắc thỏa thuận. Thị trường lao động hoạt động khách quan theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Hàng hoá trao đổi trên thị trường lao động là sức lao động - loại hàng hoá đặc biệt có tiềm năng về thể lực, trí lực và tâm lực kết tinh trong chính người lao động. Các yếu tố của thị trường lao động bao gồm: Cung, cầu lao động, giá cả sức lao động, các thể chế về quan hệ lao động, giao dịch trên thị trường lao động.

Phát triển thị trường lao động là quá trình tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động (cung, cầu, giá cả sức lao động; thể chế và hệ thống giao dịch gắn kết cung - cầu lao động); đảm bảo thị trường lao động hoạt động hiệu quả, phân bố và sử dụng tốt nhất nguồn nhân lực, nhiều người có việc làm, giảm thất nghiệp.

Tính đặc thù về điều kiện địa lý, tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng lớn đến phát triển thị trường lao động của tỉnh Quảng Nam cả về mặt thuận lợi và khó khăn.

Với vị trí tự nhiên thuận lợi, Quảng Nam có cơ hội để giao thương về kinh tế với các tỉnh, thành phố lân cận trong nước và nước ngoài, có điều kiện tiếp thu những thành tựu về khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động cần cù, chịu khó là tiềm năng lớn về nguồn nhân lực của tỉnh. Với những lợi thế so sánh, trong bối cảnh và tác động của các yếu tố ngoại lực, cơ chế chính sách thoáng mở sẽ là thời cơ cho phát triển kinh tế để Quảng Nam trở thành một nhân tố tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế vùng duyên hải miền Trung một cách cân đối và bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề xã hội như lao động, việc làm, giảm áp lực di dân đến các vùng đô thị trong, ngoài tỉnh.

Ngoài sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, do địa hình của tỉnh chia thành các vùng khác nhau rõ rệt (vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng, ven biển) thì sự phân bố dân cư, nguồn lực lao động không đồng đều, điều kiện sống khác nhau giữa các vùng, đòi hỏi sự tác động khác nhau trong huy động và phân bổ các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, tạo việc làm bền vững cho người dân từng vùng, nhất là vùng trung du, miền núi.

Thị trường lao động Quảng Nam về cơ bản vẫn mang tính chất của một thị trường lao động phát triển không đồng đều và còn nhỏ bé do cơ cấu nền kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, đang từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Thị trường lao động phát triển mạnh ở các địa bàn Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn, Núi Thành... nhưng lại chưa phát triển ở khu vực nông thôn, miền núi. Trên tổng thể thị trường lao động Quảng Nam vẫn là một thị trường dư thừa lao động (nhất là lao động phổ thông), trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao. Vấn đề di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.

Do kinh tế Quảng Nam phát triển còn chậm nên thị trường lao động Quảng Nam phát triển thấp hơn so với thị trường lao động khu vực miền Trung và cả nước, khả năng cạnh tranh còn thấp, Quảng Nam chưa trở thành địa bàn có sức hút mạnh lao động (nhất là lao động kỹ thuật trình độ cao) từ thị trường khác đến, trái lại, xu hướng dịch chuyển lao động (trước hết là lao động phổ thông) ra khỏi tỉnh khá lớn.

II. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường lao động Quảng Nam giai đoạn 2001 - 2010

1. Tổng quan khuôn khổ thể chế thị trường lao động đối với phát triển thị trường lao động Quảng Nam

a) Khuôn khổ thể chế chung

Thể chế kinh tế thị trường nói chung và thị trường lao động nói riêng từng bước được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý, điều chỉnh sự hình thành và vận hành của thị trường lao động trên phạm vi cả nước, cũng như ở Quảng Nam.

Nhà nước đã ban hành Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Bộ luật Lao động (1994), Luật Dạy nghề, Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm xã hội cùng với hàng trăm Nghị định, Thông tư liên quan đến lao động - việc làm. Trên cơ sở công nhận quyền tự do lựa chọn, tìm việc làm của người lao động và quyền lựa chọn người làm việc cho mình của người sử dụng lao động, Bộ luật Lao động đã công nhận quyền tự do trao đổi sức lao động trên thị trường lao động; tạo điều kiện thuận lợi cho sự dịch chuyển lao động; khuyến khích phát triển nguồn nhân lực, nhất là thông qua dạy nghề theo 3 cấp trình độ, đặc biệt cho nông dân, dân tộc thiểu số, xuất khẩu lao động; đồng thời, tạo điều kiện cho các chủ thể trong các thành phần kinh tế chủ động tham gia bình đẳng và tích cực vào hoạt động của thị trường lao động nhằm gắn kết cung - cầu lao động.

Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1999) đã khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng khá nhanh, số doanh nghiệp thành lập mới mỗi năm tăng gấp 4,5 lần so với thời kỳ 5 năm trước. Đến cuối năm 2010, có hơn 4.500 doanh nghiệp đã được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh với tổng vốn đăng ký trên 20.000 tỷ đồng. Luật Đầu tư nước ngoài (1996) đã thúc đẩy tăng đầu tư nước ngoài, góp phần thu hút lao động vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Sự phát triển của doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, tạo mở việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở địa phương.

b) Khuôn khổ thể chế riêng của Quảng Nam

Việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo khung pháp lý và chính sách thị trường lao động của Nhà nước, cùng với một nền kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao là điều kiện cơ bản để thị trường lao động ở Quảng Nam từng bước phát triển trong những năm qua. Đồng thời, nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội định hướng việc làm được thực hiện hiệu quả đã tác động tích cực đến sự hình thành và phát triển thị trường lao động ở tỉnh.

- Chính sách về việc làm: Chính sách việc làm là một trong những chính sách quan trọng nhất của thị trường lao động luôn được tỉnh quan tâm thực hiện. Liên tục trong nhiều năm, hoạt động cho vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm được xem là một trong những giải pháp tạo việc làm có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu của Chương trình mục tiêu về việc làm tỉnh Quảng Nam hàng năm và trong từng giai đoạn. Để tăng thêm nguồn vốn của chương trình, từ năm 2004 tỉnh Quảng Nam đã thành lập và hàng năm trích ngân sách tỉnh bổ sung nguồn vốn Quỹ hỗ trợ việc làm tỉnh. Đến nay, tổng nguồn vốn giải quyết việc làm tỉnh quản lý là trên 87 tỷ đồng đang được đầu tư cho vay để tạo việc làm cho trên 2.000 lao động mới mỗi năm, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, nông thôn.

Để góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thêm thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Chỉ thị chỉ đạo thực hiện công tác xuất khẩu lao động và UBND tỉnh đã ban hành “Đề án xuất khẩu lao động tỉnh Quảng Nam từ 2005 đến năm 2010”. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng công tác xuất khẩu lao động cũng đã thu được một số kết quả ban đầu đáng khích lệ, cùng với chương trình xuất khẩu lao động tại các huyện nghèo đã nâng tổng số lao động trong tỉnh đi xuất khẩu lao động giai đoạn 2006 - 2010 lên 1.663 người.

Đồng thời với việc tổ chức thực hiện Nghị định số 19/2005/NĐ-CP ngày 28/02/2005 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 71/2008/NĐ-CP ngày 05/06/2008), từ năm 2009, với nhiệm vụ mới là tổ chức Sàn Giao dịch việc làm và thẩm định giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh, Trung tâm Giới thiệu việc làm ngày càng được củng cố, đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.

Từ năm 2010, hoạt động thu thập thông tin về thực trạng lao động - việc làm trên địa bàn tỉnh được tiến hành hàng năm theo Phương án điều tra của tỉnh. Nguồn thông tin, số liệu có được qua điều tra sẽ là căn cứ quan trọng phục vụ việc hoạch định các chính sách về lao động - việc làm.

- Chính sách dạy nghề: Đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, tay nghề là một trong những chính sách trọng tâm cho phát triển thị trường lao động đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện. UBND tỉnh đã ban hành Quy hoạch hệ thống trường lớp, cơ sở dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1999 - 2010; Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề giai đoạn 2008 - 2015; Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Cơ chế hỗ trợ cho lao động bị mất đất sản xuất…

Trong nhiều năm qua, hệ thống cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển, mở rộng về quy mô và nâng cao về chất lượng nhằm tạo điều kiện thực hiện hiệu quả công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. Hiện nay, toàn tỉnh có 43 cơ sở dạy nghề, trong đó có 01 Trường Cao đẳng nghề, 05 Trường Trung cấp nghề, 05 Trường Cao đẳng có tham gia đào tạo nghề. Ngoài việc đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề (đào tạo nghề tại cơ sở đào tạo, tại doanh nghiệp, lưu động…), hoạt động đào tạo nghề đã có sự thay đổi tích cực: chuyển mạnh từ đào tạo theo năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề của người lao động và yêu cầu của thị trường lao động; gắn đào tạo nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, từng vùng, từng ngành, từng địa phương; chú trọng việc liên kết giữa các cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp theo hướng dạy lý thuyết nghề tại cơ sở đào tạo, thực hành nghề trên thiết bị và dây chuyền, công nghệ của doanh nghiệp và doanh nghiệp có cam kết sử dụng lao động sau khi tốt nghiệp các khóa học nghề. Từ năm 2001 đến nay, các cơ sở đào tạo nghề đã đào tạo nghề cho trên 200.000 lao động để cung ứng cho thị trường lao động trong, ngoài tỉnh và nước ngoài.

- Chính sách phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn: Phát triển ngành nghề phi nông nghiệp (nhất là ở nông thôn) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển thị trường lao động ở Quảng Nam. UBND tỉnh đã ban hành cơ chế khuyến khích phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư và quản lý cụm Công nghiệp trên địa bàn tỉnh, qua đó đã hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã, các làng nghề truyền thống, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thành các khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn. Có 19 làng nghề được UBND tỉnh công nhận đạt tiêu chuẩn làng nghề Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, 3 dự án làng nghề được chọn thí điểm xây dựng mô hình làng nghề gắn với phát triển du lịch (mộc Kim Bồng, ươm tơ dệt lụa Mã Châu, đúc đồng Phước Kiều). Các ngành nghề phi nông nghiệp đã tạo nhiều việc làm tại chỗ và thu hút khá nhiều lao động ở khu vực nông thôn của tỉnh.

