Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1983
Số hiệu: 9-LCT/HĐNN7 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Hội đồng Nhà nước Người ký: Trường Chinh
Ngày ban hành: 25/02/1983 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 15/04/1983 Số công báo: Số 6
Lĩnh vực: Đất đai, Thuế, phí, lệ phí, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 9-LCT/HĐNN7

Hà Nội, ngày 25 tháng 2 năm 1983

 

PHÁP LỆNH

VỀ THUẾ NÔNG NGHIỆP

Để chính sách thuế nông nghiệp được công bằng, hợp lý và thống nhất trong cả nước, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, khuyến khích thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích trồng trọt ;
Căn cứ vào Điều 83 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ;
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ 4, ngày 28 tháng 12 năm 1982 ;
Pháp lệnh này quy định về thuế nông nghiệp.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Mọi tổ chức và cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, hoặc các loại đất khác vào sản xuất nông nghiệp, đều có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp.

Điều 2

Căn cứ để tính thuế nông nghiệp là :

a) Diện tích và hạng đất, đối với đất trồng cây hàng năm.

b) Diện tích và sản lượng hàng năm, hoặc giá trị sản lượng hàng năm, đối với đất vườn và đất trồng cây lâu năm.

Thuế nông nghiệp chủ yếu thu bằng thóc. Việc thu bằng nông sản khác hoặc bằng tiền thay cho hiện vật, do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 3

Đất khai hoang, đất phục hoá chưa phải chịu thuế nông nghiệp, kể từ vụ thu hoạch đầu tiên, trong thời hạn như sau :

a) Đối với đất khai hoang : từ 3 đến 5 năm.

b) Đối với đất phục hoá : từ 1 đến 3 năm.

Thời hạn chưa phải chịu thuế nông nghiệp đối với từng trường hợp do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương quyết định, xét theo đề nghị của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Điều 4

Đối với đất khai hoang, phục hoá thuộc các vùng kinh tế mới đã đến hạn phải chịu thuế, nhưng sản xuất và đời sống của người khai hoang, phục hoá còn nhiều khó khăn thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương xét, quyết định kéo dài thêm thời hạn chưa phải chịu thuế nông nghiệp. Thời gian kéo dài thêm không quá 5 năm, đối với đất hoang ; không quá 3 năm, đối với đất phục hoá.

Điều 5

Đối với đất ở miền núi, nơi nhân dân mới chuyển sang định canh, định cư, đời sống chưa ổn định, hoặc đối với đất ở vùng rẻo cao, nếu sản xuất còn nhiều khó khăn, thì Uỷ ban nhân dân tỉnh xét, quyết định thời hạn chưa phải chịu thuế nông nghiệp.

Điều 6

Đất ở không phải chịu thuế nông nghiệp.

Chương 2:

CÁCH TÍNH THUẾ VÀ BIỂU THUẾ

Điều 7

Căn cứ vào độ phì (nông hoá, thổ nhưỡng) và điều kiện tưới, tiêu, thể hiện ở năng xuất trung bình hàng năm trong điều kiện canh tác bình thường, đất trồng cây hạng năm được phân là 7 hạng như sau :

Hạng đất Năng suất trung bình hàng năm tính bằng

Ki - lô - gam thóc trên 100 mét vuông

1 Từ 50 kg trở lên

2 Từ 40 kg đến dưới 50 kg

3 Từ 30 kg ;; 40 kg

4 Từ 25 kg ;; 30 kg

5 Từ 20 kg ;; 25 kg

6 Từ 15 kg ;; 20 kg

7 Dưới 15 kg

Việc phân hạng đất do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn làm, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Bảng phân hạng đất, sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương duyệt và Hội đồng bộ trưởng phê chuẩn, được dùng làm căn cứ tính thuế trong thời hạn 5 năm.

Điều 8

Đất trồng cây hàng năm chịu thuế theo định xuất như sau :

Hạng đất Định suất tính bằng ki-lô-gam thóc trên 100 mét vuông

 

Xã đồng bằng Xã trung du Xã miền núi

1 7,0 6,5 5,8

2 5,6 5,2 4,6

3 4,2 3,9 3,5

4 3,5 3,2 2,9

5 2,8 2,6 2,3

6 2,1 1,9 1,7

7 1,0 0,8 0,6

Đất trồng cây dược liệu đặc biệt, chịu thuế theo quy định riêng.

Điều 9

Đối với đất vườn, đất trồng cây lâu năm, thuế tính theo tỷ lệ trên sản lượng hàng năm hoặc giá trị sản lượng hàng năm, tuỳ theo loại cây trồng :

1- Cây lấy gỗ, cây lấy lá 8%

2- Cây ăn quả 10% đến 30%

3- Cây công nghiệp lâu năm và cây khác 12%

Thuế suất áp dụng cho từng loại cây ăn quả, có tính đến quy mô vườn cây ăn quả của mỗi hộ, do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Sản lượng hàng năm hoặc giá trị sản lượng hàng năm của từng loại cây do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ; sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương duyệt, thì được dùng làm căn cứ tính thuế.

Điều 10

Đối với đất do hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất nông nghiệp sử dụng, tính thuế theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này.

Đối với phần đất, kể cả đất vườn, đất trồng cây lâu năm giao lại cho xã viên, tập đoàn viên để làm kinh tế phụ gia đình, thuế tính như đối với đất do hợp tác xã, tập đoàn sản xuất sử dụng.

Điều 11

Đối với đất do nông trường quốc doanh và các trạm, trại quốc doanh sử dụng, thì không áp dụng chế độ thuế nông nghiệp, mà áp dụng chế độ giao nộp sản phẩm và các chế độ thu của Nhà nước đối với xí nghiệp quốc doanh.

Đối với phần đất giao lại cho cán bộ, công nhân, viên chức nông trường, trạm trại để làm kinh tế phụ gia đình, thì thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này.

Điều 12

Đối với đất do các hộ nông dân cá thể sử dụng, thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này, cộng thêm một khoản phụ thu tính trên tổng số thuế của hộ, không kể số thuế đối với đất hạng 7, đối với đất vườn và đất trồng cây lâu năm.

Tỷ lệ phụ thu được xác định căn cứ vào diện tích đất sử dụng của mỗi hộ, không tính đất hạng 7, đất vườn và đất trồng cây lâu năm.

Mức diện tích để tính phụ thu Tỷ lệ phụ thu

Từ 0,5 ha trở xuống Không tính phụ thu

Trên 0,5 đến 1 ha 10%

Trên 1 ha đến 2 ha 20%

Trên 2 ha đến 3 ha 40%

Trên 3 ha 60%

Điều 13

Đối với đất do các tổ chức và cá nhân khác sử dụng để sản xuất nông nghiệp, thuế tính theo quy định ở Điều 7, Điều 8, Điều 9 của Pháp lệnh này.

Điều 14

Thuế nông nghiệp thu mỗi năm một hoặc hai lần theo thời vụ của các cây trồng chính trong năm. Mức thuế phải nộp từng vụ và thời hạn nộp thuế do Hội đồng bộ trưởng quy định cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và đơn vị hành chính tương đương.

Chương 3:

GIẢM THUẾ, MIỄN THUẾ

Điều 15

Thuế nông nghiệp có thể được giảm hoặc miễn trong các trường hợp sau đây :

a) Do thiên tai, địch hoạ mà mùa màng bị thiệt hại nặng.

b) Do tổ chức lại sản xuất hoặc thay đổi quy hoạch và phương án kinh tế - kỹ thuật được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt mà thu nhập của tổ chức, cá nhân chịu thuế bị giảm sút nhiều so với trước.

Điều 16

Những hộ trước đây được miễn thuế, nay phải nộp thuế theo Pháp lệnh này, nếu đời sống có nhiều khó khăn, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt, thì được miễn phụ thu quy định ở Điều 12 của Pháp lệnh này.

Điều 17

Những hộ là gia đình thương binh, liệt sĩ, nếu đời sống có nhiều khó khăn, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận và được Uỷ ban nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt, thì được miễn phụ thu. Sau khi miễn phụ thu mà đời sống vẫn còn khó khăn thì được xét giảm thuế.

Điều 18

Hội đồng bộ trưởng quy định cụ thể việc giảm thuế, miễn thuế trong các trường hợp nói ở Điều 15, Điều 16, Điều 17 của Pháp lệnh này.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương , hoặc đơn vị hành chính tương đương được quyền quyết định giảm thuế, miễn thuế trong các trường hợp nói ở Điều 15, Điều 16, Điều 17 của Pháp lệnh này, trong phạm vi không quá 5% tổng số thuế ghi thu cả năm của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương. Trong trường hợp cần miễn, giảm quá mức quy định trên đây thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương đề nghị Hội đồng bộ trưởng quyết định.

Chương 4:

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 19

Hội đồng bộ trưởng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện toàn bộ công tác thuế nông nghiệp.

Bộ Tài chính tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp và chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác này.

Các ngành hữu quan từ trung ương đến địa phương, phải làm tròn trách nhiệm đối với công tác thuế nông nghiệp trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình.

Điều 20

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp và các ngành trong địa phương tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp trong địa phương mình ; bảo đảm thu thuế đúng chính sách, đạt chỉ tiêu, đúng thời hạn ; kiện toàn bộ máy thu thuế ; kịp thời động viên, khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên khen thưởng các tổ chức và cá nhân có nhiều thành tích trong công tác thuế nông nghiệp.

