Quyết định 04/2007/QĐ-UBND về Đề án tăng cường vai trò, năng lực của nông dân trong thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 - 2010 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành
Số hiệu: | 04/2007/QĐ-UBND | Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Tỉnh An Giang | Người ký: | Lê Minh Tùng |
Ngày ban hành: | 19/01/2007 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Nông nghiệp, nông thôn, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 04/2007/QĐ-UBND |
Long Xuyên, ngày 19 tháng 01 năm 2007 |
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết số 34/2006-HĐND ngày 08/12/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp lần thứ 8 về việc thông qua đề án tăng cường vai trò, năng lực của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2007 - 2010 ;
Theo đề nghị của Chánh văn phòng UBND tỉnh,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ban hành.
Nơi nhận: |
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH |
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ, NĂNG LỰC CỦA NÔNG DÂN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 2007 - 2010
( Ban hành kèm Quyết Định số: 04 /2007/QĐ-UBND ngày 19/01/2007 )
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm, lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn gắn với bảo vệ môi trường , tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nông thôn công bằng, dân chủ, văn minh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.
Những năm qua, tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, đáp ứng nguyện vọng của nông dân và được nông dân hưởng ứng tích cực. Kết quả đạt được như sau:
1. Sơ lược khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh:
Là một tỉnh nông nghiệp thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 3.424 km2 và mật độ dân số 598 người/km2. Dân số của tỉnh là 2.193.661 người (theo thống kê tháng 4/2006), bao gồm 04 dân tộc chủ yếu là: Kinh (94,3%), Hoa (1,01%), Chăm (0,65%), Khơme (4,04%). Nông dân toàn tỉnh chiếm trên 70% là lực lượng lao động nông nghiệp, canh tác trên diện tích 340.000ha đất sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 8,53 triệu đồng/người. Sản lượng lương thực trên 3 triệu tấn/năm. Cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn (chủ yếu là cây lúa và con cá). Tốc động tăng trưởng GDP toàn tỉnh liên tục tăng, bình quân 5 năm (2001-2005) đạt 9,2%.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của tỉnh Đảng bộ, nông dân An Giang đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết hợp tác cần cù sáng tạo, khắc phục khó khăn và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng. Đặc biệt những năm qua, tỉnh ta đã có nhiều giải pháp mang tính đột phá trong lĩnh vực khai thác, quản lý sử dụng đất đai (nhất là trong khu vực tứ giác Long Xuyên). Đất đai được đưa vào sử dụng rất hiệu quả, biến những vùng đất hoang vu nhiễm phèn nặng nay trở thành vùng đất thâm canh để phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống nông dân.
Những thành tựu mà An Giang đạt được trong sự nghiệp đổi mới, được đánh dấu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (10/1986) đã xác định đúng đắn vị trí và tầm quan trọng của nông nghiệp. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và sự nỗ lực hết mình của nông dân, đến nay, nông nghiệp tỉnh nhà đã phát triển mạnh mẽ theo hướng kinh tế hàng hoá và đạt được nhiều kết quả khả quan.
Tổng diện tích gieo trồng hàng năm điều tăng và đến cuối năm 2005 đạt trên 573.000 ha, tăng 12,75% so với năm 2000; trong đó diện tích gieo trồng lúa đạt trên 529.000 ha, hoa màu các loại đạt 43.000 ha. Nâng hệ số sử dụng đất từ 1,98 lần (năm 2000) lên 2,33 lần (năm 2005) và đã hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung chuyên canh đạt giá trị sản xuất cao; điển hình như huyện Chợ Mới bình quân 1 ha đất canh tác đạt 68 triệu đồng/năm, xã Phú Thuận huyện Thoại Sơn (vùng 1vụ lúa - 1vụ tôm) đạt trên 50 triệu đồng/ha. Ngoài ra, nhiều vùng nông thôn trong tỉnh còn triệt để khai thác lợi thế mùa nước nổi để tạo thu nhập và thu nhập cao; riêng mùa nước nổi năm 2005 đạt giá trị sản xuất 1,68 ngàn tỷ đồng, chiếm 25% so giá trị sản xuất 2 vụ chính trong năm.
Sản lượng lương thực năm 2005 đạt 3,14 triệu tấn, tăng gần 32% so năm 2000, là một trong vài tỉnh có số lượng lương thực cao nhất nước. Sản lượng cá nuôi (chủ yếu là cá basa, cá tra) đạt trên 170 ngàn tấn, tăng 2 lần so với năm 2000, chiếm trên 50% sản lượng nuôi thủy sản vùng ĐBSCL.