* Đánh giá tổng quát về thể chế:

Thể chế chung của cả nước và riêng của Quảng Nam về thị trường lao động đến nay tương đối đồng bộ, luôn được hoàn thiện phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo hành lang pháp lý cho thị trường lao động Quảng Nam từng bước phát triển và hoạt động hiệu quả hơn. Khuôn khổ thể chế thị trường lao động về cơ bản đã hướng vào giải phóng sức sản xuất, sức lao động, tự do hóa lao động và phát huy nguồn lực con người, lực lượng lao động xã hội trên địa bàn tỉnh; tạo nhiều việc làm và giảm thất nghiệp cho lao động trong tỉnh; khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời tích cực xóa đói giảm nghèo. Việc xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án trên địa bàn tỉnh đã tạo cơ sở vững chắc và sức bật cho thị trường lao động Quảng Nam phát triển và hoạt động sôi động hơn trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, thể chế thị trường lao động khi áp dụng vào điều kiện cụ thể của Quảng Nam cũng còn những rào cản, bất cập. Nhận thức về phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề chưa đúng nên trong nhiều năm việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa đúng mức; chính sách, pháp luật về đào tạo, dạy nghề trên địa bàn tỉnh chưa thật gắn với sản xuất, với thị trường lao động và nhu cầu việc làm của người lao động. Đặc biệt, chính sách, luật pháp chưa tạo ra khung pháp lý đảm bảo thang giá trị của học nghề tương xứng với tầm quan trọng của nó trong xã hội. Các chính sách chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực của tỉnh cũng như của Trung ương cho đầu tư phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm; nhất là thiếu chính sách khuyến khích phát triển thị trường lao động (như chính sách tiền lương, tiền công thực sự theo nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chính sách đầu tư phát triển mạnh hệ thống giao dịch của thị trường lao động để kết nối cung-cầu lao động trên thị trường lao động cả nước và Quảng Nam). Chưa quy định pháp lý để gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là phát triển các ngành kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với quy hoạch, kế hoạch đào tạo, dạy nghề, sử dụng lao động tại chỗ...

2. Đánh giá thực trạng cung lao động:

Quảng Nam là tỉnh có nguồn lao động rất dồi dào và có xu hướng tăng, có ưu thế về lao động trẻ và chất lượng lao động dần được nâng cao.

a) Cung về số lượng

- Tại thời điểm ngày 01/4/2009, tổng dân số tỉnh Quảng Nam là 1.423,5 nghìn người (trong đó nữ chiếm 51,14%); khu vực thành thị có 264 nghìn người (chiếm 18,55%); khu vực nông thôn có 1.159,6 nghìn người (chiếm 81,46%). Dân số phân bố không đồng đều tại các địa phương trên địa bàn tỉnh; các huyện có dân số đông là Điện Bàn: 197.987 người, Thăng Bình: 176.320 người; Đại Lộc: 146.010 người, Núi Thành: 137.632 người; dân số của 2 thành phố thuộc tỉnh ở mức trung bình (Tam Kỳ: 109.908 người, Hội An: 89.810 người); dân số các huyện miền núi khá thấp. Năm 2009, dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế (lực lượng lao động) của tỉnh Quảng Nam là 830.741 người (trong đó, nữ chiếm 50,04% và thành thị chiếm 17,58%). Tỷ lệ phụ thuộc của tỉnh Quảng Nam không lớn, nhưng giảm khá chậm (từ 86,31% năm 2005 giảm còn 73,76% năm 2010).

- Năm 2010, dân số Quảng Nam là 1.429,3 nghìn người và dân số từ 15 tuổi trở lên là 1.062,9 nghìn người, chiếm 74,37% tổng dân số. Năm 2010, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Quảng Nam có 846.895 người, chiếm 59,4% so với dân số cả tỉnh (trong đó, nữ chiếm tỷ lệ 50,22%) và 79,68% so với dân số từ 15 tuổi trở lên; trong đó, nông thôn chiếm 82,13% và thành thị là 17,87%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động so với dân số từ 15 tuổi trở lên của nữ là 76,51% và của nam là 83,14%. Trong giai đoạn 2005 - 2010, bình quân lực lượng lao động tăng 2,14%, từ 761.850 người vào năm 2005 tăng lên 846.895 người vào năm 2010; tỷ lệ tăng lực lượng lao động tương ứng qua các năm như sau: 1,57% (2006); 1,99% (2007); 2,97% (2008); 2,2% (2009); 1,94% (2010); bình quân mỗi năm lực lượng lao động của tỉnh tăng thêm 17.000 người. Lực lượng lao động tại thành thị có tỷ lệ tăng nhanh hơn lực lượng lao động tại nông thôn (giai đoạn 2001 - 2010, tăng bình quân 3,73% đối với khu vực thành thị và 1,58% đối với khu vực nông thôn) và lực lượng lao động nam tăng nhanh hơn lực lượng lao động nữ (giai đoạn 2005 - 2010, tăng bình quân 2,69% đối với nam và 1,61% đối với nữ).

b) Cung về chất lượng lao động

- Trình độ học vấn của lực lượng lao động trong tỉnh đã được nâng dần lên.

Năm 2009, số lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 25,11% (giảm 1,8% so với năm 2005); năm 2010 còn 24,98%. Số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học đang có xu hướng tăng, đến nay chiếm 1/4 lực lượng lao động; tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông tăng từ 18,62% (năm 2005) lên 23,75% (năm 2009) và ước tính năm 2010 đạt 23,82%. Số lượng học sinh dự thi trung học phổ thông năm học 2008 - 2009 là 22.937 em với tỷ lệ đỗ tốt nghiệp là 78,46% (trong đó nữ 84,84%).

- Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động từng bước được cải thiện. Nếu năm 2005 lực lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ 74,04% thì đến năm 2010 tỷ lệ này giảm còn ở mức gần 60%. Lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng/đại học tăng 1,6% (từ 8,05% năm 2005 lên 9,65% vào năm 2010).

c) Cung về cơ cấu lao động

Nhóm lao động trong độ tuổi trẻ chiếm tỷ lệ cao là một ưu thế và tiềm năng lớn của tỉnh. Năm 2010, số người trong độ tuổi 15 - 34 chiếm 40,69%; trong độ tuổi 35 - 44 chiếm 26,11%. Lực lượng lao động tập trung ở khu vực nông thôn còn lớn, tuy đang có xu hướng giảm dần nhưng khá chậm (từ 83,55% vào năm 2005 giảm còn 82,13% vào năm 2010, trong 5 năm giảm được 1,42%).

d) Tồn tại

Nhìn chung, nguồn cung lao động tỉnh Quảng Nam vẫn mang đặc thù của một nền kinh tế nông nghiệp với chất lượng thấp. Cung lao động cho thị trường lao động chủ yếu là từ nông thôn và nông nghiệp, phần lớn chưa qua đào tạo, do đó khả năng cạnh tranh không cao, nhất là ở thị trường yêu cầu lao động có trình độ cao như các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở và thị trường lao động nước ngoài có thu nhập cao, cụ thể:

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (40% ); lao động nông thôn phần lớn chưa qua đào tạo (78,73%); trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ thấp hơn so với lao động nam, năm 2010, tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên thấp hơn 4,06% so với lao động nam (28,78% so với 32,84%).

- Tình trạng thể lực của lao động nhìn chung vẫn ở mức trung bình kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai; một bộ phận chưa đáp ứng được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quy định.

- Văn hóa nghề nghiệp, nhất là kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp của người lao động cơ bản còn yếu do ảnh hưởng của một nền kinh tế thuần nông trong nhiều năm.

- Do nguồn cung lao động chủ yếu từ khu vực nông thôn đã tạo nên sức ép về việc làm rất lớn và là vấn đề xã hội bức xúc nhất hiện nay của tỉnh, nhất là đối với thanh niên đến tuổi lao động.

3. Đánh giá thực trạng cầu lao động:

Tổng cầu lao động toàn tỉnh luôn tăng và đang chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo nhiều việc làm mới cho người lao động, thất nghiệp có xu hướng giảm.

a) Cầu lao động trong tỉnh

- Tổng lao động có việc làm có xu hướng tăng do kinh tế không ngừng phát triển. Năm 2005 là 745.468 người, đến năm 2010 là 818.952 người, tăng 73.484 người, bình quân mỗi năm tăng 14.697 người; tốc độ tăng trưởng việc làm bình quân giai đoạn 2005 - 2010 là 1,9%. Trong đó, tốc độ tăng trưởng việc làm của ngành xây dựng là 12,48%, ngành thương mại, dịch vụ: 5,19%; ngược lại trong ngành nông, lâm, thủy sản lại giảm 1,42%. Trong giai đoạn từ 2006 - 2010, toàn tỉnh có 180.020 chỗ làm việc mới (bình quân mỗi năm có 36.000 lao động được giải quyết việc làm).

- Chuyển dịch cơ cấu cầu lao động theo ngành kinh tế có xu hướng tích cực. Tỷ lệ lao động có việc làm trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh (từ 11,79% và 18,29% năm 2005 tăng lên 19,32% và 21,44% năm 2010); tỷ lệ lao động trong ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 10,68% (từ 69,92% năm 2005 giảm còn 59,24% năm 2010).

- Lao động làm công ăn lương có xu hướng tăng. Năm 2005, lao động làm công ăn lương của tỉnh là 160.515 người, chiếm 21,07% tổng lực lượng lao động và 21,53% tổng lực lượng lao động có việc làm, đến năm 2010 tăng lên 255.692 người, chiếm 30,19% tổng lực lượng lao động, tăng 9,12% và 31,22% tổng lực lượng lao động có việc làm.

Hiện nay, khu vực sản xuất - kinh doanh (doanh nghiệp) của tỉnh đang thu hút khoảng 105.000 lao động vào làm việc, chiếm 12,82% lực lượng lao động đang có việc làm, trong đó 80.000 lao động làm việc trong các doanh nghiệp và 25.000 lao động làm việc trong các hợp tác xã hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tập trung ở các huyện đồng bằng, tại các khu công nghiệp, Khu Kinh tế mở Chu Lai ở các ngành nghề: giày da, may mặc, chế biến thủy hải sản, chế biến lâm sản, lắp ráp ô tô và sản xuất vật liệu xây dựng, xây dựng công trình. Tính đến nay, khu vực hành chính, sự nghiệp công lập có 29.196 người (3.845 cán bộ, công chức và 25.351 viên chức), chiếm 11,42% tổng lao động làm công ăn lương.

b) Dịch chuyển lao động và xuất khẩu lao động

Trong những năm qua, lao động trong tỉnh có xu hướng được thu hút vào làm việc tại các tỉnh thuộc khu vực phía Nam và Tây Nguyên (hiện nay, ước tính cả tỉnh có trên 40.000 lao động ly hương).