Điều 21

Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp dưới thực hiện công tác thuế nông nghiệp ; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc xác định diện tích chịu thuế, phân hạng đất, xác định sản lượng đất vườn và đất trồng cây lâu năm, tính thuế, lập sổ thuế và thu thuế ; duyệt sổ thuế đúng thời hạn ; chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc giảm thuế, miễn thuế theo quy định của pháp luật.

Điều 22

Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp ở địa phương mình : tuyên truyền, giải thích chính sách thuế nông nghiệp ; kiểm kê diện tích chịu thuế, phân hạng đất, xác định sản lượng đất vườn và đất trồng cây lâu năm, tính thuế, lập sổ thuế ; tổ chức thu thuế và nhập kho thóc thuế ; kiện toàn tổ chức giúp việc là Ban thuế nông nghiệp xã, phường, thị trấn.

Điều 23

Mọi tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp phải kê khai đúng diện tích, hạng đất cây hàng năm, sản lượng đất vườn và đất trồng cây lâu năm, nộp đủ và đúng hạn số thuế phải nộp.

Tổ chức và cá nhân nào thấy việc thi hành chính sách thuế nông nghiệp đối với đơn vị hoặc bản thân mình không đúng pháp luật thì có quyền khiếu nại với Uỷ ban nhân dân nơi lập sổ thuế. Trong trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân nơi mình khiếu nại thì có quyền khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.

Trong khi chờ giải quyết, người khiếu nại vẫn phải nộp đủ và đúng hạn số thuế ấn định.

Chương 5:

KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT

Điều 24

Địa phương, tổ chức hoặc cá nhân nào có nhiều thành tích trong công tác thuế nông nghiệp thì được khen thưởng.

Bộ Tài chính được trích bằng tiền một tỷ lệ nhất định trên số thuế thu được hàng năm để thành lập quỹ khen thưởng về công tác thuế nông nghiệp.

Mức trích, thể thức lập và sử dụng quỹ khen thưởng do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 25

1- Tổ chức hoặc cá nhân nào có hành vi gian lận trong việc tính thuế, nộp thuế, hoặc dây dưa trong việc nộp thuế thì bị xử phạt theo một hoặc nhiều hình thức dưới đây :

a) Cảnh cáo.

b) Phạt tiền hoặc hiện vật đến hai lần số thuế thiếu.

2- Người nào cản trở hoặc xúi giục người khác cản trở việc thi Hành Pháp lệnh này, hoặc cản trở việc điều tra và xử lý các vụ vi phạm Pháp lệnh thì tuỳ theo mức độ nhẹ, nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy tố trước pháp luật.

Điều 26

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che cho người vi phạm Pháp lệnh về thuế nông nghiệp, làm trái các quy định về thuế nông nghiệp, hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thi hành Pháp lệnh về thuế nông nghiệp, thì bị xử lý theo kỷ luật hành chính. Nếu hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy tố trước pháp luật.

Chương 6:

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 27

Những quy định trước đây về thuế nông nghiệp trái với Pháp lệnh này, đều bãi bỏ.

Hội đồng bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này.

 

 

Trường Chinh

(Đã ký)

 

- Nội dung này bị bãi bỏ bởi Điều 1 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 1

Bỏ đoạn "..., thúc đẩy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn," trong đoạn đầu phần mở đầu của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1, 2 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 1. - Những tổ chức và cá nhân được giao đất nông nghiệp hoặc các loại đất khác dùng vào sản xuất nông nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp là:

a) Các hợp tác xã nông nghiệp, các tập đoàn sản xuất nông nghiệp.

b) Các hộ tư nhân, các hộ nông dân sản xuất riêng lẻ sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.

c) Các xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trạm, trại quốc doanh, cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, trường học... sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.

d) Các tổ chức xã hội, các đoàn thể (nhà thờ, chùa, đền, thánh thất, Hội nông dân, Đoàn thanh niên...) sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.

đ) Các xã viên hợp tác xã, tập đoàn viên tập đoàn sản xuất nông nghiệp; công nhân, viên chức, các cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trạm, trại quốc doanh; cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và các cá nhân khác có sử dụng đất làm kinh tế gia đình.

Điều 2.

a) Những loại đất phải chịu thuế nông nghiệp bao gồm:

- Đất nông nghiệp, kể cả đồng cỏ, bãi bồi, mặt nước nhỏ nuôi trồng thuỷ sản.

- Đất khác, nếu dùng vào sản xuất nông nghiệp (đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất dự trữ, đất trồng cây lấy gỗ, lấy lá không thuộc diện nộp tiền nuôi rừng...).

- Đất để vượt quá mức quy định tại điều 35 của Luật đất đai.

b) Những loại đất không phải chịu thuế nông nghiệp bao gồm:

- Đất làm trường học, trạm xá, nhà văn hoá, sân vận động cố định, bể bơi cố định, nghĩa trang, trụ sở xã, nhà kho, sân phơi, xưởng chế biến nông sản, trại chăn nuôi của các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, nông trường, lâm trường, trạm, trại quốc doanh sử dụng theo đúng nhiệm vụ thiết kế được duyệt.

- Đất để ở theo quy định tại điều 35 của Luật đất đai.

- Đất làm công trình giao thông thuỷ lợi lớn và vừa.

- Đất khai hoang, phục hoá trồng cây hàng năm chưa đến hạn chịu thuế nông nghiệp.

- Đất ở vùng rẻo cao, vùng mới định canh, định cư được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương quyết định chưa chịu thuế nông nghiệp.

c) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương căn cứ vào diện tích các loại đất đã đo đạc theo Chỉ thị số 299-TTg ngày 10-11- 1980 của Thủ tướng Chính phủ và chính sách thuế nông nghiệp để xác định diện tích đưa vào tính thuế.

Hàng năm Bộ Tài chính duyệt diện tích đất chịu thuế cây hàng năm và cây lâu năm của các địa phương để trình Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 và Điều 2 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 1.- Những tổ chức và cá nhân dưới đây có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp:

a) Các hợp tác xã nông nghiệp, các tập đoàn sản xuất nông nghiệp được công nhận là có quy chế như hợp tác xã nông nghiệp.

b) Các hộ nông dân sản xuất riêng lẻ, bao gồm cả các hộ nông dân đã tham gia các tổ chức đoàn kết sản xuất, các tập đoàn sản xuất nông nghiệp chưa được công nhận là hợp tác xã nông nghiệp.

c) Các xí nghiệp (trừ nông trường và trạm, trại nông nghiệp quốc doanh), cơ quan, đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang có sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.

d) Các hội tư nhận và tổ chức xã hội (nhà thờ, thánh thất, chùa, đền,...) có sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp.

e) Các xã viên hợp tác xã, tập đoàn viên các tập đoàn sản xuất nông nghiệp có quy chế như hợp tác xã nông nghiệp, công nhân, viên chức các cơ quan, xí nghiệp. (kể cả của nông trường, trạm, trại quốc doanh), cán bộ, chiến sĩ và các lực lượng vũ trang và cá nhân khác có sử dụng đất làm kinh tế phụ gia đình.

Điều 2.-

a) Những loại đất dưới đây phải chịu thuế nông nghiệp:

- Đất nông nghiệp, kể cả mặt nước nhỏ, đồng cỏ, bãi bồi.

- Đất khác( đất lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư, đất dự trữ..) nếu dùng vào sản xuất nông nghiệp, kể cả đất trồng cây lấy gỗ, lấy lá không thuộc diện phải nộp tiền nuôi rừng.

b) Những loại đất dưới đây không phải chịu thuế nông nghiệp:

- Đất làm trường học, trạm xá, nhà văn hoá, trụ sở của xã, đất làm nhà kho, sân phơi, nhà xưởng chế biến nông sản, chuồng chăn nuôi của hợp tác xã.

- Đất để ở, gồm diện tích thực tế đang sử dụng làm nền nhà, sân phơi, chuồng chăn nuôi và những công trình phụ khác.

- Đất do nông trường và trạm, trại nông nghiệp quốc doanh quản lý, sử dụng theo đúng nhiệm vụ thiết kế được duyệt.

- Đất làm công trình giao thông, thuỷ lợi lớn và vừa.

- Đất khai hoang, phục hoá chưa đến hạn chịu thuế. Đất ở vùng rẻo cao, ở vùng mới định canh định cư được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương quyết định chưa phải chịu thuế nông nghiệp.

- Nghĩa trang, sân vận động cố định, bể bơi cố định.

- Đất chưa giao cho tổ chức hoặc cá nhân nào quản lý, sử dụng.

c) Tổng cục Quản lý ruộng đất của Bộ Tài chính hướng dẫn và kiểm tra Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc xác định đất phải chịu thuế hoặc không phải chịu thuế nông nghiệp.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điều 3, 4 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 3. - Hạng đất tính thuế đối với đất trồng cây hàng năm (trừ cây công nghiệp ngắn ngày) giữ theo hạng đất tính thuế đã xác định trong hai năm 1984-1985. Đồng thời, phải điều chỉnh nâng hạng đất tính thuế đối với các vùng đất đã chuyển cây trồng có thu nhập cao hoặc chuyển từ đất một vụ thành đất hai vụ do kết quả đầu tư về thuỷ lợi, cải tạo đất...