Về lâm nghiệp: thực hiện chương trình 661/TTg, trong 5 năm (2001-2005) đã trồng mới 6,1 ngàn ha rừng tập trung, nâng tổng diện tích lâm nghiệp có rừng lên 13,9 ngàn ha, đạt độ che phủ rừng 3,7% (tăng 0,24% so năm 2000) và thực hiện trồng cây phân tán 11,5 ngàn ha, nâng tổng diện tích trồng cây phân tán toàn tỉnh đạt gần 36 ngàn ha. Hiện còn trên 4 ngàn ha đất lâm nghiệp chưa có rừng, sẽ tiếp tục triển khai trồng rừng trong thời gian tới.
Hệ thống thủy lợi theo quy họach, đảm bảo tưới tiêu cho toàn bộ diện tích đất canh tác và thoát lũ ra biển tây. Ngoài ra đã hình thành 516 tiểu vùng đê bao kiểm soát lũ, với tổng diện 205 ngàn ha (93% so với tổng diện tích đất canh tác), trong đó có nhiều tiểu vùng đã thực hiện thủy lợi hóa đồng ruộng và vốn nông dân đóng góp trên 80%.
Giao thông nông thôn được nâng cao, mở rộng lộ đảm bảo vượt lũ. Đến nay hệ thống giao thông nông thôn cơ bản được hình thành với tổng chiều dài trên 3 ngàn km, tổng vốn đầu tư trên 497 tỷ đồng (trong đó vốn do nhân dân đóng góp là 60%).
Đưa điện về nông thôn, là vấn đề mà tỉnh đặc biệt quan tâm. Tính đến cuối năm 2005, 100% xã (phường, thị trấn) trong tỉnh có lưới điện quốc gia và có 95% hộ dân trong tỉnh sử dụng điện; đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và mở mang ngành nghề nông thôn.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển cả về cơ sở vật chất và thiết bị, hiện có 100% xã có bác sỹ và nữ hộ sinh; 100% khóm, ấp có nhân viên y tế.
Giáo dục đã xóa hẳn tình trạng học ca ba, họat động dạy và học diễn ra bình thường, chất lượng dạy và học từng bước có chuyển biến; hiện có 92,21% xã đã hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở.
Cơ cấu kinh tế toàn tỉnh có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp từ 41,57% (năm 2000) còn 35% (năm 2005), tăng tỷ trọng khu vực Công nghiệp - Xây dựng từ 11.17% lên 12,4% khu vực Dịch vụ - Thương mại từ 47,26% lên 52,4%.
Cơ cấu lao động của tỉnh đã có chuyển dịch theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng ( từ 7% lên 10,5% ), lao động các ngành dịch vụ ( từ 14% lên 20% ), giảm lao động nông nghiệp ( từ 75% còn 70% ) .
Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng lương thực, thủy sản cũng không ngừng tăng và đến năm 2005, đạt trên 300 triệu USD, ( tăng 2,8 lần so với năm 2000 ).
Cùng với việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất; tỉnh đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao giá trị sản phẩm. Cụ thể là chương trình “3 giảm - 3 tăng” chỉ mới triển khai thực hiện trong 3 năm đã đem lại hiệu quả to lớn cả về kinh tế và xã hội, vừa giảm chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt và trở thành phong trào thi đua sôi nổi ở nông thôn; kết quả đạt được năm 2005 có trên 132.000 hộ nông dân tham gia, diện tích ứng dụng 221.000 ha (chiếm 50,4%). Trong lĩnh vực thủy sản, nông dân đã tham gia xây dựng nhiều vùng nuôi an toàn, chất lượng đạt tiêu chuẩn Quốc tế SQF 1000CM; đồng thời chủ động tạo mối liên kết với các tỉnh đồng bằng sông Cửu long để phát triển thủy sản theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường và xuất khẩu, tránh rủi ro xảy ra.
Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ được triển khai mạnh mẽ. Trong đó nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất, lai tạo giống được thực hiện khá thành công, cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa công tác sản xuất giống, trong lĩnh vực công nghệ thông tin phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cũng được đặc biệt quan tâm.
Dự án Internet nông thôn được triển khai thực hiện ở tất cả các xã, phường, thị trấn; nhiều Sở, ngành đã xây dựng hệ thống mạng thông tin trong nội bộ và nối mạng với các huyện và bước đầu có hiệu quả ở một số câu lạc bộ nông dân.