Lao động Quảng Nam sang làm việc ở các nước chưa nhiều, tập trung tại thị trường Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản. Hầu hết lao động Quảng Nam đi làm việc ở nước ngoài là lao động phổ thông hoặc có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp. Tỉnh Quảng Nam đang thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài, tính đến năm 2010, có 229 lao động nước ngoài đã được cấp giấp phép vào làm việc trên địa bàn tỉnh.

c) Tình trạng thất nghiệp

Qua Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, toàn tỉnh có 27.585 người thất nghiệp, chiếm 3,32% tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, cao hơn năm 2005 (2,15%), do nền kinh tế trong tình trạng suy thoái; trong đó khu vực thành thị có 7.498 người (chiếm 27,15%) với tỷ lệ thất nghiệp là 5,13% (năm 2005 là 5,12%), lao động nữ thất nghiệp là 13.434 người (chiếm 48,7% tổng số thất nghiệp) với tỷ lệ thất nghiệp là 3,2%.

d) Tồn tại

- Tổng cầu lao động ở Quảng Nam vẫn chưa tạo đủ việc làm cho người lao động trong tỉnh. Giai đoạn 2005 - 2010, tăng trưởng việc làm bình quân chỉ đạt 1,9%, thấp hơn tốc độ tăng lực lượng lao động (2,14%). Trong đó, cầu lao động trong nông nghiệp giảm bình quân 1,42%, nhưng lực lượng lao động trong nông thôn vẫn tăng 1,79%.

- Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2010, số lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp là 485.158 người (chiếm tỷ lệ 59,24%), trong khi giá trị nông nghiệp trong GDP năm 2010 chỉ chiếm 21,2% (giá trị công nghiệp - xây dựng chiếm 39,8%, dịch vụ chiếm 39,05%). Điều này đồng nghĩa với lao động bị dồn nén trong nông nghiệp với năng suất và hiệu quả việc làm ở khu vực này rất thấp, kéo theo là tình trạng người lao động có thu nhập cũng rất thấp. Mâu thuẫn giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, dẫn đến lao động dư thừa rất lớn và thiếu việc làm nghiêm trọng trong nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.

- Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ còn cao. Năm 2010, trong hơn 27,5 nghìn lao động thất nghiệp thì độ tuổi lao động trẻ (15 - 34) mặc dù đã giảm dần nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (từ 82,76% vào năm 2005 giảm còn 66,59% vào năm 2010). Nguyên nhân chủ yếu là do nhóm tuổi 15 - 24 (chiếm tỷ lệ 44,33% trong tổng số người thất nghiệp) là người mới ra trường và bắt đầu xin việc, chưa chọn cho mình một công việc ổn định.

4. Đánh giá khái quát quan hệ lao động và thực trạng tiền lương, tiền công (giá cả lao động):

a) Sự biến động tiền lương, thu nhập của người lao động trên thị trường lao động ở tỉnh

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế địa phương, đời sống của người lao động trong tỉnh ngày càng được cải thiện, tiền lương và thu nhập bình quân của người lao động ngày càng tăng. Tiền lương tối thiểu thực tế các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh áp dụng cao hơn so với mức lương tối thiểu vùng Chính phủ quy định. Tiền lương trong doanh nghiệp có vốn nhà nước cao gấp 1,5 đến 2 lần so với mức lương tối thiểu; 20% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiền lương cao hơn 6% so với mức lương tối thiểu; khoảng 15% doanh nghiệp dân doanh có tiền lương cao hơn từ 20% đến 23% so với mức lương tối thiểu. Trong khu vực nhà nước, năm 2005 có mức lương bình quân là 945.000 đồng/người/tháng, đến năm 2010 đã tăng lên 2.500.000 đồng/người/tháng (tăng 2,64 lần); thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng tương ứng từ 1.100.000 đồng/người/tháng lên 3.750.000 đồng/người/tháng. Trong khu vực FDI, mức lương bình quân tăng từ 700.000 đồng/người/tháng (năm 2005) lên 2.040.000 đồng/người/tháng vào năm 2010 (tăng 2,91 lần); thu nhập bình quân của người lao động đã tăng từ 900.000 đồng/người/tháng (năm 2005) lên 3.060.000 đồng/người/tháng (năm 2010). Trong khu vực dân doanh, mức lương bình quân năm 2005 là 630.000 đồng/người/tháng, đến năm 2010 đã tăng lên 2.000.000 đồng/người/tháng (tăng 3,17 lần); thu nhập bình quân của người lao động tăng từ 810.000 đồng/người/tháng lên 2.200.000 đồng/người/tháng.

b) Quan hệ lao động và tranh chấp lao động về tiền lương, tiền công

Trong tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có 80% thực hiện ký kết hợp đồng lao động với người lao động. Khoảng 60% tổng số lao động đang làm việc trong doanh nghiệp (trên 60.000 lao động) được ký kết hợp đồng lao động theo quy định. Chỉ có khoảng 20% trong tổng số các doanh nghiệp thực hiện ký kết và đăng ký thỏa ước lao động tập thể và 30% doanh nghiệp đăng ký Nội quy lao động với cơ quan quản lý lao động. Cả tỉnh mới có 133 tổ chức Công đoàn cơ sở (chiếm 10% doanh nghiệp phải thành lập tổ chức công đoàn). Chính vì vậy, hầu như chỉ có doanh nghiệp nhà nước (nay đã chuyển đổi hoạt động theo Luật doanh nghiệp) xây dựng cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp; đa số các doanh nghiệp còn lại chưa xây dựng và đăng ký thang, bảng lương theo đúng quy định.

Trong giai đoạn 2006 - 2010, tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 24 vụ đình công. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xảy ra 14 vụ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh xảy ra 10 vụ. Tranh chấp lao động xảy ra chủ yếu là do doanh nghiệp không xây dựng hoặc thiếu công khai minh bạch trong thực hiện Thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, thang bảng lương, quy chế trả lương; trả lương không đúng thời gian đã ký trong hợp đồng lao động, lương còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu mức sống tối thiểu của công nhân; trang bị bảo hộ lao động cho người lao động không đầy đủ theo hợp đồng lao động đã ký với người lao động; một số doanh nghiệp bị động trong kế hoạch sản xuất gây sức ép tâm lý cho người lao động (lúc thì không có việc làm nhưng có khi lại tăng ca không hợp lý ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động).

c) Tồn tại

- Tiền lương trả cho người lao động tuy liên tục tăng, nhưng mặt bằng tiền lương trên địa bàn tỉnh còn thấp so với khu vực miền Trung và cả nước (bình quân khoảng 10% - 15%) nên thiếu tính cạnh tranh về tiền lương trên thị trường lao động, khó thu hút lao động kỹ thuật trình độ cao. Những năm gần đây, do tác động của lạm phát, chỉ số CPI tăng cao nên tiền lương thực tế giảm, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, nhất là người lao động có thu nhập thấp.

- Trên thị trường lao động chưa hình thành đúng thực chất cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động, nhất là về tiền lương, theo đúng nguyên tắc thị trường.

- Phần lớn các cuộc đình công diễn ra không đúng trình tự pháp luật nên thủ tục hoà giải và giải quyết của Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, Tổ công tác liên ngành về giải quyết đình công vẫn còn khó khăn.

5. Đánh giá vai trò của chính quyền đối với phát triển thị trường lao động ở Quảng Nam:

a) Về thể chế hoá chủ trương của Đảng và Nhà nước

Ngay từ khi tái lập tỉnh (năm 1997), việc tăng cường hướng dẫn thực hiện Pháp luật lao động trên địa bàn tỉnh đã được coi trọng. Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2012 phấn đấu 95% người sử dụng lao động và 75% người lao động trên địa bàn tỉnh được tuyên truyền pháp luật lao động và các quy định pháp luật khác liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.

Cùng với tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp, các ngành chức năng có liên quan của tỉnh bằng nhiều hình thức đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động, nhất là liên quan đến các nội dung quan trọng của quan hệ lao động trong thị trường lao động, qua đó bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, quyền và các lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa và ổn định.

Bên cạnh pháp luật lao động, việc chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả các Luật hoặc văn bản pháp quy khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật dân sự, Luật Đất đai... đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tiềm năng lao động xã hội, trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và vận hành thị trường lao động ở tỉnh Quảng Nam trong những năm gần đây.

b) Vai trò điều tiết thị trường lao động

Tỉnh Quảng Nam đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp quan trọng nhằm cân đối cung - cầu lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, thiếu lao động trình độ cao. Song song với các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh nhằm tạo mở việc làm, UBND tỉnh đã thể chế hoá và cụ thể hóa các cơ chế, chính sách về thực hiện quan hệ lao động trên thị trường lao động; tạo môi trường và điều kiện cho thị trường lao động phát triển thông qua việc thực hiện các giải pháp phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường (cung, cầu, giá cả sức lao động...); hình thành hệ thống giao dịch kết nối cung - cầu lao động; chỉ đạo triển khai hiệu quả công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Hệ thống cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh và Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh ngày càng được quan tâm đầu tư phát triển đã tăng cường chất lượng dạy nghề, quy mô tuyển sinh đào tạo nghề (quy mô tuyển sinh năm 2010 tăng hơn 3% so với năm 2005) và nâng cao năng lực công tác tư vấn, giới thiệu việc làm.

c) Vai trò tổ chức và là "bà đỡ" thị trường lao động

Thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TU ngày 30/4/2003 của Tỉnh uỷ Quảng Nam về phát triển tỉnh Quảng Nam thành tỉnh Công nghiệp, Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 04/5/2009 của Tỉnh uỷ Quảng Nam về xây dựng và cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư và quản lý cụm Công nghiệp trên địa bàn tỉnh và phê duyệt Đề án phát triển Quảng Nam thành tỉnh Công nghiệp theo hướng tăng mạnh sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Cơ chế khuyến công, chủ trương phát triển cụm Công nghiệp, làng nghề, làng nghề truyền thống (nhất là định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng mạnh công nghiệp, dịch vụ) là những tiền đề thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển mạnh cầu lao động trên thị trường lao động Quảng Nam.

Việc đầu tư phát triển các Khu Công nghiệp, cụm Công nghiệp cùng với môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện đã thu hút thêm các nhà đầu tư trong và ngoài nước, làm phong phú sản phẩm, tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 8 Khu Công nghiệp, tổng diện tích quy hoạch các Khu Công nghiệp là 4.032 ha; tổng cộng có 108 dự án đầu tư (gồm 30 dự án đầu tư nước ngoài và 78 dự án đầu tư trong nước) với tổng số vốn đăng ký là 2.192 tỷ đồng và 1.313 triệu USD, số lao động sử dụng khoảng 25.759 người. Khu Kinh tế mở Chu Lai có 64 dự án đăng ký đầu tư đã được cấp phép với tổng số vốn đăng ký gần 1,5 tỷ USD; trong đó, có 38 dự án đang triển khai hoạt động với tổng vốn gần 500 triệu USD, giải quyết việc làm cho khoảng 10.000 lao động. Mạng lưới 114 cụm công nghiệp, tổng diện tích 2.364 ha đang được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch; triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng cho 37 cụm Công nghiệp với diện tích 383 ha, tổng vốn đầu tư thực hiện khoảng 359 tỷ đồng; có trên 130 dự án đầu tư vào cụm Công nghiệp với vốn đăng ký hơn 3.000 tỷ đồng và tạo ra 18.000 chỗ làm việc cho người lao động.

Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 29/4/2008 của HĐND tỉnh về Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Nam đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 đã định hướng phát triển du lịch với mục tiêu khai thác lợi thế của tỉnh và từng vùng đảm bảo phát triển nhanh, bền vững, góp phần tích cực đẩy nhanh ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là sau khi có Luật Hợp tác xã (năm 2003), Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ phát triển Hợp tác xã, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 113/2008/NQ-HĐND ngày 30/7/2008 về Đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã đến năm 2015; UBND tỉnh cũng ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển Hợp tác xã. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các Hợp tác xã (cả tỉnh hiện có 270 hợp tác xã) với hàng chục vạn lao động làm việc trong các ngành, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, vận tải, tín dụng... đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, tạo nhiều việc làm, đẩy nhanh công cuộc xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Sự nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành của các cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Nam đã góp phần tạo nên những thành quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy thị trường lao động ở tỉnh phát triển.

d) Tồn tại

- Tuy vai trò của chính quyền đối với phát triển thị trường lao động ở địa phương ngày càng quan trọng nhưng chưa tạo được bước đột phá về cơ chế, chính sách và đầu tư lớn cho phát triển mạnh thị trường lao động. Thị trường lao động ở tỉnh vẫn còn trong tình trạng chậm phát triển và mất cân đối, đặc biệt thiếu lao động kỹ thuật có trình độ cao. Ngành nghề thiếu lao động kỹ thuật chủ yếu hiện nay thể hiện qua Sàn giao dịch việc làm tỉnh là cơ khí chế tạo, động lực, điện dân dụng và công nghiệp, may mặc. Năm 2010, tại Sàn giao dịch việc làm tỉnh: chỉ có 30,6% nhu cầu tuyển lao động có nghề điện dân dụng công nghiệp và gần 9% nhu cầu về lao động có nghề cơ khí chế tạo động lực của doanh nghiệp được đáp ứng; nghề May công nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động cao nhất nhưng qua Sàn giao dịch việc làm chỉ đáp ứng chưa đến 4% nhu cầu này.

- Phát triển thị trường lao động Quảng Nam có quan hệ hữu cơ với phát triển nền kinh tế thị trường trên địa bàn. Tuy nhiên, kết quả của những chính sách và giải pháp của tỉnh về phát triển kinh tế thị trường trên địa bàn còn hạn chế. Nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chất lượng tăng trưởng chưa cao, sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững. Sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh và tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu.

- Môi trường đầu tư đã được cải thiện nhưng thu hút đầu tư chưa mạnh, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế; chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh tuy ở mức tốt nhưng giảm dần qua các năm. Tỉnh chưa chú trọng đúng mức đến phát triển nguồn nhân lực và gắn nó với phát triển công nghiệp, đặc biệt công nghiệp hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao; chưa giải quyết tốt việc gắn kết giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với chuyển dịch cơ cấu lao động.

6. Đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống giao dịch kết nối cung - cầu lao động trên thị trường lao động

a) Tổ chức giới thiệu việc làm

Hiện nay trên địa bàn tỉnh ngoài Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội còn có một số Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm của các Hội, đoàn thể. Các đơn vị này ngoài việc dạy nghề còn tư vấn, giới thiệu việc làm trong phạm vi các lớp do đơn vị đào tạo. Từ năm 2006 đến 2010, Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh đã tư vấn cho 45.853 người, đã giới thiệu cho 9.073 lao động đến làm việc tại các đơn vị, doanh nghiệp (chiếm 54,5% so với người đăng ký); 92,2% số lao động được giới thiệu đã được tiếp nhận vào làm việc. Qua nhiều hình thức đã có 493 doanh nghiệp, tổ chức được Trung tâm khai thác thông tin thị trường lao động, chủ yếu là thông tin về nhu cầu tuyển dụng, tiền công, tiền lương...

b) Giao dịch việc làm thông qua hoạt động Hội chợ và Sàn giao dịch việc làm

Sau các hoạt động Hội chợ việc làm tỉnh (năm 2004), Phiên chợ việc làm tỉnh (năm 2007), từ năm 2008, hệ thống Sàn giao dịch việc làm và Website “người tìm việc - việc tìm người” đã được hình thành ở tỉnh. Sàn giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam đã tổ chức 27 Phiên giao dịch việc làm tại Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh và lưu động tại các huyện, thành phố, thông qua đó góp phần nâng cao nhận thức của người lao động trên địa bàn tỉnh về tìm việc làm, tìm kiếm thông tin cung - cầu lao động qua Sàn giao dịch việc làm. Đã có 491 lượt doanh nghiệp tham gia tuyển dụng lao động với nhu cầu tuyển 71.329 lao động; có 16.205 lượt người tham gia Sàn với 4.826 lao động đăng ký tìm việc trực tiếp tại Sàn giao dịch, có trên 155.486 lượt người truy cập vào Website: http://www.vieclamquangnam.vn để tìm kiếm thông tin về lao động - việc làm.

c) Giao dịch việc làm thông qua hoạt động tuyển dụng trực tiếp

Cho đến nay, giao dịch trên thị trường lao động ở tỉnh chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Phần lớn các đơn vị, doanh nghiệp tuyển dụng lao động theo phương thức này do hầu hết các Khu Công nghiệp, Cụm công nghiệp của tỉnh đều nằm trong các khu dân cư đông đúc, có lực lượng lao động tại chỗ dồi dào nên người lao động trực tiếp đến tìm việc.

Hình thức tuyển chọn và thi tuyển được áp dụng nhiều trong các cơ quan hành chính sự nghiệp. Giai đoạn 2006 - 2011, cả tỉnh có 2.992 công chức - viên chức được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Trong đó, cán bộ có trình độ Đại học và sau Đại học chiếm tỷ lệ 61%, trình độ Cao đẳng chiếm tỷ lệ 20%, trình độ Trung cấp chiếm tỷ lệ 19%.

d) Tồn tại

- Hệ thống giao dịch việc làm, thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động… chưa phát triển mạnh và việc tổ chức hệ thống này chưa phù hợp với cơ chế thị trường nên năng lực kết nối cung - cầu lao động trên thị trường rất hạn chế.

- Chất lượng cung cấp dịch vụ của các tổ chức giới thiệu việc làm ở tỉnh chưa đủ thu hút các doanh nghiệp đến với các phương thức giao dịch gián tiếp. Hoạt động của Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh còn hạn chế về khả năng tư vấn, giới thiệu việc làm và thu thập thông tin về cung - cầu trên thị trường.

- Chưa có sự phối hợp, kết nối hoạt động giữa Trung tâm, cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp trong tổ chức Sàn giao dịch việc làm. Số lượng lao động tham gia Sàn giao dịch việc làm cũng như số lao động được các doanh nghiệp tuyển dụng qua Sàn giao dịch việc làm còn hạn chế.

III. Đánh giá chung về phát triển thị trường lao động ở Quảng Nam hiện nay:

1. Đánh giá chung

a) Giai đoạn 2006 - 2010, kinh tế - xã hội Quảng Nam đạt được những thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung của cả nước và ổn định; có nhiều cơ chế, chính sách mới nhằm huy động tiềm năng và thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển, tạo nhiều việc làm; thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được hoàn thiện tác động tích cực thúc đẩy thị trường lao động phát triển. Mặc dù vậy, nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chất lượng tăng trưởng chưa bền vững; cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để sức sản xuất và sức lao động, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập... là những rào cản hạn chế thị trường lao động phát triển.

b) Nhìn tổng thể thị trường lao động Quảng Nam những năm gần đây phát triển theo hướng tích cực, gắn kết tốt hơn cung - cầu lao động. Song thị trường lao động phát triển còn chậm và ở trình độ thấp so với khu vực miền Trung và cả nước; gắn kết giữa thị trường lao động Quảng Nam với thị trường lao động khu vực miền Trung và cả nước còn hạn chế. Thị trường lao động phát triển không đồng đều giữa các vùng; thị trường lao động ở thành phố Tam Kỳ, Hội An, các huyện Điện Bàn, Núi Thành, Khu kinh tế mở Chu Lai... phát triển mạnh, cung và cầu luôn diễn ra sôi động, cầu lao động không chỉ trong địa phương mà còn thu hút lao động từ các địa phương khác đến. Các huyện miền núi, khu vực nông thôn, khu vực phi kết cấu do môi trường thu hút đầu tư vốn khó khăn, số lượng doanh nghiệp phát triển chậm nên thị trường lao động còn chậm phát triển, chủ yếu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp theo kinh tế tự cung, tự cấp.

c) Lực lượng lao động Quảng Nam khá dồi dào, có khả năng cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong tỉnh, khu vực miền Trung và cả nước. Ưu thế và tiềm năng nổi bật về cung lao động của tỉnh hiện nay là lực lượng lao động trẻ (15 - 34 tuổi) chiếm tỷ trọng lớn (40,6%). Tuy nhiên, chất lượng cung lao động còn thấp, lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ lớn (gần 60%). Cung lao động cho thị trường chủ yếu là từ lao động nông thôn phần lớn chưa qua đào tạo nghề.

d) Về cầu lao động, xu hướng chung là cầu lao động ngày càng tăng về số lượng cũng như chất lượng (nhất là lao động kỹ thuật trình độ cao), trong đó cầu lao động theo quan hệ làm công ăn lương tăng dần, đến nay chiếm khoảng trên 30% lực lượng lao động. Cầu lao động đa dạng hơn, cơ cấu chất lượng đòi hỏi khắt khe hơn để đáp ứng kỹ thuật, công nghệ mới, mặt hàng, chất lượng hàng hoá cạnh tranh được trên thị trường trong tỉnh, khu vực miền Trung và cả nước. Cầu lao động trong nông nghiệp giảm dần, ngược lại tăng mạnh trong công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ. Song về cơ bản, thị trường lao động Quảng Nam vẫn là thị trường lao động mất cân đối, thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Giai đoạn 2005 - 2010, tăng trưởng việc làm còn thấp (1,9%/năm) và thấp hơn tốc độ tăng lực lượng lao động (2,14%/năm), việc làm vẫn là vấn đề xã hội bức xúc đặt ra trong các năm tới.

Dịch chuyển lao động có xu hướng tăng, nhưng tự do hoá lao động còn hạn chế, làm cho tính linh hoạt của thị trường lao động chưa cao. Đặc biệt là sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm và có khoảng cách rất xa so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm trong nông nghiệp, nông thôn.