Đất mới đưa vào tính thuế (bao gồm cả đất nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh) được xếp hạng tính thuế theo hạng đất của ruộng liền canh hoặc của ruộng đất có điều kiện và kết quả sản xuất tương tự ở địa phương.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chỉ đạo Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác định lại hạng đất tính thuế và tổng hợp bảng phân hạng đất tính thuế của địa phương trình Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn.
Điều 4. - Tỷ lệ quy đổi nông sản ra thóc để thực hiện phân đất, điều chỉnh hạng đất và thu thuế do Bộ Tài chính hướng dẫn.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điều 11 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 11.- Đối với đất trồng lúa, thuế thu chủ yếu bằng thóc; riêng các vùng cao, vùng xa đường giao thông, không có điều kiện vận chuyển sản phẩm để nộp thuế hoặc không có cơ quan thu mua hoặc đối với những địa phương nông dân có yêu cầu và Nhà nước có thể dùng tiền để mua đủ số thóc tương ứng thì thu bằng tiền.

- Đối với cây hàng năm khác: thu chủ yếu bằng tiền.

- Đối với các nông trường, lâm trường, trại, trạm quốc doanh: thu bằng tiền.

Giá để tính thuế bằng tiền thay hiên vật nông sản do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương quy định, căn cứ vào thời giá nông sản ở địa phương tại thời điểm thu thuế.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điều 10 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 10.- Thuế nông nghiệp thu chủ yếu bằng hiện vật. Đối với đất trồng lúa là chính thì thu bằng lúa. Đối với đất trống cây công nghiệp hàng năm hoặc các cây hàng năm khác, nếu địa phương có kế hoạch thu mua sản phẩm ấy thì thu bằng hiện vật. Trường hợp không thu bằng hiện vật thì thu bằng tiền. Giá lúa và nông sản khác để tính thuế do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương quy định căn cứ vào thời giá ở địa phương.

Tỷ lệ quy đổi giữa lúa và các nông sản khác do Bộ Tài chính công bố sau khi trao đổi với Bộ Lương thực và Bộ Nội thương, Bộ Công nghiệp thực phẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Điều 2 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 2

Sửa đổi Điều 6 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 như sau:

Điều 6 (mới)

Mức đất ở quy định giao cho mỗi hộ nông dân ở từng vùng tại Điều 35 của Luật đất đai không phải chịu thuế nông nghiệp. Nếu mức đất ở của mỗi hộ nông dân vượt quá mức quy định thì phần đất vượt mức phải chịu thuế nông nghiệp.

Xem nội dung VB
- Nguyên tắc phân hạng đất được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 3. - Nguyên tắc phân hạng đất là lấy độ phì và điều liện tưới tiêu làm yếu tố chính, cả hai yếu tố này thể hiện ở năng suất trung bình đạt được hàng năm trong điều kiện canh tác bình thường. Năng suất trung bình hàng năm trong điều kiện canh tác bình thường là năng suất đạt được trong điều kiện thời tiết bình thường và kỹ thuật canh tác phổ biến của nhân dân địa phương. Để xác định năng suất trung bình hàng năm, cần tham khảo sản lượng của 3 năm gần đây (1980 - 1981 - 1982), loại trừ những vụ mất mùa.

Khi tính năng suất trung bình hàng năm, chỉ tính những vụ chính, nhiều nhất là 2 vụ, không tính vụ phụ do người sử dụng đất tranh thủ làm thêm. Trường hợp năng suất trung bình đạt ngang nhau nhưng độ phì và điều kiện tưới, tiêu khác nhau thì xếp hạng đất khác nhau. Trường hợp độ phì và điều kiện tưới tiêu giống nhau, nhưng do trình độ thâm canh khác nhau mà đạt năng xuất trung bình khác nhau thì xếp cùng một hạng đất.

Năm 1983, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương ra quyết định tạm thời xếp hạng đất để làm căn cứ tính thuế.

Việc chính thức công bố xếp hạng đất làm căn cứ tính thuế trong thời hạn 5 năm sẽ được tiến hành sau khi Bộ Tài chính phối hợp với Tổng cục Quản lý ruộng đất, Bộ Nông nghiệp và Bộ Thuỷ lợi kiểm tra, trình Hội đồng bộ trưởng quyết định.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 5, Điều 7 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 5. - Đối với đất chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu đặc biệt, thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên sản lượng thực thu hàng năm như sau:

- Cây công nghiệp ngắn ngày: 10%

- Cây dược liệu đặc biệt: 20%.

Đất trồng cây dược liệu khác tính thuế như đối với đất trồng cây hàng năm quy định tại điều 3 của Nghị định này.

Đất trồng cây lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày và cây dược liệu đặc biệt không áp dụng Quy định này.
...
Điều 7. - Sản lượng tính thuế của cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu đặc biệt; sản lượng hoặc giá trị sản lượng của cây lâu năm và vườn tạp do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương duyệt thì được dùng làm căn cứ tính thuế.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 4 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 4. - Đất trồng cây hàng năm, bất kể là trồng lúa hay thứ cây hàng năm nào khác (đay, mía, lạc, đỗ, thuốc lá, rau, hoa, hành, tỏi, v. v...) đều chịu thuế như đất trồng lúa, được phân hạng đất và chịu thuế theo định suất tính bằng lúa như quy định ở điều 7, điều 8 của Pháp lệnh.

Đất trồng cây dược liệu đặc biệt chịu thuế theo quyết định riêng của Hội đồng bộ trưởng.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được sửa đổi bởi Điều 3 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 3

Sửa đổi đoạn cuối Điều 8 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 thành khoản 2 (mới) như sau:

Khoản 2 (mới) của Điều 8

a) Đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày chịu thuế suất 10% trên sản lượng hàng năm;

b) Đất trồng cây dược liệu đặc biệt chịu thuế suất 20% trên sản lượng hàng năm;

c) Đất trồng cây dược liệu khác chịu thuế như đất trồng cây hàng năm quy định tại khoản 1 Điều 8 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 6, Điều 7 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 6. - Đối với đất vườn, đất trồng cây lâu năm, thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên sản lượng hoặc giá trị sản lượng hàng năm, tuỳ theo loại cây trồng căn cứ diều 9 Pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 30 tháng 1 năm 1989.

Bộ Tài chính cụ thể hoá từng loại cây theo các thuế suất đã quy định.
Điều 7. - Sản lượng tính thuế của cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu đặc biệt; sản lượng hoặc giá trị sản lượng của cây lâu năm và vườn tạp do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương duyệt thì được dùng làm căn cứ tính thuế.

Xem nội dung VB
- Việc định sản lượng được hướng dẫn bởi Điều 5 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 5.- Khi định sản lượng đất vườn, đất trồng cây lâu năm, phải phân biệt thời kỳ mới bắt đầu thu hoạch, thời kỳ thu hoạch ổn định và thời kỳ thu hoạch giảm dần của cây trồng để định sản lượng cho sát với tuổi cây.

Để định giá trị sản lượng thì căn cứ vào sản lượng và thời giá trung bình trong vụ thu hoạch ở địa phương. Nếu là vườn tạp trồng nhiều thứ cây thì căn cứ vào thu nhập trung bình trên đơn vị diện tích của đa số người có vườn tạp ở địa phương.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Điều 4 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 4

Sửa đổi Điều 9 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 như sau:

Điều 9 (mới)

Thuế nông nghiệp đối với đất vườn, đất trồng cây lâu năm tính theo tỷ lệ (%) trên sản lượng hoặc giá trị sản lượng hàng năm tuỳ theo loại cây trồng.

1- Cây công nghiệp lâu năm:

a) Cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao 14%

b) Cây công nghiệp lâu năm khác 12%

2- Cây ăn quả:

a) Cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao 20%

b) Cây ăn quả khác 16%

c) Vườn cây ăn quả do các cụ phụ lão trong

hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp

hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường quản lý 14%

3- Cây lấy lá, lấy gỗ:

a) Cây lấy lá, lấy gỗ có giá trị kinh tế cao 15%

b) Cây lấy lá, lấy gỗ khác 10%

4- Cây lâu năm khác 12%.

Sản lượng hoặc giá trị sản lượng hàng năm của từng loại cây do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác định dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; sau khi được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương duyệt, thì được dùng làm căn cứ tính thuế.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điều 6 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 6. - Thuế suất áp dụng cho từng loại cây ăn quả, có tính đến quy mô của vườn cây ăn quả của mỗi hộ, không phân biệt hộ nông dân cá thể hay hộ xã viên, công nhân, viên chức,... quy định như sau:

- Cây ăn quả nói chung:

Diện tích đến 1.000m2: thuế suất 20 %

Diện tích đến 5.000m2: thuế suất 24 %

Diện tích trên 5.000m2: thuế suất 28 %

- Cây ăn quả đặc sản, giá trị kinh tế cao

Diện tích đến 1.000m2: thuế suất 22 %

Diện tích đến 5.000m2: thuế suất 26 %

Diện tích trên 5.000m2: thuế suất 30 %

Vườn cây ăn quả thuộc kinh tế tập thể, không phân biệt quy mô chịu thuế theo thuế suất dưới đây:

- Cây ăn quả nói chung 18%.