Do sản xuất phát triển, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm, từ 8,38% năm 2000 còn 3% năm 2005 (theo tiêu chí mới là 13,15%); bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khoảng 25.000 lao động, trong đó xuất khẩu lao động đi nước ngoài được chú trọng (năm 2004: 808 LĐ, năm 2005: 1.497 LĐ)
Đạt được những kết quả trên, nhà nước chủ yếu tạo hành lang pháp lý, các điều kiện và dịch vụ cần thiết cho sản xuất như: Khuyến nông, ổn định gía vật tư, giống, hỗ trợ kỹ thuật và xử lý các biện pháp để bảo vệ giá đầu ra hoặc bao tiêu một số sản phẩm đã công bố trước (lúa, gạo, bắp, bông vải,...); định hướng và thông qua các đoàn thể quần chúng hướng dẫn nông dân tổ chức sản xuất. Từ đó, đã góp phần và tạo điều kiện cần thiết bảo vệ quyền lợi của nông dân khi chuyển sang cơ chế thị trường, chuẩn bị hội nhập.
Với truyền thống của giai cấp nông dân là chủ lực quân trong cách mạng dân tộc, dân chủ; nay lực lượng này đã hưởng ứng tích cực các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều nông dân mạnh dạn bỏ vốn đầu tư mua thêm máy móc, thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, cải tạo đồng ruộng, hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi nội đồng, chuyển sang sản xuất những giống cây con mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đồng thời với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", người nông dân đã góp nhiều tiền của, công sức xây dựng điện, đường, trường, trạm … hoàn thành hệ thống đê bao chống lũ, nâng cấp và hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn. Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội của tỉnh, mà ở đó nông dân là những người góp công lớn nhất (đến nay còn chiếm hơn 70% dân số).
3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm:
- Được sự tập trung chỉ đạo của Tỉnh Ủy, UBND tỉnh; sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp; sự ủng hộ nhiệt tình của nông dân, trong đó có lực lượng nông dân giỏi làm nòng cốt trong phong trào xây dựng và phát triển nông thôn.
- Xây dựng cơ chế, chính sách để khuyến khích phát triển nông thôn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nông dân, phát triển nông thôn trên cơ sở huy động nội lực trong dân là chính, Nhà nước chỉ hỗ trợ về mặt qui hoạch, định hướng phát triển và hỗ trợ một khoảng kinh phí nhất định để tạo động lực và niềm tin đối với dân.
- Khi cần huy động sức dân để xây dựng cơ sở hạ tầng phải có bước đi phù hợp như: xây dựng đề án, kế hoạch thực hiện tùy theo mức độ và qui mô thông qua HĐND cùng cấp, trình HĐND và UBND cấp trên. Trên cơ sở mức thu phân kỳ đóng góp trong nhiều năm (từ 2-3 năm); từ đó dễ huy động và không vượt quá sức dân.
- Thực hiện lồng ghép một cách đồng bộ và có hiệu quả các chương trình, dự án theo kế hoạch hàng năm đầu tư cho nông thôn.
- Tăng cường công tác vận động, tuyên truyền, thông qua tổ chức chính trị xã hội, họp dân và trên các phượng tiện thông tin đại chúng để dân hiểu, dân thông.
- Thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thành lập ban giám sát nhân dân, thực hiện chế độ công khai tài chính rõ ràng, minh bạch.
- Tổ chức lại sản xuất, xây dựng mô hình liên kết " bốn nhà ", nhân rộng các điển hình tiên tiến, đẩy mạnh hoạt động chương trình 5 khuyến: khuyến nông, khuyến công, khuyến thương, khuyến thiện, khuyến học một cách đồng bộ có hiệu quả ở nông thôn.
- Đi tắt đón đầu về công nghệ, cùng với phát triển vùng nguyên liệu nông, thủy sản chất lượng, đã thúc đẩy công nghiệp chế biến phát triển nhanh, góp phần thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
4. Hạn chế của nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn:
Qua những năm đổi mới, kinh tế - xã hội tỉnh nhà có nhiều thay đổi lớn, mang lại những thành tựu quan trọng, bên cạnh cũng còn những tồn tại, yếu kém. Đó là:
- Đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện (thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 8,53 triệu đồng/người), nhưng nông dân ở một số xã vùng nông thôn, vùng dân tộc mức sống hiện còn rất thấp (thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 2,6 triệu đồng/người), tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhiều lao động ở nông thôn còn thiếu việc làm.