đ) Tiền lương, tiền công trên thị trường đã được hình thành và có xu hướng tăng. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương cũng tăng và hình thành quan hệ lao động mới. Tuy nhiên, chưa định hình thành hệ thống tiền công lao động ứng với các ngành, nghề có tính cạnh tranh. Cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động (nhất là về tiền lương) còn hạn chế và mang tính hình thức; tranh chấp lao động và đình công tự phát có xu hướng tăng.

e) Vai trò của các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam được tăng cường đã có tác động lớn, tích cực đến sự hình thành và phát triển của thị trường lao động trên địa bàn tỉnh, nhưng chưa tạo được bước đột phá về cơ chế, chính sách và đầu tư lớn cho phát triển thị trường lao động.

2. Nguyên nhân:

a) Nguyên nhân thành công

- Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhận thức và tư duy về kinh tế thị trường nói chung, về thị trường lao động nói riêng từng bước được đổi mới và ngày càng rõ hơn đã tạo sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhằm phát triển thị trường lao động đồng bộ với các loại thị trường khác ở Quảng Nam.

- Ở tầm vĩ mô, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển thị trường lao động đã được thể chế hoá bằng hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho thị trường lao động trên phạm vi cả nước cũng như ở Quảng Nam hình thành, phát triển và hoạt động ngày càng sôi động, có hiệu quả hơn.

- Về chỉ đạo, đã xác định rõ vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong thể chế hoá và cụ thể hóa cơ chế, chính sách về thị trường lao động; trong tổ chức thị trường lao động trên từng địa bàn; trong tăng cường kiểm tra, giám sát và đẩy mạnh cải cách hành chính (tăng cường phân cấp, giảm các thủ tục hành chính, bãi bỏ việc cấp giấy phép không cần thiết...).

- Nhận thức của mọi người dân, các chủ thể kinh tế trong tỉnh đã có sự thay đổi cơ bản, nhất là quan niệm mới về làm giàu, về việc làm, xoá bỏ bao cấp... Từ đó có sự năng động, sáng tạo, tự chủ trong phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, tìm việc làm, tham gia tích cực vào thị trường lao động.

b) Nguyên nhân của tồn tại

- Thể chế kinh tế thị trường nói chung, thị trường lao động nói riêng ở Quảng Nam đã hình thành nhưng còn mới và chưa có nhiều trải nghiệm, lại thiếu tổng kết thực tiễn phát triển thị trường lao động trên địa bàn tỉnh để bổ sung, hoàn thiện; cơ chế, chính sách chung khá đồng bộ, nhưng khi áp dụng vào điều kiện đặc thù của Quảng Nam có những quy định chưa cụ thể và phù hợp.

- Là địa phương có nền kinh tế truyền thống nông nghiệp là chủ yếu, nay chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để phát triển mạnh thị trường lao động sẽ phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức do khách quan và phải có thời gian; nhất là trong tình trạng chất lượng lao động còn thấp, cung - cầu lao động luôn mất cân đối nghiêm trọng (cung lớn hơn cầu); nền kinh tế công nghiệp chưa phát triển đủ lớn, số doanh nghiệp trên dân số còn thấp nên khả năng thuê lao động hạn chế; do khó khăn về điều kiện địa lý, tự nhiên nên thiên tai thường xuyên xảy ra...

- Năng lực quản lý nhà nước về thị trường lao động của chính quyền địa phương và các Sở, Ban ngành còn nhiều bất cập, vai trò điều tiết quan hệ cung - cầu lao động của Nhà nước còn hạn chế; công tác thanh tra, kiểm soát, giám sát thị trường lao động chưa chặt chẽ...

Phần thứ hai

CHỦ TRƯƠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2020

I. Bối cảnh kinh tế - xã hội, xu hướng của thị trường lao động và dự báo cung - cầu lao động Quảng nam giai đoạn 2011 - 2020

1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Quảng Nam đến năm 2020 liên quan đến phát triển thị trường lao động:

Những thành tựu đạt được trong thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 tạo cho Quảng Nam một thế và lực mới, lớn mạnh hơn so với trước đây. Bước vào giai đoạn 2011 - 2020, phát triển thị trường lao động Quảng Nam diễn ra trong bối cảnh mới gắn liền với nhiệm vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 - 2020) và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015); mối gắn kết và vai trò tích cực của thị trường lao động Quảng Nam với thị trường lao động khu vực miền Trung và cả nước ngày càng chặt chẽ và mạnh mẽ hơn.

Trong giai đoạn này, phân bổ nguồn lực sẽ hướng ưu tiên đầu tư cho tăng trưởng kinh tế bền vững, khuyến khích đầu tư của xã hội vào vùng kinh tế trọng điểm. Nhà nước tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất thiết yếu, then chốt, đóng vai trò chủ đạo và hỗ trợ đầu tư vào các vùng kém phát triển. Đặc biệt, tăng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân nhằm xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững; xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; quan tâm đến các vùng, đối tượng còn nhiều khó khăn. Tăng đầu tư cho phát triển xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề, việc làm, giảm nghèo...

Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015:

- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GDP) bình quân trên 13,5%.

- Năm 2015, GDP (theo giá thực tế) bình quân đầu người đạt trên 35 triệu đồng (gấp 2 lần năm 2010).

- Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP: Công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP chiếm trên 88%; nông lâm ngư nghiệp chiếm dưới 12%.

- Vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân hàng năm 14%.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện, đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội theo nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội, nhất là phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững...

Tuy nhiên, trong giai đoạn tới Quảng Nam cũng gặp những khó khăn, thách thức. Quy mô GDP của tỉnh, GDP bình quân đầu người còn thấp. Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng vẫn tồn tại một thời gian dài. Vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số kinh tế còn kém phát triển, trong khi đối tượng chính sách xã hội và người nghèo có xu hướng tăng lại tập trung ở các vùng này. Biến đổi khí hậu toàn cầu (nhất là xu hướng ấm lên của khí hậu toàn cầu) sẽ dẫn đến gia tăng tần suất và mật độ của các hiện tượng thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, bão, sóng thần... kéo theo các thảm họa đối với con người, sản xuất nông nghiệp... mà Quảng Nam sẽ là một trong các tỉnh khu vực miền Trung bị ảnh hưởng nặng nề.

Bối cảnh chung với những thuận lợi và khó khăn, thách thức nêu trên sẽ tác động không nhỏ (cả tích cực lẫn tiêu cực) đến phát triển thị trường lao động Quảng Nam, song tác động tích cực vẫn là chủ yếu.

2. Những xu hướng phát triển chính của thị trường lao động Quảng Nam đến năm 2020:

Giai đoạn 2011 - 2020, Quảng Nam có nhiều yếu tố tạo đà mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ tác động mạnh đến phát triển thị trường lao động. Xu hướng chính của thị trường lao động Quảng Nam đến năm 2020 là:

Thứ nhất, thị trường lao động ở Quảng Nam vẫn là một thị trường phát triển ở trình độ thấp so với khu vực miền Trung và cả nước, nhưng do nền kinh tế thị trường Quảng Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, nên tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường lao động phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên, việc làm cho lao động xã hội nói chung vẫn là vấn đề rất bức xúc, cung vẫn lớn hơn cầu lao động. Đặc biệt, trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hoá diễn ra nhanh chóng nếu cơ cấu lao động nông thôn không chuyển dịch theo kịp cơ cấu kinh tế, lao động làm công ăn lương không tăng nhanh sẽ có nguy cơ tăng thất nghiệp (không chỉ ở thành thị mà còn cả ở khu vực nông thôn).

Thứ hai, thị trường lao động phát triển không đồng đều vẫn còn tồn tại và phân lớp rất đa dạng. Thị trường lao động khu vực chính thức có xu hướng phát triển mạnh, nhất là ở các đô thị lớn Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn, Khu kinh tế mở Chu Lai.... Thị trường lao động nông thôn, vùng kinh tế các huyện miền núi chậm phát triển, khu vực phi chính thức phát triển chậm hơn. Phân lớp thị trường lao động còn diễn ra khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa các ngành (nhất là giữa ngành có lợi thế và ngành không có lợi thế).

Thứ ba, Quảng Nam thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong xu thế cùng cả nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới sẽ có nhiều cơ hội thu hút các nguồn đầu tư ngoài tỉnh và nước ngoài, tạo nhiều việc làm. Nhưng cạnh tranh trên thị trường lao động khu vực miền Trung và cả nước sẽ gay gắt hơn, lợi thế cạnh tranh về lao động sẽ san bằng; yếu thế của Quảng Nam trong cạnh tranh lao động cũng bộc lộ rõ hơn do trình độ tay nghề, chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật, tác phong công nghiệp và thể lực kém hơn dẫn đến giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh sẽ khó khăn hơn.

Thứ tư, xu hướng giá cả lao động do thị trường quyết định ngày càng chiếm ưu thế và tăng, nhất là trong khu vực kết cấu, vùng kinh tế mở; vai trò điều tiết của tiền lương, tiền công đối với quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường lao động sẽ mạnh hơn dẫn đến một bộ phận người lao động có thu nhập rất cao và không ít người lao động có thu nhập thấp do trình độ chuyên môn - kỹ thuật kém.

Thứ năm, các hình thức giao dịch trên thị trường lao động tiếp tục phát triển đa dạng, hoạt động đan xen nhau và sôi động, nhưng hình thức giao dịch chính thống sẽ phát triển mạnh, trở thành phổ biến và có hiệu quả hơn.

Thứ sáu, vai trò của Nhà nước đối với phát triển thị trường lao động ngày càng rõ hơn, chủ yếu là thể chế hoá, giảm can thiệp trực tiếp vào thị trường lao động.

3. Dự báo tổng cung, tổng cầu lao động ở Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020 (chi tiết xem phụ lục kèm theo):

a) Dự báo cung lao động

- Dự báo dân số Quảng Nam năm 2015 sẽ đạt khoảng 1.453.920 người (phương án trung bình). Trong đó, nữ là 738.624 người, chiếm 50,8% và nam là 715.296 người, chiếm 49,2%. Năm 2020, dân số của tỉnh sẽ đạt 1.495.367 người (phương án trung bình). Trong đó, nữ là 755.452 người, chiếm 50,52% và nam là 739.915 người, chiếm 49,48%.

- Dân số từ 15 tuổi trở lên đến năm 2015 là 1.123.236 người, trong đó thành thị là 244.882 người, chiếm 21,8% và nông thôn là 878.354 người, chiếm 78,2%. Dân số bước vào tuổi lao động (15 tuổi) là 23.816 người và bước ra khỏi tuổi lao động theo quy định của pháp luật lao động là 13.918 người. Năm 2020, dân số từ 15 tuổi trở lên là 1.163.928 người, trong đó thành thị là 287.099 người, chiếm 24,67% và nông thôn là 876.829 người, chiếm 75,33%. Dân số bước và tuổi lao động (15 tuổi) là 21.533 người và bước ra khỏi tuổi lao động là 16.385 người.

- Tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đến năm 2015 sẽ là 930.022 người, trong đó: khu vực nông thôn là 742.736 người, chiếm 79,86% và khu vực thành thị là 187.286 người, chiếm 20,14%; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung của tỉnh là 82,8%, khu vực nông thôn là 84,56% và thành thị là 76,48 %. Năm 2020, tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên sẽ là 984.580 người, trong đó: khu vực nông thôn là 760.298 người, chiếm 77,22% và khu vực thành thị là 224.282 người, chiếm 22,78%; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung của tỉnh là 84,59%, khu vực nông thôn là 86,71% và thành thị là 78,12%.

b) Dự báo cầu lao động

- Dự báo tổng cầu lao động trong nền kinh tế Quảng Nam:

+ Năm 2015: Phương án 1: 867.478 lao động; Phương án 2: 871.460 lao động và Phương án 3: 878.103 lao động.

+ Năm 2020: Phương án 1: 963.234 lao động; Phương án 2: 960.946 lao động và Phương án 3: 963.450 lao động.

- Cơ cấu tổng cầu lao động của nền kinh tế theo 3 ngành lớn (phương án 2):

 

2015

2020

+ Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản

45,92%

33,28%

+ Ngành công nghiệp - xây dựng

26,83%

34,15%

+ Ngành thương mại - dịch vụ

27,35%

32,57%

- Dự báo tổng cầu lao động làm công ăn lương (tham gia thị trường lao động) trong tổng cầu lao động (phương án 2):

 

2015

2020

+ Số lượng (người)

326.798

432.426

+ Tỷ lệ so với tổng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên (%)

37,50

45,00

c) Dự báo trình độ chuyên môn kỹ thuật (qua đào tạo) của lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên (phương án 2)

 

2015

2020

- Không có chuyên môn kỹ thuật

45,00

30,05

- Có chuyên môn kỹ thuật qua đào tạo (%)

55,00

69,95

- Qua đào tạo nghề (%) 

45,00

55,00

II. Quan điểm và mục tiêu phát triển thị trường lao động Quảng Nam đến năm 2020:

1. Quan điểm định hướng phát triển thị trường lao động Quảng Nam:

a) Phát triển mạnh thị trường lao động Quảng Nam đồng bộ với các loại thị trường khác, gắn kết chặt chẽ với thị trường lao động khu vực miền Trung và cả nước là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn tỉnh, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn đến.

b) Phát triển thị trường lao động Quảng Nam phải tập trung vào nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển và thúc đẩy chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm có chất lượng; đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm mạnh lao động nông nghiệp, tự do hóa hơn nữa dịch chuyển lao động; đảm bảo tiền lương do thị trường quyết định; phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống giao dịch việc làm, gắn kết cung - cầu lao động; nâng cao năng lực quản lý và điều tiết thị trường lao động của cơ quan nhà nước các cấp để thị trường lao động hoạt động lành mạnh và hiệu quả.

c) Có cơ chế, chính sách và biện pháp khuyết khích phát triển thị trường lao động ở khu vực thành thị, ven biển, Khu kinh tế mở Chu Lai... ngang tầm khu vực miền Trung và cả nước; đồng thời hỗ trợ phát triển thị trường lao động khu vực nông thôn, nhất là các huyện miền núi kinh tế còn chậm phát triển.

d) Tăng mạnh nguồn lực hỗ trợ của Trung ương và địa phương cho phát triển thị trường lao động; ưu tiên đầu tư cho đào tạo nghề, cho các khu vực, các ngành và vùng có khả năng tạo nhiều việc làm mới, cho phát triển cơ sở hạ tầng giao dịch việc làm tạo cơ hội cho nhiều người có việc làm.

đ) Phát triển thị trường lao động Quảng Nam là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các cấp và sự tham gia tích cực, chủ động của các chủ thể kinh tế (nhất là doanh nghiệp và các tổ chức xã hội khác); tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác trong khu vực miền Trung và quốc tế.

2. Mục tiêu:

a) Mục tiêu tổng quát

Đạt được sự phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động theo quy luật khách quan, lành mạnh, ổn định. Tăng tỷ trọng lao động làm công ăn lương; nâng cao chất lượng nguồn cung lao động, tăng cường khả năng cạnh tranh của lao động trên thị trường lao động; đảm bảo gắn kết cung - cầu lao động, giải quyết việc làm bền vững và tăng thu nhập cho người lao động; nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thị trường lao động; góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

b) Mục tiêu cụ thể

- Giai đoạn 2011 - 2020:

+ Tạo việc làm cho hơn 400.000 - 450.000 lao động, bình quân 40.000 - 45.000 lao động/năm.

+ Tỷ lệ lao động làm công ăn lương đến năm 2020 chiếm khoảng 45% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm.

+ Đến năm 2020 tỷ lệ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo đạt 70% và qua đào tạo nghề đạt 55%.

+ Giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động trong tuổi lao động ở thành thị và duy trì dưới 4% vào năm 2020.

+ Cơ cấu lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp đến năm 2015 dự kiến 32 - 33%, công nghiệp xây dựng 33 - 34%, dịch vụ khoảng 32 - 33%.

- Giai đoạn 2011 - 2015:

+ Tạo việc làm cho hơn 200.000 lao động, bình quân 40.000 lao động/năm

+ Tỷ lệ lao động làm công ăn lương đến năm 2015 chiếm 37,5% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm.

+ Đến năm 2015, tỷ lệ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo đạt 55% và qua đào tạo nghề đạt 45%.

+ Giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động trong tuổi lao động ở thành thị xuống dưới 4% vào năm 2015, bằng mức trung bình của cả nước.

+ Cơ cấu lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp đến năm 2015 dự kiến 42 - 43%, công nghiệp xây dựng 28 - 29%, dịch vụ khoảng 29 - 30%.

3. Nhiệm vụ trọng tâm

- Đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư toàn xã hội cho tăng trưởng kinh tế cao và ổn định (nhất là đầu tư từ nguồn vốn trong dân, đầu tư nước ngoài). Tạo môi trường khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, dân doanh...) nhằm tăng tổng cầu lao động, tạo nhiều việc làm và việc làm bền vững cho người lao động trên địa bàn tỉnh.

- Phát triển mạnh nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nguồn nhân lực trên thị trường lao động. Tập trung nguồn lực đột phá vào đào tạo nghề trình độ cao nhằm cung cấp lao động kỹ thuật cho thị trường lao động trên địa bàn, đồng thời đẩy mạnh dạy nghề cho lao động nông thôn nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích khu vực tư nhân, doanh nghiệp tham gia dạy nghề thông qua các ưu đãi về thuế, hỗ trợ hạ tầng và các điều kiện thiết yếu.

- Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong các doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện hiệu quả cải cách chính sách tiền lương theo định hướng thị trường, gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh; thực hiện một cách thực chất cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về quan hệ lao động (nhất là về tiền lương) trong các doanh nghiệp; giải quyết tốt các trường hợp tranh chấp lao động và đình công, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động; tăng cường phòng chống và giảm thiểu tai nạn lao động.

- Phát triển mạnh hệ thống hạ tầng cơ sở giao dịch của thị trường lao động ở tỉnh; phát huy hiệu quả hoạt động của Sàn giao dịch việc làm; đổi mới, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm Giới thiệu việc làm.

- Thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về thị trường lao động của chính quyền các cấp. Đặc biệt là hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp lý cho thị trường lao động trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh và hoạt động hiệu quả; phát triển hoàn chỉnh hệ thống thông tin, dự báo và giám sát thị trường lao động; thực hiện điều tiết cung - cầu lao động khi cần...

III. Các giải pháp và Chương trình, Đề án phát triển thị trường lao động Quảng Nam đến năm 2020:

1. Các nhóm giải pháp:

a) Nhóm giải pháp về tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển mạnh và hoạt động có hiệu quả.

- Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thị trường lao động như: hệ thống pháp luật lao động hướng tới xóa bỏ dần sự khác biệt giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước; chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động; chính sách đào tạo nghề, nhất là cho nông dân và thanh niên dân tộc thiểu số... để tạo điều kiện cho mọi người có thể tiếp cận và tích cực tham gia thị trường lao động.

- Xây dựng cơ chế khuyến khích phát triển công nghiệp phù trợ nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên liệu cho các ngành dệt may, da giày, các chi tiết phục vụ ngành công nghiệp ô tô, xe máy, cơ khí chế tạo. Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực lắp ráp, chế tạo.

- Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa bằng cơ chế vay vốn trung, dài hạn để đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm mới, dịch vụ mới; hỗ trợ nâng cấp và giới thiệu lại Cổng thông tin doanh nghiệp và đầu tư của tỉnh để phục vụ doanh nghiệp và đầu tư; xây dựng và phát hành Sổ tay hướng dẫn thủ tục thành lập doanh nghiệp và đầu tư; tổ chức Diễn đàn phát triển kinh tế địa phương; sau thời gian thử nghiệm tại 3 huyện Núi Thành, Duy Xuyên và Thăng Bình trong năm 2011, nghiên cứu hỗ trợ lắp đặt phần mềm đăng ký kinh doanh cho tất cả các địa phương trong tỉnh.

- Thực hiện cho người lao động vay vốn với lãi suất ưu đãi để học nghề, học trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.

- Xây dựng và thực hiện tốt chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2015 và đến năm 2020. Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính, minh bạch các quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh, hoàn thiện cơ chế một cửa liên thông trong đăng ký, thành lập doanh nghiệp. Áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý đăng ký kinh doanh.

- Tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về lao động; trong xây dựng quan hệ lao động lành mạnh ở doanh nghiệp.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật lao động và chính sách dạy nghề, việc làm trên địa bàn tỉnh để sớm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các trường hợp vi phạm.

- Kiến nghị với các Bộ, ngành ở Trung ương: Quy định thống nhất chính sách, chế độ đối với người lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp; tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khấu lao động; đầu tư phát triển đồng bộ mạng thông tin thị trường lao động quốc gia...

b) Nhóm giải pháp huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tạo cầu lao động, nhất là những ngành, lĩnh vực mà Quảng Nam có ưu thế và có khả năng thu hút nhiều lao động.

- Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế là tiền đề để phát triển thị trường lao động, tạo nhiều việc làm mới và cân bằng cung - cầu lao động. Trong giai đoạn 2011 -2015, Quảng Nam phấn đấu tăng trưởng kinh tế bình quân 13,5% và duy trì mức cao, liên tục ổn định. Đến năm 2015, số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong nền kinh tế gấp hơn 1,7 lần và đến năm 2020 gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010.