- Cây ăn quả đặc sản,giá trị kinh tế cao 20%

Riêng vườn cây ăn quả thuộc kinh tế tập thể do các tổ phụ lão trông nom, chăm sóc, không phân biệt quy mô và loại cây ăn quả, chịu thuế theo thuế suất 10%.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương, căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương, quy định danh mục các cây ăn quả đặc sản, giá trị kinh tế cao.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Điều 5 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 5

Sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 như sau:

Điều 10 (mới)

Đối với đất do hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân cá thể sử dụng, thuế tính theo quy định tại Điều 7, Điều 8 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 và Điều 2, Điều 3 của Pháp lệnh này.

Đối với phần đất, kể cả đất vườn, đất trồng cây lâu năm giao lại cho xã viên, tập đoàn viên để làm kinh tế gia đình và đất ở vượt mức quy định tại Điều 35 của Luật đất đai, thuế tính như đối với đất do hợp tác xã, tập đoàn sản xuất sử dụng.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 56-TC/TCT năm 1990 (VB hết hiệu lực: 16/10/1999)

Để thi hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 30 tháng 1 năm 1989 và Nghị định số 52-HĐBT, ngày 27-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng, quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nông nghiệp cho phù hợp với các nông, lâm trường, trạm trại quốc doanh và sau khi có sự tham gia ý kiến của Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Quốc phòng, Tổng Cục quản lý ruộng đất và các Bộ, các ngành liên quan; Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành chính sách thuế nông nghiệp đối với các nông trường, lâm trường và các trạm trại quốc doanh như sau:

1. Các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp theo quy định tại Điều 11 (mới) pháp lệnh thuế nông nghiệp và chi tiết tại điểm c Điều 1 Nghị định số 52-HĐBT bao gồm: các công ty, xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp nông công nghiệp hoặc lâm, nông công nghiệp hoặc nông lâm công nghiệp, nông trường, lâm trường, trạm trại nông nghiệp quốc doanh kể cả trạm trại thí nghiệm nghiên cứu khoa học trạm trại giống, trại cải tạo... gọi chung là các nông trường, lâm trường trạm trại quốc doanh; không phân biệt cấp, ngành quản lý bao gồm: cả Trung ương và địa phương, thuộc tất cả các Bộ, ngành quản lý bao gồm cả sự nghiệp, quốc phòng, an ninh, giáo dục và đào tạo... không phân biệt phương thức hạch toán (hạch toán kinh tế hay đơn vị sự nghiệp); không phân biệt mục đích phục vụ hay tính chất của sản phẩm... được giao đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp đều có nghĩa vụ nộp thuế nông nghiệp.

Các xí nghiệp, công ty, trạm trại... nuôi trồng thuỷ sản có văn bản quy định riêng.

Các nông trường, lâm trường và trạm trại quốc doanh có vốn đầu tư của tổ chức cá nhân nước ngoài hoặc do tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp đã nộp thuế tài nguyên theo Điều 1 của Pháp lệnh thuế tài nguyên hoặc đã nộp tiền thuế theo Điều 29 và nộp thuế lợi tức theo Điều 26 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì không phải nộp thuế nông nghiệp; Trường hợp chưa nộp thuế tài nguyên hoặc chưa nộp tiền thuế theo Điều 29 và chưa nộp thuế lợi tức theo Điều 26 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì phải nộp thuế nông nghiệp theo quy định hiện hành của nhà nước Việt Nam được hướng dẫn cụ thể tại thông tư này.

2. Phạm vi áp dụng:

a) Thuế nông nghiệp áp dụng đối với các hoạt động sản xuất có sử dụng đất vào trồng trọt của các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh như nói ở điểm 1 bao gồm:

- Trồng cây hàng năm;

- Trồng cây lâu năm (không kể rừng đang thực hiện thu thuế tài nguyên hoặc tiền nuôi rừng);

- Đồng cỏ dùng vào chăn nuôi.

b) Thuế nông nghiệp không áp dụng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài trồng trọt của nông trường lâm trường trạm trại quốc doanh như:

- Giai đoạn sản xuất, chế biến các loại nông sản thành phẩm công nghiệp hoặc chế biến nông sản, nguyên liệu mua ngoài thành bán sản phẩm công nghiệp;

- Hoạt động xây dựng cơ bản;

- Hoạt động kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ;

- Các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp khác. Những hoạt động này chịu các loại thuế khác theo Luật định.

Như vậy, trong một đơn vị kinh tế quốc doanh: nếu chỉ có hoạt động sản xuất trồng trọt, thì chỉ nộp một loại thuế nông nghiệp; nếu vừa có hoạt động sản xuất trồng trọt, vừa có hoạt động sản xuất kế tiếp như công nghiệp chế biến hoặc các hoạt động khác như xây dựng cơ bản, kinh doanh dịch vụ, thương nghiệp... thì nộp thuế nông nghiệp đối với hoạt động sản xuất trồng trọt và nộp thuế doanh thu hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế lợi tức v.v... đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp.

3. Tính thuế và lập sổ thuế:

a) Xác định diện tích: Diện tích tính thuế là diện tích được quy hoạch theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật được cấp có thẩm quyền xét duyệt theo tiến độ sử dụng vào sản xuất kinh doanh hàng năm của đơn vị theo đúng quy định tại điều 2 Nghị định số 52-HĐBT ngày 27 tháng 5 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng và cụ thể tại mục II thông tư số 23-TC/TNN ngày 17 tháng 6 năm 1989 của Bộ Tài chính.

Căn cứ vào kết quả đo đạc diện tích các loại đất theo chỉ thị số 299-TTg ngày 10 tháng 11 năm 1980 của Thủ tướng Chính phủ, đất chịu thuế nằm trong quy hoạch của nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh được xác định và chia theo đối tượng sử dụng đất:

- Diện tích do nông lâm trường, trạm trại quốc doanh trực tiếp quản lý và sử dụng;

- Diện tích giao lại cho cán bộ công nhân viên sử dụng làm kinh tế gia đình hoặc giao khoán (nếu có);

- Diện tích đất ở của các hộ cán bộ công nhân viên của nông lâm trường trạm trại nằm trong diện tích quy hoạch của nông lâm trường trạm trại vượt quá mức quy định tại điều 35 Luật đất đai quy định cho từng vùng do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố Quyết định;

- Diện tích giao cho các tổ chức, cá nhân khác không phải là các đơn vị, cán bộ công nhân viên của nông trường, lâm trường trạm trại quốc doanh. Theo hướng dẫn của cơ quan thuế địa phương, giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị phải kê khai toàn bộ diện tích đang sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như đã nêu ở trên. Cơ quan trực tiếp quản lý thu thuế kết hợp với cơ quan quản lý ruộng đất cùng cấp có trách nhiệm kiểm tra xác định diện tích tính thuế cho từng nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh.

Trường hợp diện tích của nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh không đảm bảo độ tin cậy cho việc xác định diện tích thuế, thì theo đề nghị của cơ quan thuế, cơ quan quản lý ruộng đất cùng cấp thực hiện đo đạc thống kê toàn bộ lại diện tích, mà đơn vị được giao quản lý sử dụng theo quy định của Tổng cục quản lý ruộng đất. Kết quả đo đạc, thống kê lại, sau khi được cơ quan quản lý ruộng đất cấp huyện kiểm tra và xác nhận được dùng làm căn cứ tính thuế. Trường hợp chưa đo đạc thông kê lại được, thì tạm tính thuế theo kê khai của người đứng đầu đơn vị nộp thuế.

b) Phân hạng đất đối với đất trồng cây hàng năm, định sản lượng hoặc giá trị sản lượng tính thuế đối với đất trồng cây lâu năm và đất chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày.

Đất trồng cây hàng năm (trừ đất chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày) được xếp hạng tính thuế theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 52-HĐBT; đồng thời phải căn cứ vào hạng đất của những diện tích liền canh do nông dân sản xuất, hoặc đất có độ phì điều kiện canh tác và kết quả sản xuất tương tự ở địa phương, không dược xác định hạng đất quá thấp hoặc quá cao so với hạng đất tính thuế của nông dân các vùng lân cận có đất đai và điều kiện sản xuất tương tự.

Việc xác định sản lượng hoặc giá trị sản lượng tính thuế đối với đất trồng cây lâu năm và chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày phải căn cứ vào:

- Năng suất cây trồng đã đạt được từ 2 đến 3 năm trước, loại trừ những vụ mất mùa và trừ những năm có thu hoạch nhưng đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản của cây lâu năm;

- Độ tuổi của cây trồng và kế hoạch sản xuất kinh doanh của nông trường, lâm trường, trạm trại trong năm kế hoạch;

- Năng suất của cùng loại cây trồng do nông dân sản xuất ở các vùng lân cận cố điều kiện canh tác, chất đất, mức đầu tư thâm canh... tương tự hoặc có thể so sánh được.

c) Lập sổ thuế: Nguyên tắc chung là: Đất thuộc địa giới hành chính địa phương nào, thì lập sổ thuế ở địa phương đó; cơ quan thuế các cấp tiến hành kiểm tra xác định diện tích tính thuế đồng thời là cấp lập sổ thuế cho các nông trường, lâm trường trạm trại quốc doanh; một số trường hợp cụ thể xử lý như sau:

- Cơ quan thuế xã lập sổ thuế đối với phần đất nằm ngoài phạm vi quản lý nhưng trong ranh giới của nông trường, lâm trường trạm trại quốc doanh do xã giao đất hoặc các hộ tự khai phá sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, phần đất ở của mỗi hộ gia đình vượt quá phạm vi quy định tại Điều 35 Luật đất đai mà đất đó nằm trong quy hoạch của nông trường, lâm trường, trạm trại.

- Chi cục thuế quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập sổ thuế đối với các nông trường, lâm trường, trạm trại sử dụng đất thuộc địa bàn một quận, huyện.

- Cục thuế tỉnh, thành phố lập sổ thuế đối với các nông trường, lâm trường, trạm trại do Trung ương và Tỉnh quản lý hoặc sản xuất trên địa bàn nhiều quận, huyện;

- Trường hợp nông trường, lâm trường, trạm trại sản xuất trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố thì địa phương có trụ sở của đơn vị đóng chịu trách nhiệm lập sổ thuế và tổ chức thu nộp thuế.

Cục thuế địa phương lập sổ thuế của nông trường, lâm trường, trạm trại, chịu trách nhiệm phối hợp với Cục thuế các tỉnh, thành phố có đất giao cho nông trường, lâm trường, trạm trại sử dụng xác định diện tích chịu thuế và lập sổ thuế.

Sổ thuế nông nghiệp được lập hàng năm, mỗi nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh là một đơn vị nộp thuế; đứng tên trong sổ thuế là giám đốc hoặc người đứng đầu đơn vị nộp thuế.

4. Tổ chức thu thuế, nộp thuế:

Người đứng tên trong sổ thuế chịu trách nhiệm nộp thuế vào kho bạc Nhà nước tại nơi lập sổ thuế; có trách nhiệm thuyết minh, cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc tính thuế và thu thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tổ chức thu nộp thuế của toàn ngành; Cục thuế tỉnh, thành phố tổ chức, phân cấp việc quản lý thu thuế cho các chi cục thuế các phòng nghiệp vụ thuộc Cục thuế đảm bảo hợp lý trong nội bộ địa phương, phù hợp với nơi lập sổ thuế và cấp quản lý nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh phù hợp với khả năng của các bộ phận và đảm bảo thuận lợi cho việc nộp thuế nông nghiệp và các loại thuế khác (nếu có) của đơn vị nộp thuế.

Các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh nộp thuế bằng tiền theo kế hoạch tháng, quý, năm do cơ quan thuế ấn định trên cơ sở tổng số thuế ghi thu cả năm và phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị nộp thuế. Người đứng đầu đơn vị nộp thuế có trách nhiệm thực hiện nộp thuế theo kế hoạch.

Giá thu thuế tại thời điểm nộp thuế là giá thu thuế bằng tiền thay thóc và các nông sản tính thuế ở địa phương do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương quyết định phù hợp với thời giá trung bình của nông sản tính thuế ở địa phương tại thời điểm thu thuế.

Căn cứ vào tổng số thuế ghi thu và kế hoạch đã định. Cơ quan thuế có trách nhiệm kiểm tra đôn đốc thu nộp thuế và thanh toán, quyết toán số thuế đã thu của từng nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh vào ngân sách Nhà nước theo năm ngân sách, cụ thể như sau:

- Đối với thuế đất trồng cây hàng năm (trừ đất chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày) khi kết thúc năm thuế thuế phải nộp đủ theo mức thuế đã ấn định trong sổ thuế; trường hợp có giảm thuế miễn thuế được quyết toán, khấu trừ khi đơn vị nộp thuế có báo cáo quyết toán.

- Đối với thuế đất trồng cây lâu năm và chuyên trồng cây công nghiệp ngắn ngày:

+ Nếu đã thoả thuận ổn định sản lượng tính thuế và mức thuế, kết thúc năm thuế phải nộp đủ theo mức thuế đã ấn định đầu năm trong sổ thuế;

+ Nếu thu theo thực tế thì phải xác định sản lượng hoặc giá trị sản lượng thực tế, từ đó xác định số thuế phải thu trừ số đã thu theo kế hoạch, xác định số còn phải thu hoặc số thuế nộp thừa chuyển sang năm sau.

Sản lượng, giá trị sản lượng để tính thuế và thu thuế theo nguyên tắc được tính trên giá trị của nông sản sau khi đã hoàn thành quá trình sản xuất nông nghiệp được thị trường xã hội chấp nhận tuỳ theo đặc điểm của mỗi loại cây trồng mỗi loại nông sản; Tuỳ theo đặc điểm của quá trình sản xuất của mỗi nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh, cụ thể một số sản phẩm phụ sau:

- Thuốc lá lá khô;

- Chè búp tươi, đối với nông trường bán nông sản cho xí nghiệp chế biến là che búp tươi, hoặc chuyển chè búp tươi sang chế biến ngay trong một nông trường;

- Chè búp sơ chế, đối với nông trường bán cho các xí nghiệp chế biến đã là sản phẩm sơ chế;

- Cao su mủ khô, cà phê nhân khô, hạt tiêu khô, hạt điều khô; đay, cói, sợi khô;

- Mía cây, dừa trái, dâu tươi nuôi tằm, cam quả, giá bán cỏ của đồng cỏ v..v..

Căn cứ vào nguyên tắc và cách hướng dẫn cụ thể trên, Cục thuế các tỉnh, thành phố, đặc khu quy định cụ thể cho những nông sản khác ở địa phương.

Đối với cây lâu năm: nông sản thu được trong thời kỳ xây dựng cơ bản chưa phải chịu thuế nông nghiệp (được miễn).

Lợi nhuận (lợi tức) thu được của các nông trường, lâm trường và các trạm trại quốc doanh không phải chịu thuế và nộp thuế lợi tức theo quy định tại điểm 2 Điều 2 Luật thuế lợi tức và điểm 1 Điều 2 Luật thuế doanh thu là toàn bộ lợi nhuận thu được do các hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc ngành trồng trọt đã nộp thuế nông nghiệp.

5. Giảm thuế, miễn thuế:

a) Các trường hợp giảm thuế, miễn thuế do thiên tai, địch hoạ, mùa màng thiệt hại nặng, do tổ chức lại sản xuất được thực hiện như đối với hộ nông dân cá thể, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Trường hợp nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh thực hiện khoán đến hộ cán bộ CNV hoặc giao đất cho hộ cá thể mà hộ cán bộ CNV là người trực tiếp nộp thuế như hộ xã viên nhận khoán trong hợp tác xã thì cũng thực hiện giảm thuế, miễn thuế theo hộ gia đình và cũng thực hiện chính sách giảm miễn xã hội như hộ gia đình nông dân. Số thuế miễn giảm này phải được quyết định trực tiếp cho hộ gia đình, không quyết định chung cho nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh.

b) Trường hợp đã thực hiện giảm thuế, miễn thuế ở các trường hợp quy định tại điểm a, mà sau khi nộp thuế nông nghiệp, lợi nhuận của đơn vị không đảm bảo mức tối thiểu để trích lập 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi theo quy định của Nhà nước thì được xét giảm thuế tiếp, nhưng mức giảm tối đa không quá mức tối thiểu để trích lập 2 quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của đơn vị.

c) Các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh được Hội đồng Bộ trưởng cho phép sản xuất kinh doanh những loại cây trồng cần khuyến khích phục vụ xuất khẩu hoặc là đơn vị duy nhất sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho một ngành công nghiệp chế biến mà cần khuyến khích đầu tư để mở rộng sản xuất, áp dụng các biện pháp thâm canh và các tiến bộ khoa học kỹ thuật; Nếu sau khi đã dùng hết nguồn vốn tự bổ sung của mình (vốn đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ, lãi sau khi nộp thuế...) mà phải dùng đến lợi nhuận trong năm để tái đầu tư, thì được xét giảm thuế nông nghiệp. Nhưng mức giảm tối đa không quá 10% số thuế nông nghiệp phải nộp trong năm.

Thẩm quyền xét và quyết định giảm thuế, miễn thuế nông nghiệp theo điểm a mục này được thực hiện theo quy định ở tại Điều 15, Điều 17, Điều 18 Pháp lệnh về thuế nông nghiệp hiện hành, Điều 8 Nghị định số 52-HĐBT ngày 27-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng và phần VI Thông tư số 23-TC/TNN ngày 17-6-1989 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và Nghị định số 52-HĐBT ngày 27-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng về thuế nông nghiệp.

Thẩm quyền xét và quyết định giảm thuế, miễn thuế nông nghiệp theo điểm b, c mục này của Thông tư này do Tổng cục thuế quyết định và được xét duyệt vào năm sau, khi nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh có báo cáo quyết toán chính thức gửi đến cơ quan trực tiếp quản lý thu thuế. Việc giảm thuế theo điểm b và c chỉ áp dụng đối với các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh sản xuất kinh doanh nông nghiệp thuần tuý với ngành trồng trọt là nhiệm vụ chủ yếu các hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp kể cả chế biến nông sản, xây dựng, thương nghiệp, dịch vụ ... là phụ, có doanh thu không chiếm quá 30% tổng doanh thu của đơn vị.

6. Thuế nông nghiệp thu được do các nông trường, lâm trường trạm trại quốc doanh nộp không thực hiện điều tiết cho Ngân sách xã. Riêng đối với phần do xã trực tiếp lập sổ thuế quản lý thu thuế thì thực hiện điều tiết cho Ngân sách xã và ngân sách các cấp theo chế độ hiện hành của Nhà nước.

Từ năm thuế 1991 tất cả các nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng nộp thuế nông nghiệp thực hiện nộp thuế nông nghiệp theo pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 30 tháng 1 năm 1989 được quy định chi tiết tại Nghị định số 52-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và hướng dẫn tại Thông tư này.

Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc các địa phương cần phản ánh kịp về Bộ Tài chính (Tổng cục thuế) để xem xét giải quyết.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Điều 6 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 6

Sửa đổi Điều 11 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 như sau:

Điều 11 (mới)

Đối với đất do nông trường, lâm trường và các trạm trại quốc doanh được giao sử dụng vào sản xuất nông nghiệp thì phải chịu thuế nông nghiệp và thuế tính theo quy định tại Điều 7, Điều 8 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 và Điều 2, Điều 3 của Pháp lệnh này.

Đối với phần đất giao lại cho cán bộ, công nhân, viên chức nông trường, lâm trường, trạm trại quốc doanh để làm kinh tế gia đình, thì thuế tính như đối với đất do các nông trường, lâm trường và trạm trại quốc doanh được giao sử dụng.

Xem nội dung VB
- Chế độ phụ thu đối với nông dân cá thể tại Điều này bị bãi bỏ bởi Điều 7 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 7

Bỏ chế độ phụ thu đối với nông dân cá thể quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Điều 8 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 8

Sửa đổi Điều 13 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 như sau:

Điều 13 (mới)

Đối với đất do các tổ chức và cá nhân khác sử dụng để sản xuất nông nghiệp, thuế tính theo quy định tại Điều 7, Điều 8 Pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 và Điều 2, Điều 3 của Pháp lệnh này.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 9 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 9.- Năm thuế nông nghiệp tính từ ngày 1 tháng 10 năm nay đến 30 tháng 9 năm sau đối với các tỉnh từ Bình Trị Thiên trở ra và từ ngày 1 tháng 12 năm nay đến 30 tháng 11 năm sau đối với các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào.

Thuế tính cả năm nhưng thu mỗi năm từ 1 đến 2 lần, tuỳ theo vụ sản xuất của mỗi cây trồng chính trong năm.

Hội đồng Bộ trưởng giao mức thu thuế cả năm cho từng tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.

Bộ Tài chính phân bố mức thu từng vụ cho từng tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương quy định và công bố ngày bắt đầu và kết thúc vụ thuế nông nghiệp của địa phương.

Xem nội dung VB
- Thu thuế nông nghiệp mỗi năm được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 8.

a) Năm thuế nông nghiệp tính thống nhất trong cả nước từ ngày 1 tháng 3 năm này đến hết tháng 2 năm sau, gồm 2 vụ thu hoạch chính trong năm.

Thuế tính cả năm, không tính từng vụ, nhưng thu mỗi năm 2 lần, nếu địa phương có 2 vụ thu hoạch chính; thu mỗi năm một lần nếu địa phương chỉ có một vụ thu hoạch chính. Căn cứ vào mức thuế phải nộp cả năm do Hội đồng bộ trưởng giao cho từng tỉnh, thành phố, đặc khu, Bộ Tài chính phân bổ mức thu từng vụ cho từng tỉnh, thành phố, đặc khu.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu quy định và công bố ngày bắt đầu và, ngày kết thúc việc thu thuế nông nghiệp trong toàn tỉnh hoặc trong từng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc chậm nhất một tháng sau khi kết thúc vụ thu hoạch ở địa phương, phải thu xong thuế nông nghiệp. Nộp thuế sau ngày kết thúc thì bị coi là nộp chậm và bị xử phạt theo điều 25 của Pháp lệnh.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Nghị định 19-HĐBT năm 1992

Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 30-1-1989 của Hội đồng Nhà nước
...
Điều 1. - Việc xét quyết định giảm thuế, miễn thuế trong trường hợp bị thiên tai, địch hoạ, mùa màng bị thiệt hại nặng phải căn cứ vào sản lượng thu hoạch thực tế so với mức sản lượng tính thuế trên toàn bộ diện tích đất chịu thuế của tổ chức, cá nhân nộp thuế.

Việc quyết định giảm thuế cho hộ xã viên, tập đoàn viên nhận khoán hoặc hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại theo tỷ lệ đã quy định tại điểm a, điều 8, Nghị định 52-HĐBT ngày 27-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Đối với trường hợp đất cây trồng lâu năm, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày được phân hạng đất tính thuế như đất trồng cây hàng năm thì việc xét giảm, miễn thuế được áp dụng theo quy định này.

Điều 2. - Thời hạn được miễn thuế nông nghiệp đối với đất mới khai hoang và đất phục hoá được tính từ vụ thu hoạch đầu tiên.

1. Thời hạn được miễn thuế nông nghiệp đối với đất mới khai hoang như sau:

a) Đối với đất trồng hàng năm: 3 năm. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy, ven biển: 5 năm.

b) Đối với đất trồng cây lâu năm, trừ đất trồng cây lấy gỗ: 3-4 năm.

2. Thời hạn được miễn thuế nông nghiệp đối với đất phục hoá như sau:

a) Đối với đất trồng cây hàng năm: 1 năm. Riêng đối với miền núi, đầm lầy và ven biển: 3 năm.

b) Đối với đất trồng cây lâu năm kể cả trồng lại mới, trừ đất trồng cây lấy gỗ: 2-3 năm.

Điều 3. - Trong trường hợp thiên tai địch hoạ mà mùa màng bị thiệt hại nặng, thuế nông nghiệp được xét và quyết định giảm hoặc miễn đối với vụ thu hoạch đó.

Điều 4.- Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ năm thuế nông nghiệp 1992.

Những quy định trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Điều 5. - Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định này. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc thi hành Nghị định này.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 8 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 8. - Việc xét và giải quyết giảm thuế, miễn thuế quy định như sau:

a) Trường hợp do thiên tai, địch hoạ mà mùa màng bị thiệt hại nặng thì lấy sản lượng thực tế thu hoạch cả năm so với sản lượng chịu thuế trên toàn bộ diện tích đất chịu thuế của tổ chức hoặc cá nhân nộp thuế để tính thiệt hại, rồi căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại mà miễn, giảm thuế theo tỷ lệ như sau:
(xem chi tiết bảng tại Khoản a Điều 8 Nghị định 52-HĐBT năm 1989)
b) Trường hợp do tổ chức lại sản xuất hoặc thay đổi quy hoạch và phương án kinh tế - kỹ thuật được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt (các Bộ, Tổng cục xét duyệt đối với các nông trường, trạm, trại quốc doanh do trung ương quản lý, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương xét duyệt đối với các đơn vị do địa phương quản lý) mà thu nhập của tổ chức hoặc cá nhân nộp thuế bị giảm sút nhiều so với trước thì được xét giảm, miễn thuế.

c) Thương bệnh binh; bố, mẹ, vợ liệt sĩ cô đơn, gia đình có công với cách mạng, gia đình nông dân nghèo thuộc dân tộc ít người và vùng căn cứ kháng chiến cũ, nếu già yếu, thiếu sức lao động, thu nhập thấp, không còn nguồn thu nhập nào khác, ốm đau, tai nạn bất ngờ, đời sống có nhiều khó khăn... được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được xét giảm miễn thuế theo quy định tại điều 17 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 và điều 9 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 30 thang 1 năm 1989.

d) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương được quyền quyết định giảm thuế, miễn thuế trong các trường hợp nói ở các điểm a, b, c trên đây trong phạm vi không quá 5% tổng số thuế ghi thu trong cả năm của tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.

Trường hợp thiên tai, địch hoạ nặng, cần giảm, miễn thuế nhiều hơn mức quy định trên thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương đề nghị Bộ Tài chính quyết định. Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện giảm, miễn thuế của các địa phương.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điều 1 Nghị định 19-HĐBT năm 1992

Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 30-1-1989 của Hội đồng Nhà nước,
...
Điều 1. - Việc xét quyết định giảm thuế, miễn thuế trong trường hợp bị thiên tai, địch hoạ, mùa màng bị thiệt hại nặng phải căn cứ vào sản lượng thu hoạch thực tế so với mức sản lượng tính thuế trên toàn bộ diện tích đất chịu thuế của tổ chức, cá nhân nộp thuế.

Việc quyết định giảm thuế cho hộ xã viên, tập đoàn viên nhận khoán hoặc hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại theo tỷ lệ đã quy định tại điểm a, điều 8, Nghị định 52-HĐBT ngày 27-5-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Đối với trường hợp đất cây trồng lâu năm, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày được phân hạng đất tính thuế như đất trồng cây hàng năm thì việc xét giảm, miễn thuế được áp dụng theo quy định này.

Xem nội dung VB
- Điều này bị bãi bỏ bởi Điều 9 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 9

Bỏ Điều 16 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 và thay bằng Điều 16 mới như sau:

Điều 16 (mới)

Đối với những hộ nông dân thuộc dân tộc thiểu số và những hộ nông dân nghèo ở vùng căn cứ kháng chiến cũ mà hiện nay đời sống có nhiều khó khăn, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận và Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt thì được giảm hoặc miễn thuế.

Xem nội dung VB
- Nội dung này bị bãi bỏ bởi Điều 10 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/01/1994)

Điều 10

Bỏ đoạn cuối "..., thì được miễn phụ thu. Sau khi miễn phụ thu mà đời sống vẫn còn khó khăn..." của Điều 17 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điều 7 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 7. - Việc xét và quyết định giảm thuế, miễn thuế quy định như sau:

a) Trường hợp do thiên tai, địch hoạ mà mùa màng bị thiệt hại nặng thì lấy thu hoạch thực tế cả năm so với năng suất khởi điểm của từng hạng đất để tính thiệt hại, rồi căn cứ vào tỷ lệ thiệt hại mà miễn giảm thuế theo tỷ lệ như sau:

- Thiệt hại đến 20%: không giảm thuế

- Thiệt hại đến 30%: giảm thuế 10%

- Thiệt hại đến 40%: giảm thuế 20%

- Thiệt hại đến 50%: giảm thuế 30%

- Thiệt hại đến 60%: giảm thuế 50%

- Thiệt hại đến 70%: giảm thuế 60%

- Thiệt hại trên 70%: miễn thuế

Đối với đất hạng 7, năng suất khởi điểm để tính thiệt hại là 10 kg trên 100 m2.

Đối với đất vườn, đất trồng cây lâu năm, vấn đề giảm thuế, miễn thuế không đặt ra.

b) Trường hợp do tổ chức lại sản xuất hoặc thay đổi lại quy hoạch và phương án kinh tế - kỹ thuật được chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố hoặc đặc khu trực thuộc trung ương xét duyệt mà thu thập của tổ chức, cá nhân chịu thuế bị giảm sút nhiều so với trước, thì Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xem xét cụ thể, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu quyết định.

c) Việc giảm thuế, miễn thuế do đời sống có nhiều khó khăn đối với những hộ trước đây được miễn thuế nông nghiệp theo chính sách cũ nay phải nộp thuế và đối với gia đình thương binh liệt sỹ quy định tại điều 16 và 17 của Pháp lệnh là thuộc các trường hợp sau đây già yếu, thiếu sức lao động, thu nhập thấp; ruộng đất ít, nhân khẩu nhiều, không có nguồn thu nhập nào khác; ốm đau, tai nạn bất ngờ làm giảm hoặc mất sức lao động... được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận.

d) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương được quyền quyết định giảm thuế hoặc miễn thuế trong các trường hợp nói ở điều 15, điều 16, điều 17 của pháp lệnh trong phạm vi không quá 5% tổng số thuế ghi thu cả năm của tỉnh, thành phố, đặc khu.

Trường hợp thiên tai, địch hoạ nặng cần miễn giảm nhiều hơn mức quy định trên thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu đề nghị Hội đồng bộ trưởng quyết định. Trường hợp mùa màng bình thường thì không được sử dụng mức quy định trên để miễn, giảm tràn lan.

Để Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thể chủ động giải quyết kịp thời việc giảm thuế, miễn thuế nói ở điều 16 và 17 của Pháp lệnh, hàng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu, trong phạm vi mức miễn, giảm quy định như trên, dự trù hạn mức miễn giảm giao cho từng huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Điều 13 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 13.- Bộ Tài chính tổ chức thực hiện công tác thuế rộng rãi và chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện công tác này.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp và các ngành trong địa phương tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp, thu đủ số thuế theo chỉ tiêu được Hội đồng Bộ trưởng giao.

Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chịu trách nhiệm về công tác thuế nông nghiệp của địa phương trước Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương.

Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn trực tiếp tổ chức thu nộp thuế chịu trách nhiệm giao đủ số thuế bằng hiện vật và bằng tiền cho ngân sách Nhà nước đúng kỳ hạn.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 14, Điều 15 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 14.- Ngành thuế nông nghiệp là cơ quan chuyên môn giúp chính quyền các cấp thực hiện công tác thuế nông nghiệp và trực tiếp thu thuế tại địa phương.

Hệ thống tổ chức ngành thuế nông nghiệp nằm trong ngành tài chính, được quản lý thống nhất từ trung ương đến xã. Cán bộ thuế nông nghiệp được hưởng chế độ trang cấp các phương tiện cần thiết để phục vụ công tác thuế nông nghiệp.

Điều 15.- Bộ Tài chính dự trù trong ngân sách Nhà nước một khoản kinh phí căn cứ vào nhiệm vụ thu được giao để phục vụ công tác thuế nông nghiệp, trình Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt hàng năm.

Bộ Tài chính quy định cụ thể chế độ trích lập và sử dụng khoản kinh phí này.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi đoạn thứ hai Điều 10 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 10.- Sổ thuế nông nghiệp lập hàng năm.
...
Đối với các nông trường, lâm trường, trạm, trại quốc doanh, các đơn vị lực lượng vũ trang... sổ thuế nông nghiệp lập tại cơ quan thuế nông nghiệp huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc cơ quan thuế nông nghiệp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và nộp thuế tại nơi lập sổ thuế.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi đoạn thứ nhất Điều 10 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 10.- Sổ thuế nông nghiệp lập hàng năm.

Đối với các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, xã viên, tập đoàn viên và các tổ chức, cá nhân khác được xã, phường, thị trấn giao đất để sản xuất nông nghiệp thì sổ thuế nông nghiệp lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn và nộp tại nơi lập sổ thuế.

Xem nội dung VB
- Sổ thuế nông nghiệp được hướng dẫn bởi Điều 9 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 9.- Sổ thuế nông nghiệp lập hàng năm theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Đất thuộc phạm vi quản lý hành chính của xã, phường, thị trấn nào thì đăng ký vào sổ địa chính và sổ thuế nông nghiệp của xã, phường, thị trấn đó, tính thuế và nộp thuế tại xã, phường thị trấn đó. Trường hợp sử dụng đất trồng cây hàng năm trên địa bàn xã, phường, thị trấn khác (xâm canh) thì người chịu thuế phải khai với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú về diện tích, hạng đất và số thuế phải nộp ở các xã, phường, thị trấn kia để Uỷ ban nhân dân xã, phường thị trấn nơi mình cư trú tính phụ theo điều 12 của Pháp lệnh (nếu tổng số diện tích sử dụng đến mức phải nộp phụ thu). Phụ thu nộp tại xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

Tổ chức hoặc cá nhân nào sử dụng đất mà không khai báo hoặc không nộp thuế theo quy định trên thì coi là có hành vi gian lận trong việc tính thuế, nộp thuế và bị xử phát theo điều 25 của Pháp lệnh.

Đứng tên trong sổ thuế nông nghiệp là tổ chức hoặc cá nhân được giao đất để sử dụng. Trường hợp tổ chức (nông trường, trạm, trại, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất...) giao lại một phần đất cho công nhân, viên chức, xã viên. .. để làm kinh tế phụ gia đình hoặc giao lại cho tổ chức và cá nhân khác để sản xuất tự túc, thì tổ chức có nhiệm vụ tính thuế và thu thuế của những người nhận đất để nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi tổ chức đóng trụ sở.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 14-TC/TNN-1984 (VB hết hiệu lực: 16/10/1999)

Tại Điều 22 Pháp lệnh thuế nông nghiệp quy định: "Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác thuế nông nghiệp ở địa phương mình...; kiện toàn tổ chức giúp việc là Ban thuế nông nghiệp xã, phường, thị trấn". Tiếp theo Thông tư số 49-TC/TCCB ngày 31 tháng 12 năm 1983 của Bộ Tài chính quy định tổ chức bộ máy thuế nông nghiệp ở cơ quan Tài chính các cấp, Thông tư này Bộ Tài chính quy định số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã và chế độ trợ cấp cán bộ thuế xã.

Những căn cứ để quy định số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã.

Để bố trí cán bộ thuế nông nghiệp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thu thuế nông nghiệp ở từng xã và ở từng vùng đã hợp tác hoá hay chưa hợp tác hoá, số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã được quy định như sau:

a) Ở các xã thuộc vùng chưa hoàn thành hợp tác hoá:

Mỗi ấp (có số thuế quy thóc phải thu hàng năm từ 80 tấn ở vùng đồng bằng, 60 tấn ở vùng trung du và 20 tấn ở vùng miền núi trở lên) thì được 1 cán bộ thuế nông nghiệp.

Những ấp có số thuế phải thu dưới mức nói ở trên, thì 2 ấp được 1 cán bộ thuế nông nghiệp.

b) Ở các xã thuộc vùng đã hoàn thành hợp tác hoá:

Mỗi xã (có số thuế quy thóc phải thu hàng năm từ 150 tấn ở vùng đồng bằng, 100 tấn ở vùng trung du và 50 tấn ở vùng miền núi trở lên) thì được 2 cán bộ thuế nông nghiệp.

Những xã có số thuế phải thu dưới mức nói ở trên được 1 cán bộ thuế nông nghiệp xã.

c) Những xã có thu thuế cây lâu năm bằng tiền trên 250.000 đồng/năm thì được cử thêm 1 cán bộ thuế nông nghiệp (những xã có số thu dưới mức nói trên không được tăng thêm cán bộ thuế).

Định mức số lượng cán bộ Ban thuế nông nghiệp xã nói ở trên là tính số cán bộ, không kể Trưởng ban thuế nông nghiệp xã là Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã.

Cán bộ thuế nông nghiệp xã nói ở trên phải có các tiêu chuẩn sau đây:

- Là nông dân lao động tiền tiến.

- Hăng hái tích cực công tác, có nhiệt tình với công tác tài chính; bản thân và gia đình chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, được nhân dân tín nhiệm.

- Có trình độ văn hoá tối thiểu lớp 8 phổ thông, có khả năng nắm được chính sách, nghiệp vụ công tác thuế nông nghiệp và biết tuyên truyền vận động nhân dân nộp thuế, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố đặc khu cần chỉ đạo chặt chẽ ngành tài chính và Uỷ ban nhân dân các huyện, các xã lựa chọn cán bộ thuế nông nghiệp xã bảo đảm các yêu cầu về số lượng và chất lượng nói trên. Đối với những cán bộ đang làm công tác thuế, nếu còn thiếu tiêu chuẩn nào thì phải bồi dưỡng và sau một thời gian nhất định nếu vẫn không đủ các tiêu chuẩn trên, không phát huy được tác dụng thì cần thay thế cán bộ có đủ tiêu chuẩn để bảo đảm nhiệm vụ thu thuế nông nghiệp ở từng xã.

Ban thuế nông nghiệp huyện hướng dẫn Uỷ ban nhân dân xã nắm vững các tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ thuế cho từng xã đủ số lượng và đúng tiêu chuẩn; sau đó giúp Uỷ ban nhân dân huyện xét quyết định công nhận danh sách cán bộ thuế xã do Uỷ ban nhân dân xã đề nghị. Cán bộ thuế xã phải được phân công chuyên trách, không điều động cán bộ thuế đi công tác khác. Trường hợp cần thiết phải thay đổi cán bộ thuế xã thì Uỷ ban nhân dân xã phải trao đổi với Ban thuế nông nghiệp huyện trước khi báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện quyết định.

II- TRỢ CẤP THÙ LAO HÀNG THÁNG CHO CÁN BỘ THUẾ NÔNG NGHIỆP XÃ

1. Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã làm Trưởng Ban thuế nông nghiệp xã đã được hưởng trợ cấp theo Quyết định số 111-HĐBT ngày 13-10-1981 của Hội đồng bộ trưởng, không hưởng trợ cấp kinh phí thuế nông nghiệp.

2. Cán bộ thuế nông nghiệp xã được hưởng trợ cấp hàng tháng được vận dụng theo tinh thần Quyết định số 111-HĐBT ngày 13-10-1981 của Hội đồng Bộ trưởng như sau:

Phó ban thuế nông nghiệp xã được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 90 đồng đến 100 đồng.

Cán bộ chuyên trách thuế nông nghiệp xã được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 80 đồng đến 100 đồng.

Số trợ cấp hàng tháng nói trên được hưởng cả 12 tháng trong năm.

3. ở những xã có thu tiền thuế cây lâu năm thì những cán bộ trực tiếp làm công tác kê khai tính thuế, thu nhận tiền thuế, được hưởng theo tiền thù lao bằng 0,4% tính trên số thuế cây lâu năm thu được hàng năm.

4. Mỗi vụ thu thuế (chỉ tính các vụ chính) ở vùng chưa hợp tác hoá được chi 500 đồng 1 xã, ở vùng đã hoàn thành hợp tác hoá được chi 200 đồng 1 xã để trợ cấp thêm cho cán bộ thuế nông nghiệp xã trong những ngày làm việc tại kho thu nhận thóc thuế, phát biên lai thu thuế, làm biên bản xác nhận số thuế đã nộp kho để thanh toán nộp tiền vào ngân sách.

5. Những ngày cán bộ đi họp, đi công tác thì được hưởng chế độ công tác phí hiện hàng đối với cán bộ xã.

Ngoài những chế độ nói trên, cán bộ thuế nông nghiệp còn được hưởng chế độ tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ thu thuế từng vụ và cả năm theo Thông tư số 50-TC ngày 31-12-1983 của Bộ Tài chính.

III- CHẾ ĐỘ CHI TIÊU CHO CÔNG TÁC THUẾ NÔNG NGHIỆP Ở XÃ

Ban thuế nông nghiệp xã được chi bình quân mỗi xã một số tiền bằng 600 kg thóc 1 năm (tính thành tiền theo giá tính thanh toán thuế nông nghiệp hiện hành ở địa phương) để mua giấy, bút, mực, dầu đèn, chè nước cho hội nghị thuế nông nghiệp ở xã, v.v...

Những khoản chi theo chế độ nói trong điểm II và III thuộc kinh phí sự nghiệp do Ngân sách trung ương đài thọ, ghi vào kinh phí ngành thuế nông nghiệp của cả nước.

Hàng năm, căn cứ vào chế độ quy định của Nhà nước, Sở Tài chính (Ban thuế nông nghiệp tỉnh) lập dự toán chi cho công tác thuế nông nghiệp gửi Bộ Tài chính xét duyệt và chuyển kinh phí uỷ quyền hàng quý để Sở Tài chính cấp cho Ban thuế nông nghiệp các cấp.

Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu thực hiện đúng những quy định và các chế độ trên đây đối với cán bộ thuế nông nghiệp xã, đồng thời tạo mọi điều kiện bồi dưỡng, động viên cán bộ thuế xã yên tâm, phấn khởi công tác để bảo đảm chi tiêu kế hoạch thu thuế nông nghiệp hàng năm đúng chính sách và thời gian quy định.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 12 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 12.- Tổng số thuế thu bằng hiện vật và bằng tiền phải tính thành tiền và nộp đủ, kịp thời vào ngân sách Nhà nước.

Việc điều tiết số thu về thuế nông nghiệp tính thành tiền do ngân sách tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương được quy định trong chế độ phân cấp quản lý tài chính và ngân sách Nhà nước. Đối với ngân sách xã, phường, thị trấn, tỷ lệ điều tiết này do Bộ Tài chính quy định cụ thể.

Xem nội dung VB
- Mức trích và sử dụng quỹ khen thuởng được hướng dẫn bởi Điều 12 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 12.- Bộ Tài chính được dự trù trong ngân sách Nhà nước hàng năm một khoản chi phí để lập quỹ khen thưởng về công tác thuế nông nghiệp. Khoản kinh phí này bằng 0,5 % (năm phần nghìn) số thuế nông nghiệp thu được trong năm, tính theo giá chỉ đạo thu mua bình quân.

Quỹ khen thưởng về công tác thuế nông nghiệp sử dụng như sau:

- 80% giao cho các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương (cũng tức là 4 phần nghìn số thuế thu trong năm của tỉnh, thành phố, đặc khu) để uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu khen thưởng các đơn vị, tổ chức và cá nhân có thành tích ở cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và cấp xã, phường, thị trấn.

- 20% do Bộ Tài chính quản lý để khen thưởng các địa phương, tổ chức và cá nhân có thành tích ở cấp tỉnh (và tương đương) và để bổ sung quỹ khen thưởng cho một số tỉnh, thành phố, đặc khu, xét cần thiết.

Kết thúc năm thuế nông nghiệp, nếu không sử dụng hết thì tỉnh, thành phố, đặc khu và Bộ được chuyển số còn lại sang quỹ khen thưởng năm sau do mình quản lý.

Bộ Tài chính quy định cụ thể chế độ trích lập và sử dụng quỹ khen thưởng.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 16 Nghị định 52-HĐBT năm 1989

Nghị định 52-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
...
Căn cứ Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983;
...
Điều 16.- Việc phạt tiền hoặc hiện vật nói ở điều 25 của Pháp lệnh về thuế nông nghiệp ngày 25 tháng 2 năm 1983 quy định như sau:

a) Nếu khai man, lậu thuế bị phát hiện thì phải nộp đủ số thuế thiếu và phải nộp phạt từ 100% đến 200% số thuế nộp thiếu.

b) Nếu quá hạn mà vẫn chưa nộp thì mỗi ngày phải nộp phạt từ 1% số thuế nộp chậm. Mức phạt tối đa có thể đến 50% số thuế nộp chậm.

c) Nếu không nộp thuế và không nộp phạt thì xử theo Bộ luật hình sự.

d) Uỷ ban nhân dân các cấp quyết định việc xử phạt và thu tiền phạt. Số tiền phạt phải đưa vào nguồn thu khác của ngân sách theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

đ) Người nào lợi dụng chức, quyền bao che cho người vi phạm Pháp lệnh về thuế nông nghiệp, làm trái các quy định về thuế nông nghiệp hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thi hành Pháp lệnh về thuế nông nghiệp thì bị xử lý theo kỷ luật hành chính. Nếu hành vi vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng thì bị xử phạt theo Bộ luật hình sự.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điều 13 Nghị định 25-HĐBT năm 1983 (VB hết hiệu lực: 01/01/1989)

Căn cứ pháp lệnh thuế nông nghiệp ngày 25-2-1983
...
Điều 13.- Việc phạt tiền hoặc hiện vật nói ở điều 25 của Pháp lệnh quy định như sau:

- Quá hạn nộp thuế mà vẫn chưa nộp thì mỗi ngày phải nộp phạt bằng 5% số thuế phải nộp. Mức phạt tối đa có thể đến 200% số thuế phải nộp.

- Nếu man khai, lậu thuế bị phát hiện, thì chẳng những phải nộp đủ số thuế thiếu mà còn phải nộp phạt bằng 100% đến 200% số thuế phải nộp.

- Nếu không nộp thuế và nộp phạt thì bị truy tố trước Pháp luật.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.