- Các phong trào thi đua yêu nước của nông dân cũng còn những hạn chế nên sự phát triển đôi khi thiếu chiều sâu và tính liên tục.
- Sản xuất nông nghiệp tuy có phát triển nhưng thiếu tính ổn định và bền vững. Nhiều nông dân còn sản xuất theo truyền thống, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn hạn chế; ngoài sản phẩm lúa, cá có lợi thế cạnh tranh, các sản phẩm cón lại giá thành sản xuất còn cao, chất lượng còn thấp, sức cạnh tranh, các sản phẩm còn lại gía thành sản xuất cao, chất lượng thấp, sức cạnh tranh kém. Nay chuyển sang cơ chế sản xuất tự chủ, sản xuất gắn với thị trường, gắn với kinh doanh,… nên lúng túng, từ đó dẫn đến sản xuất không đáp ứng thị trường, thua lỗ.
- Cơ cấu kinh tế toàn tỉnh chuyển dịch còn chậm. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp tuy có chuyển dịch nhưng chưa đạt so yêu cầu.
- Tổ chức lại sản xuất dưới hai hình thức Hợp tác xã và trang trại tuy đã được hình thành và phát triển, nhưng cũng có nhiều hợp tác xã yếu kém, trang trại thì nhỏ bé chưa thật sự làm tốt vai trò nòng cốt trong việc thực hiện công nghịêp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Trình độ dân trí ở khu vực nông thôn còn thấp, là một thách thức lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghịêp hóa, hiện đại hóa.
- Các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được quy hoạch xây dựng nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm. Nhiều cơ sở tiểu thủ công nghiệp có quy mô nhỏ, phân tán, thiết bị công nghệ lạc hậu, chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh kém.
- Kết cấu hạ tầng nông thôn tuy đã được tăng cường, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu của một nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
- Các doanh nghiệp và đơn vị dịch vụ của Nhà nước có vai trò không thể thiếu trong việc bảo vệ quyền lợi của nông dân thông qua các hợp đồng kinh tế (cung cấp giống, vốn, vật tư và tiêu thụ sản phẩm..). Nhưng sự phối hợp liên kết 4 nhà chưa chặt chẽ nên chi phí đầu vào sản xuất và đầu ra sản phẩm nông nghiệp không ổn định.
- Do hiểu biết pháp luật của nông dân còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, tình trạng người sử dụng đất vi phạm pháp luật và tình hình khiếu kiện về đất đai còn diễn ra phổ biến. Nhận thức về môi trường và ý thức bảo vệ môi trường còn thấp, dẫn đến môi trường nông thôn ngày càng ô nhiễm.
Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ tỉnh An giang lần thứ VIII đã xác định một trong 6 nhiệm vụ tổng quát đến 2010 là: "Tập trung khai thác tốt lợi thế và tiềm năng để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tạo động lực mới cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững ..."
- Hỗ trợ nông dân thi đua phát triển sản xuất, tham gia ứng dụng khoa học công nghệ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển bền vững; hướng đến một nền nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường; đồng thời tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Tạo môi trường bồi dưỡng, đào tạo nông dân nhằm thích nghi với cơ chế thị trường, có kiến thức, trình độ sản xuất và tay nghề giúp nông dân vươn lên làm giàu chính đáng.
- Nâng cao năng lực tổ chức Hội Nông dân nhằm đủ sức làm nòng cốt trong phong trào xây dựng nông thôn mới; khởi xướng, hướng dẫn, trợ giúp cho nông dân tổ chức lại sản xuất, tiếp nhận tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển.
- Thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng khu vực 2 và khu vực 3; phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn với cơ cấu hợp lý; từng bước chuyển dịch dần lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
- Nâng cao kiến thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của nông dân, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu hội nhập.
Để đạt được mục tiêu trên. Cần thực hiện những giải pháp cụ thể đối với nông nghiệp, nông thôn nhằm nâng cao vai trò, năng lực cho nông dân như sau:
a) Đẩy mạnh chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tạo năng suất cao và chất lượng hàng hóa nông sản đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước:
- Qui hoạch và hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh đối với các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định ( gạo, cá, rau quả đông lạnh,...). Đối với các sản phẩm khác theo cơ chế sản xuất linh họat, điều chỉnh diện tích, sản lượng hàng hóa theo mùa vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường hàng năm.