- Thu hút các nguồn vốn đầu tư tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả, phát huy lợi thế từng ngành, từng sản phẩm, tạo cơ hội cho người lao động có việc làm. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ với chính sách ưu đãi để tạo ra nhiều chỗ làm mới, thu hút nhiều lao động:

+ Phấn đấu phát triển công nghiệp mũi nhọn giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế của tỉnh. Phát triển công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, sử dụng lao động nhiều, có nhiều sản phẩm tham gia xuất khẩu. Duy trì và phát triển ngành dệt may, giày da xuất khẩu. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề nhằm thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, thu hút, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp.

+ Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ mang tính chất đột phá có tính cạnh tranh như: Viễn thông, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dịch vụ vận tải biển, vận tải hàng không và dịch vụ du lịch.

+ Tiếp tục phát triển du lịch để đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

+ Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng các sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; giảm dần tỷ trọng các hàng xuất khẩu thô. Tăng mạnh hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh là giày da và may mặc. Thúc đẩy các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh và cạnh tranh như sản phẩm gỗ, hàng hải sản, vàng, nguyên liệu giấy, cồn ethanol, kính nổi.

- Tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp. Hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi để đảm bảo năng lực tưới tiêu; đảm bảo yêu cầu cấp nước cho công nghiệp, dân sinh và nuôi trồng thủy sản. Thực hiện các dự án bảo vệ môi trường theo hướng đa mục tiêu, vừa sản xuất, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.

- Phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn, các ngành tiểu thủ công nghiệp, khôi phục phát triển các ngành nghề truyền thống nhằm thu hút lao động nông thôn, đặc biệt là ở những vùng bị thu hồi đất nông nghiệp.

- Phát triển kinh tế hợp tác đa dạng, nòng cốt là các hợp tác xã. Tuyên truyền Pháp luật, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, hướng dẫn xây dựng điều lệ, qui chế hoạt động, thành lập mới, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Phát triển các hạ tầng phục vụ sản xuất cho các cộng đồng thành viên.

- Nghiên cứu cụ thể hoá các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, vận dụng phù hợp với đặc điểm cơ sở sản xuất - kinh doanh của tỉnh:

+ Khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là chú trọng phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản cần được đầu tư nhiều hơn nữa phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Huy động các nguồn lực để tập trung đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề...

+ Quy hoạch hình thành nhiều cụm công nghiệp vừa và nhỏ, nhiều khu dân cư gắn với làng nghề tại các huyện, thành phố, thu hút đầu tư các cơ sở sản xuất - kinh doanh mới; phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến và sơ chế nông, lâm, thuỷ sản tạo điều kiện thuận lợi sử dụng lao động tại chỗ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân.

- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia tích cực vào thị trường lao động khu vực và quốc tế; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động.

- Tăng cường cho vay nguồn vốn Quỹ Quốc gia về việc làm và Quỹ hỗ trợ việc làm tỉnh Quảng Nam để hỗ trợ các hoạt động tạo việc làm ở khu vực phi chính thức và những người lao động tự tạo việc làm.

c) Nhóm giải pháp phát triển mạnh đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao và nâng cao chất lượng cung lao động cho thị trường lao động.

- Phát triển giáo dục đào tạo, phấn đấu đến năm 2015 đạt mức 55% lao động qua đào tạo, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 45% và đến năm 2020 tương ứng là 70% và 55%, ngang bằng với mức bình quân chung của cả nước.

- Có chính sách đầu tư tập trung cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đảm bảo đến năm 2015 Quảng Nam có trên 60 cơ sở dạy nghề. Tập trung đầu tư để sau năm 2015 các cơ sở dạy nghề trọng điểm đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo năng lực dạy nghề theo 3 cấp độ: cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề. Xúc tiến xây dựng trường Cao đẳng nghề; đầu tư nâng cấp một số trường Trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh thành trường Cao đẳng nghề; nâng cấp một số Trung tâm dạy nghề thành trường Trung cấp nghề. Chú trọng phát triển Trường Trung cấp nghề Thanh niên Dân tộc Miền núi. Đầu tư cơ sở vật chất cho Trung tâm dạy nghề Duy Xuyên là trung tâm dạy nghề tổng hợp kiểu mẫu tại huyện điểm triển khai Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn; thành lập Trung tâm dạy nghề cấp huyện tại Bắc Trà My, Nông Sơn và Đông Giang; đầu tư cho các Trung tâm dạy nghề tại các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ...

+ Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề và đầu tư vào dạy nghề; chính sách khuyến khích giáo viên dạy nghề khu vực miền núi...

+ Tăng cường định hướng nghề nghiệp cho học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, thực hiện phân luồng đào tạo một cách hợp lý, mở rộng đào tạo nghề trình độ trung cấp cho đối tượng tốt nghiệp Trung học cơ sở; đẩy mạnh thực hiện đào tạo nghề liên thông giữa các trình độ đào tạo nghề và các trình độ khác nhau trong hệ thống giáo dục quốc dân.

+ Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa dạy nghề, khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Trong đó, đặc biệt chú trọng phát triển loại hình dạy nghề ngay tại doanh nghiệp và dạy nghề lưu động nhằm đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm tại chỗ, nhất là cho lao động nông thôn lớn tuổi (trên 35 tuổi), dân tộc thiểu số, nông thôn vùng thu hồi đất...

+ Đẩy mạnh đào tạo nghề cho công nhân, nghề truyền thống qua các chương trình khuyến công, khuyến nông, các chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế về đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Đào tạo nghiệp vụ kinh doanh cho đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Tăng cường thể chất, giáo dục nâng cao văn hóa nghề, đặc biệt là đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, kỷ luật công nghệ và lao động, tác phong lao động công nghiệp... đối với người lao động, nhất là lao động trẻ.

- Giảm sức ép về cung lao động bằng việc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, hạn chế gia tăng dân số, giảm sức ép về cung lao động. Duy trì mức giảm sinh 0,25%o mỗi năm, bằng mức bình quân chung cả nước. Quy mô dân số vào năm 2015 khoảng 1.454.000 người, vào năm 2020 khoảng 1.495.367 người, tốc độ tăng dân số 0,4%.

d) Nhóm giải pháp phát triển hệ thống giao dịch gắn kết cung - cầu của thị trường lao động.

- Đầu tư phát triển hệ thống Trung tâm Giới thiệu việc làm trên địa bàn tỉnh theo quy hoạch góp phần thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động.

- Tổ chức Sàn giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam định kỳ hàng tháng tại Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh; tăng cường tổ chức các Phiên giao dịch việc làm, điểm giao dịch việc làm lưu động tại các địa bàn cấp xã, huyện, thành phố... nhằm tăng cường công tác tư vấn học nghề và tư vấn việc làm cho người lao động.

- Tổ chức điều tra thu thập thông tin chính xác về thực trạng sử dụng lao động trong các doanh nghiệp và tình hình lao động - việc làm của người lao động trong tỉnh; xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin và dự báo thị trường lao động làm cơ sở hoạch định chính sách việc làm và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cung, cầu lao động trên thị trường lao động.

đ) Nhóm giải pháp về chính sách thị trường lao động.

- Thực hiện đồng bộ và hiệu quả Chương trình mục tiêu về việc làm và dạy nghề, Chương trình mục tiêu về giảm nghèo của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 và đến năm 2020. Gắn công tác giảm nghèo với đào tạo nghề và giải quyết việc làm, nâng cao trình độ, kiến thức cho người nghèo nhằm nâng cao năng lực thị trường, chủ động tham gia thị trường lao động, có cơ hội việc làm và tăng thu nhập, tự vươn lên thoát nghèo.

- Thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ, chính sách tín dụng ưu đãi đối với người lao động, cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo quy định tại Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Chính phủ; chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ- TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách bảo hiểm thất nghiệp...

- Ưu tiên cho vay nguồn vốn Quỹ hỗ trợ việc làm tỉnh đối với cá nhân đi xuất khẩu lao động ở thị trường có thu nhập cao, lao động hết thời hạn làm việc ở nước ngoài trở về địa phương chưa tìm được việc làm và lao động dôi dư do sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, lao động mất đất sản xuất, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều người tàn tật.

- Nghiên cứu hình thành Quỹ An sinh xã hội từ nguồn kinh phí hỗ trợ của các doanh nghiệp, nhà đầu tư để hỗ trợ chuyển đổi nghề cho nhân dân trong vùng dự án đã ngoài độ tuổi lao động.

2. Các chương trình, Đề án về việc làm - dạy nghề:

2.1. Chương trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển thị trường lao động.

2.1.1. Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2008 - 2015.

a) Mục tiêu đến năm 2015

- Về phát triển hệ thống mạng lưới cơ sở dạy nghề:

+ Thành lập 3 trường Cao đẳng nghề, 3 trường Trung cấp nghề và 50 Trung tâm dạy nghề, đảm bảo đủ năng lực dạy nghề để nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 45 % vào năm 2015.

+ Tỷ lệ giáo viên dạy nghề có trình độ sau đại học trong các trường Cao đẳng nghề và Trung cấp nghề đạt 25%; tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt 1/17.

+ Tỷ lệ Trường Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề đạt tiêu chuẩn về cơ sở vật chất là 80%.

- Về cơ cấu đào tạo nghề theo ba cấp trình độ: Cao đẳng nghề: 6%; Trung cấp nghề: 20%; sơ cấp nghề: 40%; dạy nghề thường xuyên: 34%.

- Về quy mô tuyển sinh và đào tạo nghề: 200.000 học viên, sinh viên (Cao đẳng nghề: 10.000 người; Trung cấp nghề: 30.000 người; sơ cấp nghề: 90.000 người và dạy nghề thường xuyên: 70.000 người).

b) Kinh phí:

Nguồn lực tài chính đầu tư cho dạy nghề phát triển theo hướng đẩy mạnh thực hiện chính sách xã hội hóa theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm và hỗ trợ dạy nghề cho các đối tượng đặc thù. Đẩy mạnh việc phân cấp, thực hiện việc giao quyền tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ cho các cơ sở dạy nghề công lập. Kinh phí đào tạo thường xuyên được cấp theo cơ chế nhà nước đặt hàng cho các cơ sở dạy nghề, còn phần lớn chi phí thường xuyên được huy động từ sự đóng góp của người học nghề, của các doanh nghiệp và hợp tác quốc tế.

c) Cơ quan thực hiện:

UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội làm cơ quan thường trực và thành viên là các Sở, Ban, ngành, đoàn thể liên quan để chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án đạt mục tiêu đề ra.

Trên cơ sở Đề án của tỉnh, huyện, thành phố xây dựng và chỉ đạo thực hiện Đề án phát triển dạy nghề trên địa bàn, phù hợp với điều kiện và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

2.1.2. Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020.

a) Mục tiêu:

- Giai đoạn 2011 - 2015:

+ Đào tạo khoảng 75.000 lao động nông thôn (35.000 người học nghề nông nghiệp, 40.000 người học nghề phi nông nghiệp); trong đó khoảng 16.500 người thuộc diện người có công cách mạng, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế;

+ Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này đạt trên 70%.

- Giai đoạn 2016 - 2020:

+ Dạy nghề cho khoảng 90.000 lao động nông thôn (30.000 người học nghề nông nghiệp; 60.000 người học nghề phi nông nghiệp), trong đó có khoảng 16.000 người thuộc diện người có công cách mạng, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người tàn tật, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế;

+ Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này đạt trên 80%.

b) Kinh phí:

Tổng kinh phí thực hiện Đề án dự kiến là 1.165 tỷ đồng. Giai đoạn 2011 -2015: 705,5 tỷ đồng; giai đoạn 2016 - 2020: 459,5 tỷ đồng. Trong đó: Ngân sách Trung ương hỗ trợ: 796 tỷ đồng; ngân sách địa phương: 259 tỷ đồng; nguồn huy động xã hội hóa: 110 tỷ đồng.

c) Cơ quan thực hiện:

UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội làm cơ quan thường trực có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan tham mưu chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện tốt nội dung Đề án

2.2. Đề án tổ chức Sàn Giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam đến năm 2015.

a) Mục tiêu:

- Đa dạng hoá các hoạt động tạo việc làm đáp ứng cung cầu lao động, thúc đẩy thị trường lao động phát triển đúng hướng; thu thập, phổ biến thông tin về lao động, chỗ làm việc và nhu cầu tuyển lao động về số lượng và trình độ chuyên môn kỹ thuật, định hướng đào tạo theo nhu cầu thị trường cho các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở dạy nghề.

- Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ người lao động tìm được việc làm qua các giao dịch chính thức lên 30 - 40% trong tổng số người có việc làm. Sàn Giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam nằm trong hệ thống sàn giao dịch việc làm của toàn quốc với mô hình tổ chức, quy trình hoạt động chính quy và đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao.

- Đến năm 2015: Đảm bảo thông tin thị trường lao động được kết nối từ cấp xã lên cấp huyện, cấp tỉnh và Trung ương. Tăng tỷ lệ người lao động tìm được việc làm thông qua các giao dịch việc làm chính thức lên 20 - 25% trong tổng số người có việc làm.

b) Kinh phí:

- Ngân sách Trung ương:

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục bố trí kinh phí từ Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm - dạy nghề để hoàn thành Dự án nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm Giới thiệu việc làm đã được phê duyệt và hỗ trợ kinh phí tổ chức Sàn giao dịch việc làm hàng năm.

- Ngân sách tỉnh:

Bố trí kinh trí để cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ Sàn giao dịch việc làm tỉnh (Trụ sở chính: số 10 Nguyễn Du - thành phố Tam Kỳ; điểm vệ tinh: Hương An, Quế Sơn); Bổ sung kinh phí cho các hoạt động thường xuyên của Sàn giao dịch việc làm; huy động, vận động các doanh nghiệp, tổ chức tài trợ.

c) Cơ quan thực hiện: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp các ngành, cơ quan liên quan.

2.3. Đề án xuất khẩu lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015.

a) Mục tiêu:

Trong giai đoạn 2011 - 2015, phấn đấu xuất khẩu 4.000 lao động sang làm việc ở nước ngoài (bình quân mỗi năm xuất khẩu 800 lao động). Trong đó, mỗi năm đưa ít nhất 200 lao động đã qua đào tạo nghề thuộc các huyện nghèo của tỉnh đi làm việc ở nước ngoài.

b) Kinh phí:

- Kinh phí bố trí từ Ngân sách địa phương:

+ Ngân sách tỉnh bổ sung nguồn vốn Quỹ hỗ trợ việc làm tỉnh mỗi năm 2 tỷ đồng để ưu tiên cho vay đối với cá nhân đi xuất khẩu lao động.

+ Ngân sách địa phương bố trí chi phí phục vụ công tác quản lý, điều hành của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh và huyện.

- Kinh phí bố trí từ ngân sách Trung ương:

+ Nhu cầu nguồn vốn của Quỹ xuất khẩu lao động cho vay đối với cá nhân đi làm việc ở nước ngoài trong 5 năm (2011 - 2015): 67,5 tỷ đồng.

+ Hỗ trợ người lao động thuộc các huyện nghèo nâng cao trình độ văn hoá; học nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng; hỗ trợ rủi ro khi phải về nước trước thời hạn (theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Chính phủ).

+ Nguồn tín dụng ưu đãi cho vay đối với cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia Đề án đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở các huyện nghèo (theo Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Chính phủ).

c) Cơ quan thực hiện:

UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh giai đoạn 2011-2015 do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội làm thường trực và thành viên là các Sở, Ban, ngành, đoàn thể liên quan để chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án đạt mục tiêu đề ra.

2.4. Đề án nâng cao năng lực Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015.

a) Mục tiêu:

Tiếp tục phát triển hệ thống tư vấn giới thiệu việc làm qua Sàn giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam làm cầu nối để người lao động, chủ sử dụng lao động có điều kiện tìm hiểu nhau trong lĩnh vực cung - cầu lao động.

b) Kinh phí:

Hỗ trợ kinh phí từ nguồn vốn đầu tư phát triển của Chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn sự nghiệp của tỉnh và nguồn vốn đối ứng của Trung tâm. Trong đó: Kinh phí Trung ương: 8 tỷ đồng, kinh phí địa phương: 1 tỷ đồng.

Phần thứ ba

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

I. Bộ máy chỉ đạo, triển khai Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020.

UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu về việc làm và dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015 do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội làm cơ quan thường trực, có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện chương trình và Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020.

II. Phân công trách nhiệm cụ thể của các Sở, ngành, địa phương.

1. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

- Tham mưu UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu về việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011 - 2015 để chỉ đạo, tổ chức triển khai chương trình và Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam.

- Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ban, ngành liên quan và các Hội, đoàn thể tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020; đề xuất UBND tỉnh các biện pháp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lĩnh vực thị trường lao động.

- Chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan xây dựng và trình UBND tỉnh ban hành Chương trình mục tiêu về việc làm và dạy nghề, Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015 và các cơ chế chính sách về lao động - việc làm.

- Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Sở, ngành có liên quan tham mưu UBND tỉnh ban hành Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Nam đến năm 2020.

- Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án tổ chức Sàn giao dịch việc làm tỉnh Quảng Nam đến năm 2015, Đề án xuất khẩu lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2015, Đề án tiếp tục đổi mới và phát triển dạy nghề tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2008 - 2015; Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020...

- Chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu tham mưu UBND tỉnh có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề và đầu tư vào hoạt động dạy nghề; chính sách ưu đãi giáo viên dạy nghề khu vực miền núi.

- Hướng dẫn các huyện, thành phố và Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh tạo nguồn lao động; xây dựng cơ sở dữ liệu về hệ thống thông tin thị trường lao động; tổ chức hoạt động giao dịch kết nối cung - cầu lao động đạt kết quả cao.

- Lập dự toán kinh phí triển khai, tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động của tỉnh trong dự toán kế hoạch hàng năm gửi Sở Tài chính để làm cơ sở bố trí kinh phí.

- Tổ chức giám sát, đánh giá, tổng hợp tình hình thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động báo cáo UBND tỉnh và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hàng quý, năm.

2. Sở Tài chính

- Tham mưu UBND tỉnh tăng cường bố trí nguồn vốn cho Quỹ hỗ trợ việc làm tỉnh để hỗ trợ cho vay giải quyết việc làm.

- Chủ trì, phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2020; chỉ đạo Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện, thành phố bố trí kinh phí quản lý thị trường lao động địa phương theo phân cấp ngân sách hiện hành.

- Chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan phân bổ nguồn ngân sách do Trung ương cấp từ các Chương trình mục tiêu quốc gia để xây dựng, phát triển thị trường lao động.

3. Sở Kế hoạch và Đầu tư

- Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh ban hành Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Nam đến năm 2020.

- Hàng năm, tham mưu UBND tỉnh tổ chức Diễn đàn đối thoại doanh nghiệp; xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Phối hợp với Sở Tài chính và các cơ quan liên quan phân bổ nguồn ngân sách Trung ương cấp hỗ trợ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia tại tỉnh và hướng dẫn cơ chế quản lý, sử dụng nguồn tài chính được cấp cho các địa phương, đơn vị.

4. Sở Giáo dục và Đào tạo

Phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng kế hoạch định hướng nghề nghiệp cho học sinh cuối cấp Phổ thông cơ sở và Phổ thông trung học.

5. Sở Nội vụ

Chủ trì, phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo, các ngành liên quan và các địa phương tổ chức khảo sát các Trung tâm giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp trên địa bàn tỉnh và đề xuất UBND tỉnh mô hình quản lý phù hợp để các Trung tâm vừa thực hiện chức năng giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp, vừa thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn.

6. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh:

Phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan tuyên truyền, vận động và xây dựng kế hoạch hướng nghiệp, đào tạo nghề cho lực lượng thanh niên chuẩn bị hoàn thành nghĩa vụ quân sự về địa phương.

7. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh

Quản lý, đầu tư có hiệu quả nguồn vốn tín dụng ưu đãi phục vụ công tác hỗ trợ giải quyết việc làm và học nghề.

8. Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Quảng Nam và các Đài Truyền thanh - Phát lại truyền hình huyện, thành phố

Tổ chức đưa tin, xây dựng phóng sự, trang chuyên đề về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường lao động.

9. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các Hội, đoàn thể

- Quan tâm chỉ đạo các cấp Hội, đoàn thể cơ sở phối hợp với các ngành liên quan triển khai thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, vận động người lao động và doanh nghiệp thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động của tỉnh.

- Tham gia thực hiện hiệu quả công tác đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh.

10. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố

- Chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội và các địa phương triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động trên địa bàn.

- Tổ chức rà soát, tổng hợp, đánh giá số lượng, chất lượng lao động ở địa phương để xây dựng kế hoạch tạo nguồn lao động.

- Phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi để Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh tổ chức hoạt động giao dịch, kết nối cung - cầu lao động trên địa bàn.

- Chỉ đạo UBND xã, phường, thị trấn tổ chức điều tra cung - cầu lao động tại địa bàn.

- Thường xuyên theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện Chiến lược phát triển thị trường lao động trên địa bàn báo cáo UBND tỉnh./.