- Đẩy mạnh thực hiện chương trình "3 giảm 3 tăng", nhân rộng mô hình tiết kiệm nước trong sản xuất lúa, phấn đấu diện tích ứng dụng khoa học kỷ thuật đến năm 2010 đạt 90%.
- Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa công tác sản xuất giống; trên cơ sở mở lớp huấn luyện kỹ năng chọn tạo giống lúa, chuyển giao kỹ thuật sinh sản nhân tạo các loài thủy sản; phấn đấu năm 2007 ở mỗi vùng nguyên liệu, mỗi ấp đều có cơ sở sản xuất giống, đáp ứng nhu cầu giống sản xuất cho nông dân trên địa bàn.
- Củng cố và hình thành hệ thống sản xuất giống của tỉnh; tăng cường công tác quản lý chất lượng giống cây trồng, giống vật nuôi theo quy định hiện hành của Trung ương và UBND tỉnh.
b) Sắp xếp dân cư phù hợp và phân bố lại lao động; cải thiện môi trường sống và cơ cấu kinh tế nông thôn. Như vậy, muốn tăng thu nhập của nông dân lên gần với mức chung của tỉnh thì tỷ lệ lao động trong nông nghiệp còn cần giảm nhiều, diện tích đất canh tác cho mỗi lao động phải tăng lên, điều này dẫn đến số lao động dư thừa ở vùng nông thôn sẽ rất lớn, do đó:
- Tiếp tục triển khai thực hiện dự án qui hoạch khu công nghiệp đến năm 2010 cơ bản hoàn thành; trong đó chú trọng tạo quỹ đất, xây dựng hạ tầng chuẩn bị tốt điều kiện ra đời các khu công nghiệp.
- Xác định và lựa chọn các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề chủ yếu có tiềm năng phát triển và phù hợp với nhu cầu thị trường; trên cơ sở đó, rà soát, điều chỉnh lại qui hoạch khu, cụm tiểu thủ công nghiệp để đạt được nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho chủ trang trại chuyển đổi mục đích dử dụng đất, tích tụ ruộng đất hợp pháp để phát triển sản xuất hàng hóa.
- Thực hiện chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đối với hợp tác xã, chủ trang trại, doanh nghiệp ở nông thôn có nhu cầu đất đai để xây dựng kho chứa nông sản, nhà máy chế biến, sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi và các ngành nghề, lĩnh vực khác thuộc diện ưu đãi đầu tư.
- Ngân sách tỉnh hỗ trợ tạo quỹ đất để hình thành các khu công nghiệp, cụm tiểu thủ công nghiệp và thực hiện chính sách khuyến khích thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư.
- Ưu tiên đầu tư tín dụng cho xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất, phát triển làng nghề, lực lượng nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi, phát triển khu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Hình thành quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu.
c) Nâng cao dân trí, đào tạo nông dân:
- Trước hết là nâng cao trình độ học vấn của nông dân; kết hợp giữa giáo dục với dạy nghề cho khu vực nông thôn bằng việc tăng cường đào tạo nghề cho nông dân, thợ thủ công (bình quân hàng năm mở 300 - 400 lớp đào tạo cho 9.000 -12.000 lao động). Trong đó chú ý đào tạo nâng cao khả năng hòa nhập vào cơ chế thị trường của lực lượng nông dân sản xuất kinh doanh giỏi và đào tạo nghề cho con em nông dân ở nông thôn.
- Cơ cấu dạy nghề phải đáp ứng cho cả trước mắt và lâu dài phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn, chú trọng dạy nghề về kỹ thuật sản xuất (kể cả sản xuất giống cây, con theo hướng xã hội hóa), các biện pháp hạ giá thành sản phẩm, chế biến (nông,thủy sản), tiểu thủ công nghiệp, kiến thức về thị trường, quản trị doanh nghiệp... để nông dân ứng dụng có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất. Dạy nghề phải gắn với giới thiệu việc làm hoặc tạo điều kiện cho lao động tự tìm việc làm.
- Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư thành lập trường dạy nghề nhằm xã hội hóa công tác dạy nghề khu vực nông thôn. Đầu tư, nâng cấp hệ thống các trung tâm dạy nghề của cấp huyện và các đoàn thể chính trị - xã hội và các Trung tâm học tập cộng đồng.
d) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân:
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nông dân nhằm làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về ý thức chấp hành pháp luật , giúp người nông dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của mình, hình thành nếp sống và làm việc theo pháp luật, góp phần ngăn ngừa vi phạm pháp luật, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
- Xây dựng và nhân rộng các hình thức thu hút đông đảo nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật tại khu dân cư. Xây dựng “Câu lạc bộ nông dân với pháp luật”, để phổ biến, tuyên truyền vận động chấp hành pháp luật tại khu dân cư. Lựa chọn một số địa bàn dân cư có nhiều bức xúc về chấp hành phát luật để xây dựng mô hình điểm sáng trong chấp hành pháp luật.
- Lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động chấp hành pháp luật với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”; giám sát thực hiện quy chế dân chủ, công tác hoà giải ở cơ sở.
e) Về phát triển khoa học, công nghệ:
Vấn đề làm thế nào để khoa học, công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ những năm qua thường ít nối kết trực tiếp người nghiên cứu với nông dân (người sử dụng kết quả nghiên cứu). Giữa 2 khâu cung và cầu đó thường phải qua khâu trung gian là Nhà nước. Do đó cần tập trung :
- Ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, gắn với việc hướng dẫn nông dân xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội và từ đó làm cơ sở để nhân rộng.
- Khuyến khích cán bộ kỹ thuật, các Trung tâm, viện, trường và các đơn vị có chức năng tham gia nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học trong sản xuất và lai tạo giống.
- Đầu tư xây dựng khu công nghiệp công nghệ cao, phục vụ nghiên cứu sản xuất thử, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất và chế biến sản phẩm.
f) Xác định vai trò quyết định của nông dân và xây dựng một nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn, phá thế độc canh cây lúa:
- Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi nhằm làm nòng cốt trong phong trào xây dựng nông thôn mới, lựa chọn những nhân tố điển hình tiến tiến trong sản xuất - kinh doanh để nhân rộng;
- Hình thành câu lạc bộ doanh nhân nông thôn cấp tỉnh, nâng chất và củng cố các câu lạc bộ nông dân ở nông thôn. Nhằm tạo đều kiện thuận lợi cho nông thường xuyên tiếp cận những kiến thức mới áp dụng vào sản xuất - kinh doanh và đời sống; đồng thời cũng là nơi để cán bộ kỹ thuật, các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với nông dân.
- Tạo điều kiện và hướng dẫn nông dân xây dựng, củng cố và phát triển mô hình kinh tế hợp tác ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại nhằm tạo ra những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa với quy mô vừa và lớn. Gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm thông qua hợp đồng và có điều kiện thực hiện cơ giới hóa, cũng như việc chuyển giao và ứng dụng có hiệu quả tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Xuất phát từ nhu cầu tiêu thụ nguyên liệu của các doanh nghiệp và của thị trường, trên cơ sở đó thông qua các tổ chức đại diện cho quyền lợi của nông dân để tạo sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với người sản xuất thông qua hợp đồng kinh tế, đảm bảo lợi ích giữa các bên nhằm xây dựng ngành hàng và nắm chắc chân hàng, chủ động nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
g) Từng bước thiết lập hệ thống bảo đảm xã hội ở nông thôn:
Thực hiện sự điều tiết đối với nền kinh tế thị trường và bằng chính sách, pháp luật, Nhà nước bảo đảm hình thành ba hệ thống bảo hiểm đối với người nông dân như: Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm hưu trí cho nông dân; Bảo hiểm trong sản xuất, kinh doanh.
h) Tăng cường đào tạo nâng cao năng lực cán bộ Hội Nông dân:
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thực tập hợp nông dân. Làm cho Hội Nông dân thật sự là lực lượng nòng cốt trong các phong trào nông dân, đủ sức làm cánh tay nối dài để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế hợp tác và xây dựng đời sống khu dân cư.
Để thực hiện Đề án “Tăng cường vai trò, năng lực của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2007 - 2010”, đạt hiệu quả cao:
- Thành lập Ban chỉ đạo vận động nông dân tham gia Đề án “Tăng cường vai trò, năng lực của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2007 - 2010”. Gồm UBND từng cấp và các ngành có liên quan. Trong đó: UBND làm trưởng ban, Các phó ban là Hội Nông dân và ngành nông nghiệp - phát triển nông thôn.
- Ban chỉ đạo Đề án “Tăng cường vai trò, năng lực của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2007 - 2010” hàng năm có kế hoạch cụ thể thực hiện đề án. Ủy ban nhân dân tỉnh, huyện hàng năm trích một phần kinh phí từ ngân sách để tổ chức thực hiện đề án.
- Định kỳ 6 tháng sơ kết báo cáo tại kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG |