Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996
Số hiệu: 49L/CTN Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Nông Đức Mạnh
Ngày ban hành: 21/05/1996 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 15/09/1996 Số công báo: Số 17
Lĩnh vực: Tố tụng và các phương thức giải quyết tranh chấp, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 49L/CTN

Hà Nội, ngày 03 tháng 6 năm 1996

 

LỆNH

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội:

NAY CÔNG BỐ:

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, thông qua ngày 21 tháng 5 năm 1996.

PHÁP LỆNH

THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

Để đảm bảo giải quyết các vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan Nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước;
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 về công tác xây dựng pháp luật đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX;
Pháp lệnh này quy định thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 2

Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

Điều 3

Người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại; trong trường hợp này các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng được áp dụng để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các bên có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người khởi kiện vụ án có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện.

Bên bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính bị khiếu kiện.

Điều 4

1- Quyết định hành chính quy định trong Pháp lệnh này là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể.

2- Hành vi hành chính quy định trong Pháp lệnh này là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức nhà nước.

3- Đương sự quy định trong Pháp lệnh này là người khởi kiện, bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, của Thủ trưởng, cán bộ, viên chức nhà nước nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

Bên bị kiện là cơ quan Nhà nước, Thủ trưởng, cán bộ, viên chức nhà nước đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà người khởi kiện cho rằng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức do có việc khởi kiện vụ án hành chính của người khởi kiện đối với bên bị kiện mà việc giải quyết vụ án hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ.

Điều 5

Người khởi kiện phải làm đơn kiện theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này; có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính, bản sao văn bản trả lời của cơ quan nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật; cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền lợi của mình.

Bên bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án bản sao văn bản quy phạm pháp luật cũng như bản sao các văn bản tài liệu khác mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tham gia tố tụng với bên người khởi kiện, bên bị kiện hoặc tham gia tố tụng độc lập, có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình.

Khi cần thiết, Toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính được chính xác. Đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án. Trong trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Điều 6

Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

Đương sự có thể uỷ quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng. Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 7

Các vụ án hành chính được xét xử công khai, trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.

Đối với các vụ án hành chính mà nội dung đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Toà án xét xử mà không cần sự có mặt của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

Tiếng nói, chữ viết dùng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.

Điều 8

Trong trường hợp nhận thấy bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật là không đúng, thì Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết theo thẩm quyền và trả lời Thủ tướng Chính phủ trong thời hạn ba mươi ngày.

Điều 9

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật về vụ án hành chính phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi người tôn trọng.

Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính phải nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà á về vụ án hành chính phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.

Điều 10

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và của Pháp lệnh này.

Chương 2:

THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN

Điều 11

Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính sau đây:

1- Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố;

2- Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính;

3- Khiếu kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi việc trong Quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy định của Bộ luật lao động;

4- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý đất đai;

5- Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản;

6- Khiếu kiện quyết định về thu thuế, truy thu thuế;

7- Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí;

8- Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật.

Điều 12

1- Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó.

2- Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với:

a) Quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng một lãnh thổ;

b) Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó;

c) Quyết định hành chính của các đơn vị chức năng của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của các đơn vị chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cũng lãnh thổ.

Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

3- Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với khiếu kiện quyết định hành chính của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tung hoặc bị thay đổi.

Điều 13

1- Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức chỉ có quyền hoặc khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại lên cấp trên trực tiếp, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính, thì phân biệt thẩm quyền như sau:

a) Nếu chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lỵ việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền.

b) Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của cấp trên trực tiếp đó. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.

2- Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết.

Chương 3:

NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

Điều 14

Những người tiến hành tố tụng hành chính gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án.

Điều 15

1- Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm.

2- Hội đồng xét xử sở thẩm đồng thời chung thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán và hai Hội thẩm.

3- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.

4- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán.

5- Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nhất 2/3 (hai phần ba) tổng số thành viên tham gia.

6- Hội đồng xét xử quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 điều này quyết định theo đa số. Quyết định của Uỷ ban Thẩm phán và Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

Điều 16

1- Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

a) Đồng thời là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người thân thích của đương sự, người làm chứng trong vụ án;

b) Đã tham gia vào việc ra quyết định hành chính bị khiếu kiện;

c) Đã tham gia xét xử cùng một vụ án với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm, trừ các thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

d) Trong một Hội đồng xét xử mà Thẩm phán, Hội thẩm là người thân thích với nhau;

e) Có người thân thích đã tham gia tố tụng cùng một vụ án ở cấp xét xử khác;

g) Có căn cứ cho thấy có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

2- Kiểm sát viên, Thư ký Toà án phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu:

a) Đã tham gia tố tụng cùng một vụ án ở cấp xét xử khác;

b) Có căn cứ quy định tại các điểm a, e và g khoản 1 Điều này.

Điều 17

1- Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án do Chánh án Toà án quyết định; việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát, thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.

2- Tại phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký phiên toà, do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.

Nếu tại phiên toà có đề nghị thay đổi Kiểm sát viên mà Hội đồng xét xử thấy lý do của việc đề nghị thay đổi là chính đáng, thì ra quyết định hoãn phiên toà.

Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày hoãn phiên toà, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát cử người khác thay thế.

Điều 18

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát có quyền tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào khi xét thấy cần thiết. Đối với các quyết định hành chính, hành vị hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu không có ai khởi kiện, thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.

Chương 4:

NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG

Điều 19

1- Những người tham gia tố tụng hành chính gồm đương sự, người đại diện do đương sự uỷ quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.

2- Đương sự là cá nhân thì tự mình hoặc có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

3- Đương sự là pháp nhân thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền.

Điều 20

1- Người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện. Bên bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, khắc phục hành vi hành chính bị khiếu kiện, có quyền phản bác yêu cầu của người khởi kiện hoặc đề xuất yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của người khởi kiện. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc cùng tham gia tố tụng với bên đương sự khác.

2- Các đương sự có quyền:

a) Đưa ra tài liệu, chứng cứ; được đọc, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp;

b) Yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

c) Tham gia phiên toà;

d) Yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch nếu có lý do quy định tại các Điều 16 và 27 của Pháp lệnh này;

đ) Thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật;

e) Tranh luận tại phiên toà;

g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;

h) Yêu cầu người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.

3- Các đương sự có nghĩa vụ:

a) Cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu cầu của Toà án;

b) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;

c) Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà.

Điều 21

1- Đương sự từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính.

2- Đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng thông qua người đại điện.

Điều 22

1- Đương sự có thể uỷ quyền cho bất kỳ người nào đại diện cho mình tham gia tố tụng, trừ những người sau đây không được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền:

a) Không có quốc tịch Việt Nam, không cư trú ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với đương sự có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài;

b) Chưa đủ 18 tuổi;

c) Bị bệnh tâm thần;

d) Đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị kết án, nhưng chưa được xoá án;

đ) Cán bộ Toà án, Viện kiểm sát;

e) Người giám định, người phiên dịch, người làm chứng trong vụ án;

g) Người thân thích với Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án.

2- Người được uỷ quyền chỉ được thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền.

3- Việc uỷ quyền tham gia tố tụng phải làm thành văn bản và được chứng thực hợp pháp.

Điều 23

1- Đương sự tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

2- Một người có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của những người đó không đối lập nhau.

3- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền:

a) Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện;

b) Đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch theo quy định tại các điều 16 và 27 của Pháp lệnh này;

c) Cung cấp tài liệu, chứng cứ, đề đạt yêu cầu, đọc hồ sơ vụ án, sao chép những điểm cần thiết trong hồ sơ vụ án, tham gia phiên toà.

4- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các quyền tố tụng theo quy định của pháp luật để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Điều 24

1- Người biết những tình tiết liên quan đến vụ án hành chính có thể tự mình hoặc được Toà án, Viện kiểm sát triệu tập đến làm chứng.

2- Người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát; có nghĩa vụ trình bày trung thực tất cả những gì mình biết về vụ án và phải chịu trách nhiệm về lời trình bày của mình.

3- Người yêu cầu Toà án triệu tập người làm chứng phải nộp tiền tạm ứng chi phí cho người làm chứng. Người thua kiện phải chịu chi phí cho người làm chứng, nếu việc làm chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Nếu việc làm chứng không có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, thì người yêu cầu triệu tập người làm chứng phải chịu chi phí cho người làm chứng.

Điều 25

1- Khi cần thiết, Toà án, Viện kiểm sát tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự trưng cầu giám định. Người giám định phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát.

2- Người giám định có quyền tìm hiểu tài liệu của vụ án liên quan đến đối tượng phải giám định.

Người giám định có nghĩa vụ giám định một cách khách quan, trung thực đối tượng được yêu cầu giám định.

3- Người yêu cầu trưng cầu giám định hoặc Toà án, Viện kiểm sát tự mình trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Người thưa kiện phải chịu chi phí giám định, nếu kết quả giám định có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; nếu kết quả giám định không có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án thì người yêu cầu trưng cầu giám định, Toà án, Viện kiểm sát tự mình trưng cầu giám định phải chịu chi phí giám định.

Điều 26

1- Trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt thì Toà án có trách nhiệm cử người phiên dịch.

2- Người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và phiên dịch trung thực.

3- Người thưa kiện phải chịu chi phí phiên dịch.

Điều 27

Người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, e và g khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này. Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.

 

1- Nếu đương sự là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó được thừa kế, thì người thừa kế được tham gia tố tụng.

2- Nếu đương sự là pháp nhân bị sáp nhập, phân chia, giải thể, thì cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ của pháp nhân cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.

3- Việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng có thể được Toà án chấp nhận ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

Chương 5:

ÁN PHÍ

Điều 29

1- Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được nộp tiền tạm ứng án phí. Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính không phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.

2- Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.

3- Các đương sự phải chịu án phí tuỳ theo mức độ lỗi của họ trong quan hệ pháp luật mà Toà án giải quyết, trừ trường hợp được miễn án phí.

4- Chính phủ phối hợp với Toà án nhân dân tối cao quy định về án phí.

Chương 6:

KHỞI KIỆN, THỤ LÝ VỤ ÁN

Điều 30

1- Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại.

2- Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.

3- Đơn kiện phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;

c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, bên bị kiện;

d) Nội dung quyết định hành chính hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;

đ) Nội dung văn bản trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật;

e) Cam đoan không khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính;

g) Các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết.

4- Đơn kiện phải do người khởi kiện hoặc đại diện của người khởi kiện ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện.

Điều 31

Toà án trả lại đơn kiện trong những trường hợp sau đây:

1- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

2- Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng;

3- Chưa có trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại;

4- Đã có quyết định giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính do pháp luật quy định;

5- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;

6- Việc được khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Điều 32

1- Nếu Toà án xét thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của mình, thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nộp đơn, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.

2- Toà án thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn kiện.

Điều 33

1- Sau khi Toà án đã thụ lý vụ án, đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm việc thi hành án; đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.

2- Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án.

3- Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được Toà án xem xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng biện phép khẩn cấp tạm thời.

4- Trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực của quyết định, nhưng không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Điều 34

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời gồm có:

1- Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện;

2- Cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện những hành vi nhất định nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án hành chính hoặc để bảo đảm cho việc thi hành án.

Điều 35

1- Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể bị thay đổi hoặc huỷ bỏ.

2- Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định.

Điều 36

1- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay mặc dù có khiếu nại hoặc kiến nghị.

2- Các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính về quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời.

Chương 7:

CHUẨN BỊ XÉT XỬ

Điều 37

1- Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo cho bên bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện.

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án; hết thời hạn này mà không nhận được ý kiến bằng văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

2- Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Đưa vụ án ra xét xử;

b) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;

c) Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Đối với các vụ án phức tạp, thời hạn nói trên không quá chín mươi ngày.

3- Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng, thời hạn đó không quá ba mươi ngày.

4- Ngay sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày, nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm.

Điều 38

1- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xét thấy cần thiết, Toà án có thể tự mình hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án. Toà án được uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện ngay việc uỷ thác và thông báo kết quả cho Toà án đã uỷ thác.

2- Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:

a) Yêu cầu các đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về những vấn đề cần thiết;

b) Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;

c) Yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết;

d) Xác minh tại chỗ;

đ) Trưng cầu giám định và tiến hành một số biện pháp cần thiết khác.

Điều 39

Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có nội dung sau đây:

1- Ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên toà;

2- Việc xét xử được tiến hành công khai hay xét xử kín với sự có mặt hay không có mặt các đương sự và những người tham gia tố tụng khác;

3- Tên của các đương sự, những người tham gia tố tụng khác;

4- Nội dung việc khởi kiện;

5- Họ, tên của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký phiên toà; họ, tên của Kiểm sát viên nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà.

Điều 40

1- Toà án quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

a) Đương sự là cá nhân đã chết, pháp nhân đã giải thể mà chưa có cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;

b) Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt các đương sự;

c) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án lao động, vụ án hành chính khác có liên quan.

2- Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn.

3- Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

Điều 41

1- Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

a) Đương sự là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; pháp nhân đã giải thể mà không có cá nhân, pháp nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;

b) Nguyên đơn rút đơn kiện;

c) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng;

d) Thời hạn khởi kiện đã hết trước ngày Toà án thụ lý đơn khởi kiện;

đ) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc của cơ quan có thẩm quyền khác;

e) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

2- Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

Điều 42

Khi có các quyết định quy định tại các điều 39, 40 và 41 của Pháp lệnh này, Toà án phải gửi ngay các quyết định đó cho Viện kiểm sát cùng cấp, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Chương 8:

PHIÊN TOÀ SƠ THẨM

Điều 43

1- Phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của các đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Phiên toà sơ thẩm vẫn có thể được tiến hành vắng mặt một bên đương sự khi họ có yêu cầu và được Toà án chấp nhận hoặc trong trường hợp người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

2- Đối với vụ án mà nội dung đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Toà án tiến hành phiên toà sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng.

3- Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm hoặc phải có ý kiến bằng văn bản trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án và trong trường hợp có đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay đối với các vụ án về khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Đối với các vụ án khác, Viện kiểm sát có thể tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết.

Điều 44

1- Khi bắt đầu phiên toà sơ thẩm với sự có mặt của người tham gia tố tụng, Chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người được triệu tập đến phiên toà, giải thích cho họ biết quyền, nghĩa vụ của họ tại phiên toà. Nếu người được triệu tập mà vắng mặt, thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn hoặc tiếp tục phiên toà.

Chủ toạ phiên toà giới thiệu các thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch, người làm chứng và giải thích cho những người tham gia tố tụng biết quyền yêu cầu thay đổi thành phần Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch, nếu có ý kiến yêu cầu thay đổi, thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Chủ toạ phiên toà giải thích cho người giám định, người phiên dịch về quyền, nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nghĩa vụ.

Chủ toạ phiên toà giải thích cho người làm chứng về quyền, nghĩa vụ của họ. Người làm chứng phải cam đoan khai đúng sự thật. Nếu người làm chứng có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của người khác, thì Chủ toạ phiên toà cho cách ly người làm chứng với người đó trước khi lấy lời khai của người làm chứng.

Chủ toạ phiên toà hỏi đương sự hoặc người đại diện của đương sự, Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc cung cấp thêm chứng cứ hoặc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; nếu có người yêu cầu, thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

2- Đối với phiên toà sơ thẩm được tiến hành không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng, thì sau khi nghe Chủ toạ phiên toà tóm tắt nội dung sự việc, Hội đồng xét xử xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và sau khi nghe đại diện Viện kiểm sạt trình bày ý kiến hoặc sau khi công bố ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án (nếu có), Hội đồng xét xử thảo luận và nghị án.

Điều 45

Hội đồng xét xử hoãn phiên toà trong các trường hợp sau đây:

1- Vắng mặt Kiểm sát viên hoặc chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà hay phải có ý kiến bằng văn bản;

2- Người khởi kiện, bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng đối với phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của người tham gia tố tụng;

3- Thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay.

Điều 46

1- Hội đồng xét xử xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của người khởi kiện, bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến này với tài liệu, chứng cứ đã thu thập được.

2- Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử hỏi trước, sau đó đến Kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố tụng có quyền đề xuất với Hội đồng xét xử những vấn đề cần được hỏi thêm.

Điều 47

Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc xét hỏi, các đương sự hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tham gia tranh luận; Kiểm sát viên tham gia phiên toà trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Điều 48

Tại phiên toà, nếu có một trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này, thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; nếu có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này, thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Điều 49

1- Các quyết định của Hội đồng xét xử phải được các thành viên thảo luận và quyết định theo đa số. Khi nghị án phải lập biên bản ghi các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử.

2- Bản án phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành phiên toà;

b) Họ, tên thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà;

c) Tên, địa chỉ của các đương sự, người đại diện của họ;

d) Yêu cầu của các đương sự;

đ) Những tình tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án;

e) Các quyết định của Toà án;

g) án phí, người phải chịu án phí;

h) Quyền kháng cáo của đương sự.

3- Chủ toạ phiên toà công bố toàn văn bản án và giải thích cho đương sự biết quyền kháng cáo và nghĩa vụ chấp hành bản án.

Điều 50

1- Toà án ra các quyết định để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.

2- Trước khi mở phiên toà, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có quyền ra các quyết định; tại phiên toà, việc ra các quyết định do Hội đồng xét xử thực hiện.

3- Nội dung quyết định bao gồm:

a) Toà án giải quyết vụ án;

b) Ngày, tháng, năm ra quyết định;

c) Tên, địa chỉ của các đương sự và những người tham gia tố tụng khác;

d) Yêu cầu của đương sự hoặc lý do ra quyết định;

đ) Căn cứ pháp luật để ra quyết định;

e) Các quyết định cụ thể;

g) Quyền kháng cáo của đương sự.

Điều 51

Toà án không được sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định đã tuyên, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu tính toán hoặc về chính tả, nhưng phải thông báo ngay cho đương sự, Viện kiểm sát, cá nhân, tổ chức khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Điều 52

1- Mọi diễn biến của phiên toà phải được phản ánh rõ trong biên bản phiên toà. Chủ toạ phiên toà kiểm tra biên bản phiên toà và cùng Thư ký phiên toà ký vào biên bản.

2- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích pháp của đương sự, được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu sửa chữa, bổ sung biên bản. Chủ toạ phiên toà, Thư ký phiên toà và người có yêu cầu ký tên xác nhận những điều sửa chữa, bổ sung. Nếu yêu cầu sửa chữa, bổ sung biên bản phiên toà không được chấp nhận, thì người yêu cầu có quyền ghi ý kiến của mình bằng văn bản để đưa vào hồ sơ vụ án.

Điều 53

Ngay sau khi phiên toà kết thúc, các đương sự được Toà án cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định, Toà án phải cấp cho đương sự bản sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của họ, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Điều 54

Người vi phạm trật tự phiên toà, tuỳ từng trường hợp, có thể bị Chủ toạ phiên toà cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bị bắt giữ.

Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà và thi hành lệnh của Chủ toạ phiên toà về việc buộc người vi phạm trật tự phiên toà rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người vi phạm.

Chương 9:

THỦ TỤC PHÚC THẨM

Điều 55

1- Đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp xét xử phúc thẩm, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 41 của Pháp lệnh này.

2- Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo; Viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản. Trong đơn kháng cáo, bản kháng nghị phải nêu rõ:

a) Nội dung phần quyết định của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị;

b) Lý do kháng cáo, kháng nghị;

c) Yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị.

Điều 56

1- Thời hạn kháng cáo là mười ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định; nếu đương sự vắng mặt tại phiên toà, thì thời hạn này tính từ ngày bản sao bản án, quyết định được giao cho họ, thân nhân của họ hoặc được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ sở, nếu đương sự là pháp nhân.

2- Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là hai mươi ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu Kiểm sát viên không tham gia phiên toà, thì thời hạn kháng nghị được tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định của Toà án.

3- Trong trường hợp do trở ngại khách quan, mà không thể kháng cáo, kháng nghị được trong thời hạn quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này, thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4- Kháng cáo, kháng nghị được gửi đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị hoặc kể từ ngày người kháng cáo xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, nếu người đó phải nộp khoản tiền đó, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà án phúc thẩm.

Điều 57

1- Khi gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát phải gửi bản sao bản kháng nghị cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị.

2- Đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị phải gửi cho Toà án cấp phúc thẩm ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn bảy ngày, kể từ này nhận được thông báo.

Điều 58

1- Trước hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo, kháng nghị.

2- Toà án ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm vụ án trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị.

Điều 59

1- Trước khi xét xử hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ mới.

2- Toà án cấp phúc thẩm tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh chứng cứ mới được bổ sung.

Điều 60

1- Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản án, quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị.

2- Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, thì thời hạn đó không được quá chín mươi ngày.

Điều 61

Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự trong các trường hợp sau đây:

1- Xét kháng cáo, kháng nghị quá hạn;

2- Xét kháng cáo, kháng nghị về phần án phí;

3- Xét kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

Điều 62

Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo các quy định của Pháp lệnh này.

Điều 63

1- Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm hoặc phải có ý kiến bằng văn bản đối với các vụ án quy định tại khoản 3 Điều 43 của Pháp lệnh này và trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị; đối với các trường hợp khác, Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm khi thấy cần thiết. Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn mười ngày.

2- Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên toà.

3- Toà án chỉ triệu tập người giám định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu của đương sự và khi cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

4- Nếu Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà hoặc có yêu cầu tham gia phiên toà mà vắng mặt hay chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu những người quy định tại các khoản 2 và 3 Điều này mà vắng mặt, thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét xử.

5- Đối với các vụ án khi xét xử sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng hoặc không có yêu cầu tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng.

Điều 64

1- Phiên toà phúc thẩm được tiến hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm. Trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị, một thành viên Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.

2- Toà án cấp phúc thẩm có quyền:

a) Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;

b) Sửa một phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;

c) Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;

d) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này;

đ) Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.

3- Bản án, quyết định sơ thẩm bị sửa đổi một phần hoặc toàn bộ khi:

a) Nội dung trái pháp luật, không phù hợp với hồ sơ vụ án;

b) Có chứng cứ mới cho thấy bản án, quyết định sơ thẩm trái pháp luật, không đúng với sự thật khách quan của vụ án.

Điều 65

1- Ngoài nội dung quy định tại các Điều 49 và 50 của Pháp lệnh này, trong bản án, quyết định phúc thẩm phải nêu rõ phần quyết định của bản án, quyết định bị kháng cáo hoặc kháng nghị, nội dung kháng cáo, kháng nghị và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm.

2- Bản sao bản án, quyết định phúc thẩm phải được gửi cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định.

Điều 66

1- Khi phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án không phải mở phiên toà, không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định.

2- Toà án cấp phúc thẩm phải ra quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.

3- Khi xem xét quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm có những quyền hạn quy định tại Điều 64 của Pháp lệnh này.

Chương 10:

THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM

Điều 67

1- Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;

b) Phần quyết định trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

c) Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

2- Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án;

b) Đã xác định được lời khai của người làm chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch rõ ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng;

c) Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án;

d) Bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của của cơ quan nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.

Điều 68

1- Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp.

2- Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân địa phương.

3- Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện.

Điều 69

1- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là sáu tháng, theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.

2- Kháng nghị phải được gửi cho Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị, Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Toà án phải gửi kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày.

3- Trong kháng nghị phải ghi rõ căn cứ kháng nghị. Trước khi mở phiên Toà hoặc tại phiên toà, người kháng nghị có quyền rút kháng nghị.

4- Người kháng nghị có quyền hoãn hoặc tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

Điều 70

1- Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ án liên quan đến quyết định bị kháng nghị.

2- Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiêu lực pháp luật của Toà án cấp huyện bị kháng nghị.

3- Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị.

4- Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

5- Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà quyết định của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

6- Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Toà án phải mở phiên toà giám đốc, tái thẩm.

Điều 71

1- Phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm không phải triệu tập đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị, trừ trường hợp Toà án thấy cần phải nghe ý kiến của họ trước khi quyết định.

2- Tại phiên toà, một thành viên Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, nội dung kháng nghị. Trong trường hợp Toà án có triệu tập những người tham gia tố tụng, thì người được triệu tập trình bày ý kiến trước khi Kiểm sát viên trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định.

Điều 72

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền:

1- Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

2- Sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;

3- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;

4- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.

Chương 11:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 73

Các quy định của Pháp lệnh này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính, có đương sự là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.

Điều 74

1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước.

2- Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên trực tiếp có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thi hành án hành chính; trong trường hợp cần thiết có quyền buộc phải chấp hành quyết định của Toà án về vụ án hành chính. Người nào thiếu trách nhiệm trong việc thi hành án hành chính hoặc cố tình không chấp hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

3- Các quyết định về phần tài sản, quyền tài sản trong các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự.

Điều 75

Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 1996.

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 76

Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng của mình hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.

Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 1996

 

Nông Đức Mạnh

(Đã ký)

 

- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 1 và Điểm 2 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
1. Về quy định "Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu"

"Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu" quy định tại Điều 2 Pháp lệnh là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức đã ra một trong những quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc có một trong những hành vi hành chính quy định tại Điều 11 Pháp lệnh.

2. Về quy định tại Điều 2 Pháp lệnh

Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh thì khi thuộc một trong các trường hợp sau đây, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án căn cứ vào quy định tương ứng tại các điểm 3, 5 và 6 Điều 31 Pháp lệnh để trả lại đơn kiện:

a. Người khởi kiện chưa khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu;

b. Người khởi kiện đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu và cũng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;

c. Chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

d. Đã khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo và đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
1. Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 2

l. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về các khiếu kiện quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 16 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:

a) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng, hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết mà không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;

b) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;

c) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;

d) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:

a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

b) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 18 Điều 1l của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri, nhưng không đồng ý về cách giải quyết của cơ quan đó.

4. Cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 19 Điều 11 của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với người đã ra quyết định kỷ luật, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo.

5. Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 20 Điều 1l của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.

6. Cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 21 Điều 11 của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại với Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó.

7. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh này theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1à thành viên về các khiếu kiện đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục VII Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.

Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:
...
VII. VỀ HÀNH CHÍNH
1. Từ trước đến nay đã có văn bản pháp luật nào quy định buộc cơ quan nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính... phải trả lời khiếu nại bằng văn bản để cho người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án hành chính hay chưa?

Từ trước đến nay đã có nhiều văn bản pháp luật quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của người bị khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại, trong đó có việc trả lời khiếu nại bằng văn bản như: điểm a khoản 2 Điều 9, Điều 23, Điều 25 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân; khoản 2 Điều 87, khoản 1 Điều 88 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính... ngày 2-12-1998, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNnam khoá X, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật khiếu nại, tố cáo và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-1999. Trong đạo luật này cũng đã quy định cụ thể nghĩa vụ của người bị khiếu nại phải giải quyết khiếu nại bằng văn bản (Các Điều 18, 34, 37 và 53... ). Trong thực tiễn có nhiều trường hợp người bị khiếu nại không trả lời về việc giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại; do đó trong thời gian qua nhiều trường hợp công nhân muốn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, nhưng vì lý do chưa có văn bản trả lời của cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính cho nên Toà án không thụ lý để giải quyết. Để khắc phục tình trạng này, căn cứ vào Luật khiếu nại, tố cáo, ngày 25-12-1998 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định của Pháp lệnh này thì nay không bắt buộc mọi trường hợp khởi kiện đều phải có văn bản của cơ quan nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại (các khoản 1, 4, 7, 12, 13 Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 2 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.

a) Điều 2 của Pháp lệnh quy định: "Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền". Do đó khi nhận được đơn kiện, khởi kiện vụ án hành chính, Toà án cần phải xem xét kèm theo đơn kiện đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đốí với quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật hay chưa? Nếu chưa có bản sao văn bản trả lời, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện và giải thích cho họ biết quy định tại Điều 2 và khoản 3 Điều 31 của Pháp lệnh.

Trong trường hợp đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại và nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo loại khiếu kiện hành chính), thì thông báo cho người khiếu kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của Chính ohủ và tiến hành thụ lý vụ án theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 32 của Pháp lệnh.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:

1. Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 2

1. Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các trường hợp sau đây:

a) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại, tố cáo, nhưng hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 36 của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;

b) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại các điều từ Điều 19 đến Điều 25 của Luật khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo.

2. Cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính về quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với mình, nếu đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại và cũng không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo."

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 1 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
1. Về quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh

1.1. Về quy định “người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu”

“Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu” quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh là cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã ra một trong những quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc có một trong những hành vi hành chính quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh;

b) Quản lý trực tiếp cán bộ, công chức đã ra một trong những quyết định hành chính hoặc có một trong những hành vi hành chính quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh.

1.2. Về quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh

a) Khi nhận được đơn khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà việc giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thì Toà án phải căn cứ vào Điều 11 của Pháp lệnh để kiểm tra xem khiếu kiện đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án hay không. Trường hợp khiếu kiện đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì Toà án tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu người khởi kiện đã khiếu nại đến Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng khiếu nại không được giải quyết hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

b) Khi nhận được đơn khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà việc giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thì Toà án phải căn cứ vào Điều 25 và Điều 39 của Luật khiếu nại, tố cáo để xem xét; cụ thể như sau:

b.1) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính có nội dung thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, thì Toà án tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu người khởi kiện đã khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;

b.2) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính có nội dung không thuộc quyền quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, thì Toà án tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu người khởi kiện đã khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.

1.3. Việc áp dụng điểm d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh

Khi nhận đơn khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính đã được giải quyết khiếu nại lần hai thì cần phân biệt như sau:

a) Đối với những vụ việc phát sinh trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 và người khiếu nại đã khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 mà khiếu nại không được giải quyết (trừ trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 13.1 mục 13 Nghị quyết này) hoặc đã được giải quyết trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006, nhưng người khiếu nại không đồng ý, nếu họ có đơn khởi kiện vụ án hành chính, thì Toà án căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh để trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.

b) Đối với những vụ việc phát sinh trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 và người khiếu nại đã khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo kết thúc sau 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết sau 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006, nhưng người khiếu nại không đồng ý, nếu họ có đơn khởi kiện vụ án hành chính thì Toà án căn cứ vào quy định của Pháp lệnh để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.

1.4. Việc xử lý đơn khởi kiện vụ án hành chính

Ngay sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án hành chính, Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm, Chánh toà hoặc Phó Chánh toà được Chánh án uỷ quyền phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét trường hợp này thuộc loại khiếu kiện nào quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh và đối chiếu với điều kiện khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh để:

a) Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính;

b) Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện và nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, nếu không đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.

Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn A có đơn khởi kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện S, tỉnh Đ và ông A đã khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện S, nhưng chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu và cũng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện S, thì Toà án căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 2 và điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh để trả lại đơn khởi kiện cho ông A.

Ví dụ 2: Ông Trần B là cán bộ của Thi hành án huyện Đ, tỉnh Q có đơn khởi kiện đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông của Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q và ông B đã khiếu nại đến Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q, nhưng chưa có quyết định giải quyết khiếu nại của Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại của Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q, nhưng ông B không đồng ý và đã khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tư pháp và đã có quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thì Toà án căn cứ vào khoản 4 Điều 2 và điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh để trả lại đơn khởi kiện cho ông B.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
2. Điều 3 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 3

Người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại; trong trường hợp này các quy định của pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự cũng được áp dụng để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án tạo điều kiện để các bên có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện.

Người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện."

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 6 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
6. Việc giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 1) Pháp lệnh thì người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Thiệt hại trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hành vi hành chính gây ra. Nếu người khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại thì có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết Toà án có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Trong trường hợp người khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại chưa có thể cung cấp chứng cứ được, thì tách phần giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để giải quyết sau trong một vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.

Ví dụ: Một người khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết huỷ bỏ quyết định hành chính tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính, đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do một số bộ phận của phương tiện đó bị mất, bị hư hỏng hoặc thu nhập thực tế bị mất do phương tiện đang bị giữ. Nếu Toà án xét thấy quyết định tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là trái pháp luật và xét thấy yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người khiếu kiện là có căn cứ (do người khiếu kiện cung cấp đấy đủ chứng cứ, có người làm chứng....), thì Toà án quyết định huỷ quyết định hành chính đó, đồng thời quyết định về việc bồi thường thiệt hại; nếu người khiếu kiện chưa chứng minh được phương tiện đó bị mất, bị hư hỏng những bộ phận nào, thu nhập thực tế bị mất là những khoản nào, thì Toà án chỉ quyết định huỷ quyết định hành chính đó và dành phần giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để giải quyết trong một vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 5 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
5. Việc giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 1) của Pháp lệnh thì người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Thiệt hại trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc hành vi hành chính gây ra. Nếu người khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại thì có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Trường hợp cần thiết Toà án có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Việc thu thập chứng cứ trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp người khởi kiện vụ án hành chính có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại chưa có thể cung cấp chứng cứ được, thì tách phần giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để giải quyết sau trong một vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.

Ví dụ: Một người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết huỷ bỏ quyết định hành chính tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính, đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do một số bộ phận của phương tiện đó bị mất, bị hư hỏng hoặc thu nhập thực tế bị mất do phương tiện đang bị giữ. Nếu Toà án xét thấy quyết định tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là trái pháp luật và xét thấy yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của người khởi kiện là có căn cứ (do người khởi kiện cung cấp đầy đủ chứng cứ, có người làm chứng...), thì Toà án quyết định huỷ quyết định hành chính đó, đồng thời quyết định về việc bồi thường thiệt hại; nếu người khởi kiện chưa chứng minh được phương tiện đó bị mất, bị hư hỏng những bộ phận nào, thu nhập thực tế bị mất là những khoản nào, thì Toà án chỉ quyết định huỷ quyết định hành chính đó và dành phần giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại để giải quyết trong một vụ án dân sự khác theo thủ tục chung khi đương sự có yêu cầu.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 7 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
7. Việc giải quyết trong trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 Pháp lệnh thì trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện thì Toà án cần thông báo cho người khởi kiện biết và cần phân biệt:

a. Nếu người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và rút đơn kiện, thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;

b. Nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và không rút đơn kiện, thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định bị khiếu kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 6 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
6. Việc giải quyết trong trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 của Pháp lệnh thì trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện thì Toà án cần thông báo cho người khởi kiện biết và cần phân biệt:

a) Nếu người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và rút đơn khởi kiện, thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;

b) Nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và không rút đơn khởi kiện, thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định bị khiếu kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
2. Điều 4 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 4

Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Quyết định hành chính: là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.

2. Hành vi hành chính: là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

4. Đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

5. Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ, công chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc thôi việc, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

6. Người kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.

7. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các cá nhân, cơ quan, tổ chức, do có việc khởi kiện vụ án hành chính của người khởi kiện đối với người bị kiện mà việc giải quyết vụ án hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ.

8. Cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
3. Điều 4 được sửa đổi , bổ sung như sau:

"Điều 4

Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. "Quyết định hành chính" là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.

2. "Hành vi hành chính" là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

3. "Quyết định kỷ luật buộc thôi việc" là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

4. "Đương sự " bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

5. "Người khởi kiện" là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ, công chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc thôi việc, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.

6. "Người bị kiện" là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.

7. "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức, do có việc khởi kiện vụ án hành chính của người khởi kiện đối với người bị kiện mà việc giải quyết vụ án hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 3 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
3. Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính

Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu. Ngoài những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định hành chính sau đây cũng được coi là quyết định hành chính lần đầu:

a. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết định hành chính khác thay thế quyết định hành chính trước, thì quyết định mới được ban hành này là quyết định hành chính lần đầu;

b. Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết định hành chính khác sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước, thì phần của quyết định hành chính trước không bị sửa đổi, huỷ bỏ và quyết định sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước đều là quyết định hành chính lần đầu;

Cần lưu ý là đối với hai trường hợp a và b trên đây nếu các quyết định sau được ban hành sau khi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã nhận được đơn khiếu nại và các quyết định đó là kết quả giải quyết khiếu nại, thì các quyết định sau là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không phải là quyết định hành chính lần đầu;

c. Sau khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính ra quyết định huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại hoặc bị khởi kiện; giao cho cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước giải quyết lại vụ việc đối với phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính đã bị huỷ và kết quả giải quyết lại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ra quyết định hành chính mới, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu;

d. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngoài việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính bị khiếu nại, còn quyết định về một hoặc một số vấn đề hoàn toàn mới chưa có trong quyết định bị khiếu nại, thì phần quyết định về một hoặc một số vấn đề hoàn toàn mới này là quyết định hành chính lần đầu.

Ví dụ: Khi xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 400.000 đồng. Người bị xử phạt khiếu nại lần đầu và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Người bị xử phạt khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Kết quả giải quyết khiếu nại tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ngoài việc quyết định giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, còn quyết định tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Trong trường hợp này quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là quyết định hành chính lần đầu.

đ. Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ra quyết định huỷ quyết định hành chính do cơ quan hoặc người ra quyết định đó không có thẩm quyền. Người có thẩm quyền ra quyết định hành chính mới giải quyết vụ việc đó, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu.

Ví dụ: Khi xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 10 triệu đồng và tịch thu phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị 5 triệu đồng. Người bị xử phạt khiếu nại lần đầu và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó. Người bị xử phạt khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Kết quả giải quyết khiếu nại tiếp theo là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã vì vi phạm thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 28 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Căn cứ vào Điều 29 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới (có thể về nội dung cơ bản giống như nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã). Trong trường hợp này quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện là quyết định hành chính lần đầu.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 1 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:

1. Về các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

a) Theo quy định tại khoản1 Điều 4 của Pháp lệnh, thì quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một số vấn đề cụ thể (cần lưu ý là các quyết đinh của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện chức năng tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng khi có khiếu nại sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng. Chỉ có các quyết định hành chính như quyết định về buộc thôi việc cán bộ, nhân viên Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc quyết định sử phạt vi phạm hành chính do vi phạm trật tự phiên toà, khi có khiếu kiện mới được xem là vụ án hành chính và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).

Để được coi là một quyết định hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết quyết định đó phải là của một trong các cơ quan này hoặc của Thủ trưởng, cán bộ, viên chức của một trong các cơ quan này và phải được làm bằng văn bản, trong đó ghi rõ đối tượng cụ thể được áp dụng quyết định hành chính và nội dung cụ thể của quyết định hành chính. Cần lưu ý rằng các quyết định hành chính của các cơ quan tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên Đoàn lao động... (tức là các cơ quan, tổ chức không được liệt kê tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh) cũng như các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các thành viên của các cơ quan, tổ chức này nếu có khiếu kiện thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
2. Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính

Quyết định hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính phải là quyết định hành chính lần đầu. Ngoài những quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành lần đầu trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình, thì những quyết định hành chính sau đây cũng được coi là quyết định hành chính lần đầu:

a) Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại, cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết định hành chính khác thay thế quyết định hành chính trước, thì quyết định mới được ban hành này là quyết định hành chính lần đầu;

b) Sau khi ban hành quyết định hành chính nhưng chưa có khiếu nại,
cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành quyết định hành chính đó ban hành một quyết định hành chính khác sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước, thì phần của quyết định hành chính trước không bị sửa đổi, huỷ bỏ và quyết định sửa đổi, bổ sung một số điểm của quyết định hành chính trước đều là quyết định hành chính lần đầu;

Cần lưu ý là đối với hai trường hợp a và b trên đây nếu các quyết định sau được ban hành sau khi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã nhận được đơn khiếu nại và các quyết định đó là kết quả giải quyết khiếu nại, thì các quyết định sau là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không phải là quyết định hành chính lần đầu;

c) Sau khi Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính ra quyết định huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính bị khởi kiện; giao cho cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước giải quyết lại vụ việc đối với phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính đã bị huỷ và kết quả giải quyết lại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đã ra quyết định hành chính mới, thì quyết định mới này là quyết định hành chính lần đầu;

d) Sau khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai ra quyết định giải quyết khiếu nại và người có quyết định hành chính đã ra quyết định hành chính sửa đổi một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính đó, thì quyết định hành chính sửa đổi một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trước và phần của quyết định hành chính trước không bị sửa đổi đều là quyết định hành chính lần đầu.

Ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T, quận H, thành phố H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông A với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 400.000 đồng và hình thức xử phạt bổ sung là buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra. Ông A khiếu nại đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính này và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T đã ra quyết định giải quyết khiếu nại kết luận giữ nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình.

Ông A khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận H, thành phố H. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận H ra quyết định giải quyết khiếu nại kết luận nội dung khiếu nại là đúng một phần đối với quyết định về hình thức xử phạt bổ sung và yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T sửa đổi quyết định đó.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới sửa đổi hình thức xử phạt bổ sung thay buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra bằng buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành chính gây ra.

Trong trường hợp này quyết định xử phạt vi phạm hành chính trước với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 400.000 đồng và quyết định xử phạt vi phạm hành chính sau với hình thức xử phạt bổ sung là buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành chính gây ra của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường T đều là quyết định hành chính lần đầu.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 4 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
4. Hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính

Theo quy định tại điểm 2 Điều 4 và Điều 11 Pháp lệnh thì hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bao gồm các hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong các việc hoặc các lĩnh vực được quy định tại các điểm 2, 3, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều 11 Pháp lệnh và trong các việc hoặc các lĩnh vực khác mà pháp luật có quy định

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 1 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
1. Về các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
...
b) Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh, thì hành vi hành chính là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức Nhà nước. Để được coi là một hành vi hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết hành vi đó phải là của cán bộ, viên chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phuơng, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính có thể là việc thực hiện hoặc có thể là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật và không được thể hiện bằng văn bản.

Ví dụ: Hành vi hành chính là việc thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một người theo quy định pháp luật được giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của người có thẩm quyền về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình phụ của một gia đình do có sự lấn chiếm đất của công, nhưng khi thi hành công vụ người đó không những tháo dỡ công trình phụ mà còn có hành vi phá bỏ một phần của ngôi nhà.

Ví dụ: Hành vi hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một cơ quan hoặc một người theo quy định của luật pháp sau khi nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở, mặc dù hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu cần thiết thế nhưng quá thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan đó hoặc người đó vẫn không cấp giấy phép xây dựng nhà ở cho người xin phép.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 3 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
3. Hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 và Điều 11 của Pháp lệnh thì hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bao gồm các hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong các việc hoặc các lĩnh vực được quy định tại các khoản từ khoản 3 đến khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh và trong các việc hoặc các lĩnh vực khác mà pháp luật có quy định.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 5 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
5. Việc xác định người bị kiện trong vụ án hành chính

Theo quy định tại điểm 6 Điều 4 Pháp lệnh thì người bị kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, để xác định đúng người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan nhà nước, tổ chức thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó.

Ví dụ: Có hai quyết định hành chính bị khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính và đều do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ký (một quyết định về xử phạt vi phạm hành chính và một quyết định thu hồi đất của hộ gia đình). Căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết các vụ việc này thì người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 29 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính), còn người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của hộ gia đình là Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 24 và Điều 26 Luật Đất đai).

Cần chú ý là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước quy định tại Điều 4 Pháp lệnh là người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết định hành chính hoặc một hành vi hành chính do một người cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...) ký hoặc thực hiện nhưng việc người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đó phải dưới danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền (ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công an phường...); do đó, chỉ có thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., của Trưởng Công an phường...; mà không thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của một người cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...). Vì vậy, trong trường hợp người ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc về hưu... mà quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó bị khiếu kiện, thì người được bầu, được cử, được bổ nhiệm... thay chức vụ, chức danh của người đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa họ chính là người bị kiện.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 4 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
4. Việc xác định người bị kiện trong vụ án hành chính

Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 của Pháp lệnh thì người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, để xác định đúng người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ hức thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó.

Ví dụ: Có hai quyết định hành chính bị khiếu kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính và đều do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ký (một quyết định về xử phạt vi phạm hành chính và một quyết định thu hồi đất của hộ gia đình). Căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết các vụ việc này thì người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 29 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính), còn người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của hộ gia đình là Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 37 và Điều 38 của Luật đất đai).

Cần chú ý là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh là người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Mặc dù một quyết định hành chính hoặc một hành vi hành chính do một người cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...) ký hoặc thực hiện, nhưng việc người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đó phải dưới danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền (ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., Trưởng Công an phường...); do đó, chỉ có thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện..., của Trưởng Công an phường... mà không thể gọi quyết định hành chính đó, hành vi hành chính đó của một người cụ thể (ông Nguyễn Văn A, bà Trần Thị X...). Vì vậy, trong trường hợp người ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính đã chuyển công tác đi nơi khác hoặc về hưu... mà quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó bị khiếu kiện, thì người được bầu, được cử, được bổ nhiệm... thay chức vụ, chức danh của người đó phải kế thừa quyền và nghĩa vụ, có nghĩa họ chính là người bị kiện.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
3. Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 5

l. Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

2. Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu trong hồ sơ giải quyết việc hành chính, hồ sơ xét kỷ luật mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc có hành vi hành chính.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tham gia tố tụng với bên người khởi kiện, bên người bị kiện hoặc tham gia tố tụng độc lập, có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

4. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Pháp lệnh này quy định.

5. Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự. Toà án chứng cứ mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ”.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 2 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
...
b) Theo quy định tại Điều 5 và Điều 30 của Pháp lệnh, thì người khởi kiện phải làm đơn kiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại. Đơn kiện phải có các nội dung chính quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh. Trong trường hợp người khởi kiện chưa làm đơn theo đúng quy định này, thì Toà án cần giải thích cho họ biết và yêu cầu họ làm lại đơn kiện có các nội dung chính theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh.

Toà án cần kiểm tra xem người khởi kiện, bên bị kiện cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã cung cấp đây đủ các văn bản, tài liệu quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh hay chưa. Nếu chưa, thì yêu cầu họ có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
4. Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 5

Người khởi kiện phải làm đơn kiện theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này; có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (nếu có), cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án bản sao văn bản quy phạm pháp luật cũng như bản sao các văn bản tài liệu khác mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc có hành vi hành chính.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tham gia tố tụng với bên người khởi kiện, bên người bị kiện hoặc tham gia tố tụng độc lập, có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Khi cần thiết, Toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan cung cấp tài liệu, chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính được chính xác. Đương sự, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức được yêu cầu phải cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn theo yêu cầu của Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do."

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
4. Điều 11 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 11

Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:

l. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;

3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính;

5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;

6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân;

7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc tế hoặc trong nước;

8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ;

9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản;

10. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế, truy thu thuế,

11. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất;

12. Khiếu kiến quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;

13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư;

14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan;

15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;

16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực;

17. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;

18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;

19. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống;

20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;

21 . Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc;

22. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm c Khoản 1 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
1. Về các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
...
c) Cần chú ý là không phải tất cả các quyết định hành chính của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh và cũng không phải tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan đó, nếu có khiếu kiện đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, mà chỉ có các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh nếu có khiếu kiện mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Ngoài ra khoản 8 Điều 11 còn quy định cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án "khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật". Điều này có nghĩa là hiện nay Toà án mới chỉ được giao thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh còn các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực khác, thì chỉ khi đựơc Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao mới thuộc thẩm quyền giải quyết cuả Toà án. (Toà án nhân dân tối cao sẽ có thông báo kịp thời đến các Toà án nhân dân về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án mới được giao thêm này).

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
5. Điều 11 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 11

Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính sau đây:

1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

2. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;

3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính;

4. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống;

5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai;

6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh;

7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản;

8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu thuế, truy thu thuế;

9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí;

10. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 8 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
8. Về khái niệm "công trình, vật kiến trúc kiên cố khác" quy định tại điểm 2 Điều 11 Pháp lệnh

a. "Công trình" phải là vật chắc chắn, bền vững mà việc xây dựng nó công phu, phải có khoa học, kỹ thuật hoặc nghệ thuật. Ví dụ: một bức tượng đài; một hệ thống phục vụ nuôi trồng thuỷ sản...

b. "Vật kiến trúc kiên cố khác" là ngoài nhà ở, công trình thì vật kiến trúc kiên cố khác phải 1à vật được xây dựng chắc chắn và bền vững có giá trị sử dụng lâu dài.

Ví dụ: giếng nước, nhà để ôtô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, nhà xưởng, kho tàng...

c. Không phân biệt giá trị nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác từ bao nhiêu trở lên, nếu có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý giải quyết, mà chỉ cần xác định đúng đó là nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác thì Toà án phải thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 7.1 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
7. Về quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh

7.1. Về khái niệm “công trình, vật kiến trúc kiên cố khác” quy định tại khoản 5 Điều 11 của Pháp lệnh

a) “Công trình” phải là vật chắc chắn, bền vững mà việc xây dựng nó công phu, phải có khoa học, kỹ thuật hoặc nghệ thuật. Ví dụ: một bức tượng đài; một hệ thống phục vụ nuôi trồng thuỷ sản...

b) “Vật kiến trúc kiên cố khác” là ngoài nhà ở, công trình thì vật kiến trúc kiên cố khác phải là vật được xây dựng chắc chắn và bền vững có giá trị sử dụng lâu dài. Ví dụ: giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, nhà xưởng, kho tàng...

c) Không phân biệt giá trị nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác từ bao nhiêu trở lên, nếu có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ Toà án mới thụ lý giải quyết, mà chỉ cần xác định đúng đó là nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác thì Toà án phải thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 9 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
9. Về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại điểm 5 Điều 11 Pháp lệnh bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại điểm 1 và 2 Điều 4 Pháp lệnh trong việc thực hiện nội dung quản lý đất đai quy định tại Điều 13 và các điều luật tương ứng khác của Luật Đất đai.

Quyết định của Uỷ ban nhân dân giải quyết tranh chấp đất đai là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục VII Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.

Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:
...
VII. VỀ HÀNH CHÍNH
...
2. Toà án có thụ lý giải quyết khi đương sự khởi kiện quyết định của Uỷ ban nhân dân về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?

Theo quy định tại khoản 5 Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung, thì khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Vì vậy, khi đương sự khởi kiện quyết định của Uỷ ban nhân dân về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì đây là một loại vụ án hành chính, cho nên Toà án có thẩm quyền thụ lý để giải quyết.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 7.3 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
7. Về quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh
...
7.3. Về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh

Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai mà các đương sự có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất.

Cần lưu ý là đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong việc giải quyết tranh chấp đất đai thì trong mọi trường hợp đều không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 10 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
10. Về quy định tại điểm 7 Điều 11 Pháp lệnh

Khi thi hành quy định tại điểm 7 Điều 11 Pháp lệnh cần chú ý là Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản được ban hành hoặc thực hiện sau ngày 02/10/1991 (ngày Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 297/CT).

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 7.2 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
7. Về quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh
...
7.2. Về quy định tại khoản 9 Điều 11 của Pháp lệnh

Khi thi hành quy định tại khoản 9 Điều 11 của Pháp lệnh cần chú ý là Toà án chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản được ban hành hoặc thực hiện sau ngày 02-10-1991 (ngày Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 297/CT).

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 11 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
11. Về quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh

Quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh cần được hiểu là ngoài các vụ án hành chính quy định tại các điểm từ điểm 1 đến điểm 9 Điều 11 Pháp lệnh, nếu trong một văn bản quy phạm pháp luật nào đó có quy định việc khiếu kiện để yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đối với loại quyết định hành chính, hành vi hành chính nào đó, thì khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là vụ án hành chính quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục chung. Vì vậy, khi có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính mà không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm 1 đến điểm 9 Điều 11 Pháp lệnh, thì Toà án cần kiểm tra xem đã có văn bản quy phạm pháp luật nào về lĩnh vực đó quy định quyền khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đó theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hay không. Nếu có văn bản quy phạm pháp luật quy định thì Toà án căn cứ vào điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và quy định tương ứng của văn bản quy phạm pháp luật đó để thụ lý giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục chung; nếu chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định thì Toà án căn cứ vào điểm 1 Điều 31 Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho người khởi kiện.

Theo quy định của một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã tổng hợp được thì các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính sau đây thuộc trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 11 Pháp lệnh và là vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục chung:

a. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp (trong việc cấp văn bằng bảo hộ, trong việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá theo Thoả ước Madrid, trong việc công nhận nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng) hoặc trong việc cấp li xăng không tự nguyện (Điều 27 và khoản 5 Điều 51 Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp và đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ);

b. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy chứng nhận bản quyền tác giả (khoản 3, khoản 4 Điều 26 và Điều 33 Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự);

c. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc phê duyệt Hợp đồng chuyển giao công nghệ (Điều 36 Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/ 1998 của Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ);

d. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng thực không đúng với quy định của pháp luật (Điều 69 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực);

đ. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi vi phạm pháp luật về hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải quan theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 54 Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan);

e. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ nhiệm hoặc Chủ tịch Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư đối với quyết định của Ban chủ nhiệm hoặc của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư (khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh Luật sư);

g. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính (Điều 119 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính).

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 7.4 và Điểm 20 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
7. Về quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh
...
7.4. Về quy định tại khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh

a) Quy định tại khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh cần được hiểu là ngoài các khiếu kiện quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 21 Điều 11 của Pháp lệnh, nếu trong một văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên nào đó có quy định việc khởi kiện để Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đối với loại khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính nào đó, thì khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục chung.

b) Khi có khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính mà không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 21 Điều 11 của Pháp lệnh, thì Toà án cần kiểm tra xem đã có văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên nào về lĩnh vực đó quy định quyền khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đó theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hay không. Trường hợp có văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên quy định, thì Toà án căn cứ vào khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh và quy định tương ứng của văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế đó để thụ lý giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục chung; nếu chưa có văn bản quy phạm pháp luật hoặc điều ước quốc tế nào quy định thì Toà án căn cứ vào khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
...
20. Việc giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định tại khoản 18 Điều 11 của Pháp lệnh

Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ án đối với khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu nhận được đơn khởi kiện chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu cử. Khi giải quyết đối với loại khiếu kiện này Toà án cần thực hiện như sau:
20.1. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện đối với khiếu kiện về
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Chánh án Toà án (hoặc Phó Chánh án được Chánh án Toà án uỷ nhiệm) phân công một Thẩm phán thụ lý ngay vụ án. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Quyết định đưa vụ án ra xét xử;

b) Đình chỉ vụ án và trả lại đơn khởi kiện.

20.2. Ngay sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải gửi ngay quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

20.3. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà xét xử. Bản án hành chính của Toà án giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có hiệu lực thi hành ngay. Các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị. Toà án phải gửi ngay bản án hành chính cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
5. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 12

1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:

a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;

b) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;

c) Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng lãnh thổ với toà án.

2. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:

a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;

b) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;

c) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;

d) Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;

đ) Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cùng lãnh thổ với Toà án giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;

e) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ vời Toà án;

g) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 6 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
6. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 12

1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:

a) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;

b) Những khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó.

2. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:

a) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ;

b) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ;

c) Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;

d) Những khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;

đ) Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

3. Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của Thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp tỉnh đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi."

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 3 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
3. Về thẩm quyền của Toà án:

a) Điều 12 của Pháp lệnh quy định cụ thể thẩm quyền của Toà án các cấp, đồng thời cũng quy định cụ thể những truờng hợp mà Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện và những trường hợp mà Toà án nhân dân tối cao có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh. Do đó, cần lưu ý là:

- Đối với Toà án cấp dưới, khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo thủ tục sơ thẩm, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà Toà án cấp trên có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và xét thấy việc Toà án cấp trên giải quyết là cần thiết, thì chủ động yêu cầu Toà án cấp trên lấy lên để giải quyết.

- Đối với Toà án cấp trên khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà mình có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và tự xét thấy việc lấy lên để giải quyết là cần thiết hoặc khi có yêu cầu của Toà án cấp dưới, thì mới lấy lên để giải quyết.

Cần chú ý là Toà án cấp trên chỉ có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp đã được quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm 8 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
8. Về quy định tại điểm g khoản 2 Điều 12 của Pháp lệnh

Những trường hợp sau đây Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện:

a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp;

b) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong trường hợp các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 6 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
6. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 13

1. Trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức không được giải quyết hoặc đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý mà khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền thì phân biệt thẩm quyền như sau:

a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền;

b) Trường hợp có nhiều người mà họ vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản này, nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai thì có quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính, nếu phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển vụ án hành chính phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị.

3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết.

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án cấp tỉnh do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết”.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 3 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
3. Về thẩm quyền của Toà án:
...
b) Khi xem xét thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, cần chú ý các quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh về phân biệt thẩm quyền giữa Toà án và cấp trên trực tiếp mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Trước hết cần xem xét quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó liên quan đến một người hay liên quan đến một số ngườì mà giải quyết như sau:

- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người, thì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án mặc dù người khởi kiện vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Trong trường hợp này Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).

- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có liên quan nhiều người, căn cứ vào quy dịnh tại điểm b khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh, thì trong mọi trường hợp sau khi nhận được đơn kiện, Toà án cần có văn bản gửi cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, yêu cầu cho Toà án biết bằng văn bản có người nào trong số những người có liên quan khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó hay không. Trong tường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết có người khiếu nại, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện hoặc chuyển đơn kiện cùng các tài liệu kèm theo đơn kiện mà Toà án nhận được cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khởi kiện biết. Trong trường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết không có người nào khiếu nại, thì Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung. Nếu sau khi thụ lý vụ án mới phát hiện có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 13; điểm e khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩn quyền của mình.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
7. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 13

1. Trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính không được giải quyết hoặc trong trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức đã được giải quyết lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý, thì họ có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền. Trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì phân biệt thẩm quyền như sau:

a) Nếu chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền;

b) Nếu có nhiều người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.

2. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 12 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
12. Việc xác định thẩm quyền của Toà án và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo

Để thi hành đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh về thẩm quyền, trước hết cần xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đó liên quan đến một người hay nhiều người (từ hai người trở lên). Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà việc xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án hay của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo được thực hiện như sau:

a. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó chỉ có liên quan đến một người mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có). Nếu đến trước thời điểm Toà án thụ lý vụ án đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, thì Toà án căn cứ vào điểm 6 Điều 31 Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho người khởi kiện.

b. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó có liên quan đến nhiều người mà tất cả những người đó đều khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, ngoài ra có người hoặc tất cả những người đó vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án và được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại điểm a mục 12 này.

c. Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó có liên quan đến nhiều người mà chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì Toà án cần phân biệt như sau:

- Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, những người khác còn lại không khởi kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

- Trong trường hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, những người khác còn lại tuy không khởi kiện vụ án hành chính, nhưng lại khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm 6 Điều 31 Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho người khởi kiện; nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính và chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 9.1 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
9. Về quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh

9.1. Việc xác định thẩm quyền của Toà án và của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai

Để thi hành đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh về thẩm quyền, trước hết cần xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đó liên quan đến một người hay nhiều người (từ hai người trở lên). Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà việc xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án hay của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai được thực hiện như sau:

a) Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó chỉ có liên quan đến một người mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có). Nếu đến trước thời điểm Toà án thụ lý vụ án đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, thì Toà án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Nếu sau khi Toà án đã thụ lý vụ án mới có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, thì Toà án căn cứ vào khoản 3 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Trong trường hợp Toà án trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án theo hướng dẫn tại điểm a này, nếu người đã khởi kiện không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai và có đơn khởi kiện vụ án hành chính, thì Toà án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.

b) Nếu quyết định hành chính, hành vi hành chính đó có liên quan đến nhiều người, thì phân biệt như sau:

b.1) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, những người khác còn lại không khởi kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Toà án và được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục này.

b.2) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Nếu Toà án chưa thụ lý vụ án thì Toà án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện; nếu Toà án đã thụ lý vụ án thì Toà án xoá sổ thụ lý và chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và thông báo cho người khởi kiện biết. Trong trường hợp này nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng người khiếu nại không đồng ý và họ có đơn khởi kiện vụ án hành chính thì Toà án căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu pháp luật không có quy định khác về trường hợp đó.

b.3) Trường hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, một hoặc một số người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai và được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại điểm b.2 tiểu mục này.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 13 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
13. Việc giải quyết trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác)

Trong trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác) thì tuỳ trường hợp mà giải quyết như sau:

a. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của mình, nhưng đây không phải là vụ án hành chính mà là vụ án khác (dân sự, kinh tế, lao động) thì Toà án giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó, đồng thời thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;

b. Nếu trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Toà án khác, thì Toà án đã thụ lý vụ án căn cứ vào khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh xoá sổ thụ lý, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền, đổng thời thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;

c. Nếu khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b mục 13 này, thì Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào điểm c Điều 64 Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó;

d. Nếu khi xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b mục 13 này, thì Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào điểm 3 Điều 72 Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 9.2 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
9. Về quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh
...
9.2. Việc giải quyết trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác)

Trong trường hợp Toà án đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính sai (do đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác) thì tuỳ trường hợp mà giải quyết như sau:

a) Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của mình, nhưng đây không phải là vụ án hành chính mà là vụ án khác (dân sự, kinh tế, lao động) thì Toà án giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó, đồng thời thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;

b) Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo trình tự sơ thẩm mà phát hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Toà án khác, thì Toà án đã thụ lý vụ án căn cứ vào khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh xoá sổ thụ lý, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền, đồng thời thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết;

c) Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục này, thì Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 64 của Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó;

d) Khi xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục này, thì Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 72 của Pháp lệnh huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 7 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
7. Điều 14 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 14

1. Các cơ quan tiến hành tố tụng hành chính gồm có:

a) Toà án nhân dân;

b) Viện kiểm sát nhân dân.

2. Những người tiến hành tố tụng hành chính gồm có:

a) Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;

b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 8 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
8. Điều 15 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 15

1. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.

2. Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.

3. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án cấp tỉnh là Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh. Khi Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.

4. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm có ba Thẩm phán.

5. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Khi Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến hành giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.”

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 10 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
10. Về quy định tại khoản 1 Điều 15 của Pháp lệnh

Những trường hợp sau đây Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân:

a) Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp;

b) Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
9. “Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 16

1. Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây.

a) Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;

b) Họ đã tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;

c) Họ đã tham gia vào việc ra quyết định hành chính hoặc có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện;

d) Họ đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính;

đ) Họ đã tham gia vào việc ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hoặc đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức;

e) Họ đã tham gia vào việc ra quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;

g) Họ đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

h) Họ đã tham gia vào việc lập danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc lập danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;

i) Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

2. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:

a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;

b) Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;

c) Họ đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;

d) Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát.

3. Kiểm sát viên, Thư ký Toà án phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:

a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;

b) Họ là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, Thư ký Tòa án.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 8 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
8. Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 16

1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

a) Đồng thời là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người thân thích của đương sự, người làm chứng trong vụ án;

b) Đã tham gia vào việc ra quyết định hành chính hoặc có liên quan đến hành vi hành chính bị khiếu kiện;

c) Đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính;

d) Đã tham gia vào việc ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hoặc đã tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức;

đ) Đã tham gia xét xử cùng một vụ án với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm, trừ các thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

e) Đã tham gia tố tụng cùng một vụ án với tư cách là Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch;

g) Trong một Hội đồng xét xử mà Thẩm phán, Hội thẩm là người thân thích với nhau;

h) Có người thân thích đã tham gia tố tụng cùng một vụ án ở cấp xét xử khác;

i) Có căn cứ cho thấy có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

2. Kiểm sát viên, Thư ký Toà án phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

a) Đã tham gia tố tụng cùng một vụ án ở cấp xét xử khác;

b) Có căn cứ quy định tại các điểm a, b, c, d, h và i khoản 1 Điều này."

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 11 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
11. Về quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh

11.1. Về quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh

a) Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh thì người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu họ là người thân thích của đương sự (bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) trong vụ án hành chính.

b) Người thân thích của đương sự là người có quan hệ sau đây với đương sự:

b.1) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của đương sự;

b.2) Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của đương sự;

b.3) Là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của đương sự;

b.4) Là cháu ruột của đương sự, mà đương sự là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.

c) Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ là ngoài các trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm h khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh thì trong các trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm, quan hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế...) có căn cứ rõ ràng để có thể khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm nhân dân là anh em kết nghĩa của người khởi kiện; Thẩm phán là con rể của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...

Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên toà xét xử vụ án hành chính Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án là người thân thích với nhau hoặc nếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên được phân công xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có người thân thích là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án đó.

11.2. Về quy định tại khoản 2 Điều 16 của Pháp lệnh

a) Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 16 của Pháp lệnh thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau. Tuy nhiên, khi có hai người trong Hội đồng xét xử thân thích với nhau thì chỉ có một người phải từ chối hoặc bị thay đổi. Việc thay đổi ai trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định, tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định. Việc xác định Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong cùng một Hội đồng xét xử là người thân thích với nhau được thực hiện tương tự theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 11.1 mục này.

b) Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 của Pháp lệnh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... vụ án đó. “Đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm... vụ án đó” là đã tham gia giải quyết vụ án và đã ra bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, quyết định đình chỉ vụ án.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
10. Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 17

l. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.

Trước khi mở phiên tòa, việc thay đổi Kiểm soát viên do Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.

2. Tại phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định

Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc cử Chánh án Toà án quyết định; nếu người bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.

3. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên tòa, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát phải cử người khác thay thế.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 12 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
12. Về quy định tại khoản 2 Điều 17 của Pháp lệnh

12.1. Tại phiên toà người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng phải trình bày rõ lý do và căn cứ của việc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.

Hội đồng xét xử nghe người bị yêu cầu thay đổi trình bày ý kiến của họ về yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng.

Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và lời trình bày của người có yêu cầu, của người bị yêu cầu thay đổi phải được ghi đầy đủ vào biên bản phiên toà. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và căn cứ vào quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh và hướng dẫn tại mục 11 của Nghị quyết này quyết định theo đa số thay đổi hoặc không thay đổi người tiến hành tố tụng.

Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng thì trong quyết định phải ghi rõ việc hoãn phiên toà và đề nghị người có thẩm quyền cử người khác thay thế người tiến hành tố tụng đã bị thay đổi trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định và thời hạn hoãn phiên toà.

12.2. Quyết định thay đổi hoặc không thay đổi người tiến hành tố tụng phải được Hội đồng xét xử công bố công khai tại phiên toà. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng phải được gửi ngay cho người có thẩm quyền để cử người thay thế; cụ thể như sau:

a) Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng là Kiểm sát viên phải được gửi ngay cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì phải gửi ngay quyết định cho Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp;

b) Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng khác phải được gửi ngay cho Chánh án Toà án; nếu người tiến hành tố tụng bị thay đổi là Chánh án Toà án thì phải gửi ngay quyết định cho Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
11. Điều 18 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 18

Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà xét xử vụ án hành chính.

Đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.”

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 21 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
21. Về việc khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát quy định tại Điều 18 và khoản 6 Điều 30 của Pháp lệnh

21.1. Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu không có ai khởi kiện. Quyết định khởi tố vụ án hành chính do Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng Viện kiểm sát uỷ nhiệm ký tên và đóng dấu.

21.2. Trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính thì khi nhận quyết định khởi tố, Toà án yêu cầu Viện kiểm sát phải có các tài liệu, chứng cứ kèm theo chứng minh cho việc khởi tố của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp. Tại phiên toà Kiểm sát viên phải trình bày quyết định khởi tố vụ án hành chính, căn cứ của việc khởi tố và tham gia phiên toà theo thủ tục chung đối với Kiểm sát viên.

21.3. Trường hợp Viện kiểm sát đã ra quyết định khởi tố vụ án hành chính rút quyết định khởi tố, thì Toà án căn cứ vào Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
12. Điều 19 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 19

l. Những người tham gia tố tụng hành chính gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.

2. Đương sự là cá nhân thì tự mình hoặc có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hành chính

3. Đương sự là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện hợp pháp”.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 2 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:
...
2. "Pháp nhân" quy định tại khoản 3 Điều 19 ... thành "cơ quan, tổ chức".

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 9 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
9. Điều 20 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 20

1. Trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện; người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức, khắc phục hành vi hành chính bị khiếu kiện, có quyền phản bác yêu cầu của người khởi kiện hoặc đề xuất yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của người khởi kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc cùng tham gia tố tụng với bên đương sự khác.

2. Các đương sự có quyền:

a) Đưa ra tài liệu, chứng cứ; được đọc, sao chụp, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp;

b) Yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

c) Tham gia phiên toà;

d) Yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch nếu có lý do quy định tại Điều 16 và Điều 27 của Pháp lệnh này;

đ) Thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật;

e) Tranh luận tại phiên toà;

g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;

h) Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.

3. Các đương sự có nghĩa vụ:

a) Cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ có liên quan theo yêu cầu của Toà án;

b) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;

c) Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 7 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
7. Việc giải quyết trong trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 Pháp lệnh thì trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện thì Toà án cần thông báo cho người khởi kiện biết và cần phân biệt:

a. Nếu người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và rút đơn kiện, thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;

b. Nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và không rút đơn kiện, thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định bị khiếu kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 6 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
6. Việc giải quyết trong trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện

Theo quy định tại Điều 3 (đoạn 4) và Điều 20 của Pháp lệnh thì trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện; do đó, trong quá trình giải quyết vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện thì Toà án cần thông báo cho người khởi kiện biết và cần phân biệt:

a) Nếu người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và rút đơn khởi kiện, thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;

b) Nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ đó và không rút đơn khởi kiện, thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp của quyết định bị khiếu kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khiếu kiện để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 10 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
10. Điều 21 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 21

1. Đương sự từ đủ mười tám tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính.

2. Đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng thông qua người đại diện; nếu không có ai đại diện cho họ, thì Toà án cử một người thân thích của họ hoặc yêu cầu một cơ quan, tổ chức cử một thành viên làm người đại diện cho họ."

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
13. Điều 27 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 27

Người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này. Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 11 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
11. Điều 27 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 27

Người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, b, c, d, h và i khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh này. Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi."

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 2 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:
...
2. "Pháp nhân" quy định tại ... khoản 2 Điều 28 ... thành "cơ quan, tổ chức".

Xem nội dung VB
- Án phí hành chính được hướng dẫn bởi Chương 6 Nghị định 70-CP

Căn cứ vào Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21 tháng 5 năm 1996;
...
Chương 6: ÁN PHÍ HÀNH CHÍNH

Điều 27.- Án phí hành chính bao gồm án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính sơ thẩm đồng thời chung thẩm, án phí hành chính phúc thẩm.

Mức án phí hành chính các loại được quy định một mức chung là 50.000 đồng.

Điều 28.- Người khởi kiện vụ án hành chính, người kháng cáo phúc thẩm bản án, quyết định hành chính sơ thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí là 50.000 đồng, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, miễn nộp án phí quy định tại Điều 31 của Nghị định này.

Điều 29.-

1. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm hoặc án phí phúc thẩm, nếu rút đơn kiện trước khi mở phiên toà sơ thẩm hoặc đơn kháng cáo trước khi mở phiên toà phúc thẩm, thì được trả lại 50% số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

2. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí được trả lại toàn bộ, nếu theo quyết định của Toà án họ không phải chịu án phí hoặc được trả lại phần chênh lệch, nếu theo quyết định của Toà án họ phải chịu án phí ít hơn số tiền tạm ứng án phí mà họ đã nộp.

3. Nếu việc giải quyết vụ án hành chính bị tạm đình chỉ, thì án phí được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết. Nếu việc giải quyết vụ án hành chính bị đình chỉ theo quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, thì số tiền tạm ứng án phí đã nộp được chuyển vào ngân sách Nhà nước.

Điều 30.- Việc chịu án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính sơ thẩm đồng thời chung thẩm, án phí hành chính phúc thẩm được quy định như sau:

1. Bên có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính sơ thẩm đồng thời chung thẩm, nếu bản án hoặc quyết định của Toà án tuyên các quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật. Trong trường hợp các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện được Toà án giữ nguyên thì người khởi kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính sơ thẩm đồng thời chung thẩm, trừ trường hợp được miễn án phí quy định tại Điều 31 của Nghị định này.

2. Đương sự kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, nếu Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm.

3. Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, nếu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm, huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm.

4. Đối với phần dân sự về bồi thường thiệt hại trong các vụ án hành chính thì người phải bồi thường phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 7 và Điều 11, người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 8 và Điều 12 của Nghị định này, trừ trường hợp được miễn án phí theo quy định tại Điều 13 của Nghị định này.

Điều 31.-

1. Những trường hợp được không phải nộp tiền tạm ứng án phí, miễn án phí hành chính:

a. Thương binh, bố, mẹ liệt sĩ, người có công với cách mạng khiếu kiện về các quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được miễn án phí.

b. Viện Kiểm sát khởi tố vụ án hành chính, kháng nghị bản án, quyết định hành chính sơ thẩm không phải nộp tiền tạm ứng án phí và án phí.

c. Các đương sự khác được miễn án phí trong trường hợp khiếu kiện về các quyết định hành chính quy định tại các khoản 3, 5 Điều 11 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

2. Người có khó khăn về kinh tế được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú xác nhận, khiếu kiện về các quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có thể được Toà án miễn một phần hoặc toàn bộ án phí.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 14 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
14. Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 30

l. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền; lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Trong trường hơp pháp luật không có quy định khác thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

a) Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

b) Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

c) Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

d) Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này chậm nhất là năm ngày, trước ngày bầu cử, nhưng không đồng ý về cách giải quyết của cơ quan lập danh sách cử tri;

đ) Đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

e) Đối với trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

g) Đối với trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh hoặc của Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

h) Đối với trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 2 của Pháp lệnh này thì thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về trường hợp đó; nếu pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai hay kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai.

3. Đối với vùng, sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn khởi kiện quy định tại các điểm a, b và đ khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm ngày.

4. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khởi kiện.

5. Người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;

c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện;

d) Nội dung quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;

đ) Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có);

e) Các yêu cầu Toà án giải quyết.

6. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì người đại điện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; nếu việc khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do cha, mẹ, người giám hộ của những người này ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp Viện kiểm sát khởi tố thì viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm ký tên và đóng dấu. Kèm theo đơn khởi kiện, văn bản khởi tố phải có các tài liệu, chứng từ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện, việc khởi tố là có căn cứ và hợp pháp.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 12 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
12. Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 30

1. Người khởi kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó. Cán bộ, công chức khởi kiện đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó.

Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì các thời hạn khởi kiện nói trên là bốn mươi lăm ngày.

2. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khởi kiện.

3. Đơn kiện phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm đơn;

b) Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;

c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện;

d) Nội dung quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;

đ) Nội dung quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (nếu có);

e) Cam đoan không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;

g) Các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết.

4. Đơn kiện phải do người khởi kiện ký; nếu họ là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì phải do người đại diện của họ ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 14 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
14. Việc xác định thời điểm để tính thời hạn khởi kiện

Khi thi hành khoản 1 Điều 30 Pháp lệnh cần chú ý là trong trường hợp người khởi kiện vụ án hành chính do không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đâu thì chỉ cần người khởi kiện làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn 30 ngày (đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì trong thời hạn 45 ngày), kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không phụ thuộc vào quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu được ban hành vào thời điểm nào.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 13 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
13. Về quy định tại khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh

13.1. Khi thi hành khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh cần chú ý là trong trường hợp người khởi kiện vụ án hành chính do không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai thì chỉ cần người khởi kiện làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 30 của Pháp lệnh, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai mà không phụ thuộc vào quyết định giải quyết khiếu nại đó được ban hành vào thời điểm nào.

13.2. Trong trường hợp sau khi đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai và người khiếu nại vẫn khiếu nại tiếp và cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai đó lại ra quyết định (hoặc văn bản) giải quyết khiếu nại thì cần phân biệt như sau:

a) Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại sau có nội dung giải quyết khiếu nại khác một phần hoặc toàn bộ với nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại trước, thì thời hạn khởi kiện được tính từ ngày người khiếu nại nhận được quyết định giải quyết khiếu nại sau;

b) Trường hợp quyết định giải quyết khiếu nại sau có nội dung giải quyết khiếu nại không khác với nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại trước hoặc chỉ là trả lời về việc giải quyết khiếu nại trước, thì thời hạn khởi kiện được tính từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại trước.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 15 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
15. Điều 31 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 31

l. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây:

a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; b) Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng;

c) Không đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh này;

d) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án; đ.) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

2. Khi trả lại đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.

3. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện.

Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;

b) Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 13 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
13. Điều 31 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 31

Toà án trả lại đơn kiện trong những trường hợp sau đây:

1. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;

2. Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng;

3. Chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu quy định tại Điều 36 Luật khiếu nại, tố cáo và chưa có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu;

4. Đã hết thời hiệu khiếu nại lần đầu quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo mà không khiếu nại;

5. Chưa có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

6. Đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;

7. Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;

8. Việc được khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án."

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 14 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
14. Điều 32 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 32

1. Nếu Toà án xét thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của mình, thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.

2. Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn kiện."

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 22 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
22. Về việc thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát

22.1. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo trình tự sơ thẩm, Toà án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án hành chính. Trong trường hợp thụ lý nhiều vụ án hành chính, Toà án có thể thông báo trong một văn bản về các vụ án mà Toà án đã thụ lý. Văn bản thông báo phải có đầy đủ các nội dung chính quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh.

22.2. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo trình tự phúc thẩm, Toà án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án hành chính. Trong trường hợp thụ lý nhiều vụ án hành chính, Toà án có thể thông báo trong một văn bản về các vụ án mà Toà án đã thụ lý. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;

b) Tên, địa chỉ Toà án đã thông báo;

c) Tên, địa chỉ của người kháng cáo;

d) Số, ngày, tháng, năm của bản án hành chính sơ thẩm bị kháng cáo;

đ) Những vấn đề cụ thể người kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm giải quyết.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 16 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
16. Điều 33 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 33

1. Sau khi Toà án đã thụ lý vụ án, đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm việc thi hành án; đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.

2. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Việc kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó; nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án.

3. Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được Toà án xem xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

4. Trong quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực của quyết định, nhưng không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

5. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 34 của Pháp lệnh này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó.

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này được thực hiện theo các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự.''

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 4 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
4. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khi xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạn thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện" quy định tại khoản 1 Điều 34 của Pháp lệnh, cần thi hành đúng quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 33 của Pháp lệnh: "nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời", cụ thể là:

a) Cần xem xét việc ra quyết định hành chính căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật nào. Nếu văn bản quy phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó có quy định quyết định hành chính đó vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì trong trường hợp này không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Ngược lại, nếu văn bản quy phạm pháp luật là Bộ luật, Luật trong đó không quy định: "quyết định hành chính vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện" hoặc quy định "quyết định hành chính chưa có hiệu lực thi hành, nếu có khiếu nại, khiếu kiện", thì Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện". Riêng đối với quyết định hành chính căn cứ vào Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới Pháp lệnh, mặc dù trong Pháp lệnh hay văn bản quy phạm pháp luật dưới Pháp lệnh có quy định vẫn có hiệu lực thi hành, mặc dù có khiếu nại, khiếu kiện, thì nếu xét thấy cần thiết , Toà án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện".

b) Khoản 1 Điều 33 của Pháp lệnh quy định đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩm cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm việc thi hành án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp khi có đơn yêu cầu của đương sự là Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, mà phải căn cứ vào khoản 3 Điều 33 của Pháp lệnh, tức là phải trong truờng hợp có đủ căn cứ phápluật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án mới ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

c) Đối với yêu cầu của Viện kiểm sát thì khoản 2 Điều 33 quy định: "... Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Theo tinh thần của quy định này, thì Toà án phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; do đó, khi có yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án cần phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện và có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của mình. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính đó. Chánh án Toà án phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 14 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
14. Về quy định tại khoản 5 Điều 33 của Pháp lệnh

Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 5 Điều 33 của Pháp lệnh được thực hiện theo các quy định tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự; do đó, khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này Toà án cần thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 99, các điều 100, 101, 117, 120, 123, 124, 125 và 126 của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27 tháng 4 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 17 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
17. Điều 37 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 37

1. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.

2. Văn bản thông báo phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;

b) Tên, địa chỉ Toà án đã thụ 1ý vụ án;

c) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;

d) Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;

đ) Danh sách tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;

e) Thời hạn người được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có);

g) Hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện.

3. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).

Trong trường hợp cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không quá mười ngày.

4. Người được thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện, văn bản khởi tố và tài liệu, chứng cứ kèm theo.

5. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ 1ý vụ án, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Đưa vụ án ra xét xử;

b) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;

c) Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Đối với các vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn nói trên không quá ba tháng

6. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toá án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó cũng không được quá ba mươi ngày.

7. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.

Cùng với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho tòa án.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 1 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:

1. "Bên bị kiện" quy định tại khoản 1 Điều 37 ... thành "người bị kiện".

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điểm c Khoản 2 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
...
c) Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết các vụ án; hết thời hạn này mà không nhận được ý kiến bằng văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Điều đó có nghĩa là, hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện không cung cấp các tài liệu theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án áp dụng các quy định của Pháp lệnh để tiếp tục giải quyết vụ án. Ví dụ như áp dụng quy định tại đoạn 4 Điều 5 của Pháp lệnh để xác minh, thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết buộc bên bị kiện phải cung cấp các tài liệu thì có thể áp dụng khoản 2 Điều 33 và khoản 2 Điều 34 của Pháp lệnh ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc đương sự, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu cụ thể nào đó. Trong thời hạn sáu mươi ngày (đối với vụ án phức tạp thì trong thời hạn không quá chín mươi ngày), kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên toà phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh; cụ thể là: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 1 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:

1. "Bên bị kiện" quy định tại khoản 1 Điều 37 ... thành "người bị kiện".

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 15.1, 15.2, 15.4 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
15. Về quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 37 của Pháp lệnh

15.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Chỉ trong trường hợp vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa là ba tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.

a) “Vụ án phức tạp” là vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài...

b) “Trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động như: thiên tai, địch hoạ, nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu... làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định.

Ví dụ: Toà án nhân dân huyện B, tỉnh L ở miền núi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử trong đó đã ấn định ngày mở phiên toà. Tuy nhiên, còn hai ngày nữa là tiến hành mở phiên toà, thì xảy ra lũ quét. Trụ sở của Toà án nhân dân huyện B bị hư hỏng. Do phải khắc phục hậu quả của lũ quét, sửa chữa lại trụ sở, nên Toà án nhân dân huyện B không thể tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.

15.2. Trong thời hạn quy định tại khoản 5 Điều 37 của Pháp lệnh và được hướng dẫn tại tiểu mục 15.1 mục này, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Đưa vụ án ra xét xử;

b) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;

c) Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
...
15.4. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử được bắt đầu tính lại kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 15.3 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
15. Về quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 37 của Pháp lệnh
...
15.3. Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà phiên toà không được mở trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính đáng thì thời hạn này được cộng thêm tối đa là mười ngày nữa.

“Lý do chính đáng” là các sự kiện xảy ra một cách khách quan, không lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà người có thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án phức tạp đã được xét xử nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác đến... nên cản trở Toà án tiến hành phiên toà trong thời hạn quy định.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều 39 ... của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 2 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:
...
2. "Pháp nhân" quy định tại ... khoản 1 Điều 40 ... thành "cơ quan, tổ chức".

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 18 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
18. Điều 41 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 41

1. Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính trong các trường hợp sau đây:

a) Đương sự là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.

b) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện, Viện kiểm sát rút quyết định khởi tố;

c) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.

2. Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản l Điều này.

3. Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, xoá tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 31 của Pháp lệnh này.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 15 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
15. Điều 41 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 41

1. Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:

a) Đương sự là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức đã giải thể mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng;

b) Người khởi kiện rút đơn kiện; Viện kiểm sát rút quyết định khởi tố trong trường hợp không có người khởi kiện;

c) Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng;

d) Thời hạn khởi kiện đã hết trước ngày Toà án thụ lý đơn;

đ) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;

e) Đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;

g) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

2. Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này."

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điểm d Khoản 2 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
...
d) Trong trường hợp, Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do "nguyên đơn rút đơn kiện" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh nếu sau đó họ khởi kiện lại, thì Toà án vẫn thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan Nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đến ngày khởi kiện lại chưa quá ba mươi ngày.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
19. Điều 43 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 43

1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.

2. Người khởi kiện phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.

Người khởi kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì người khởi kiện có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

3. Người bị kiện phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.

Người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Tòa án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu người khởi kiện và người bị kiện đều đồng ý. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

5. Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:

a) Người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt;

b) Người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà;

c) Người khởi kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do chính đáng;

đ) Các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.

6. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án tiến hành xét xử vụ án; trong trường hợp này, đương sự tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

7. Người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Trong trường hợp người làm chứng vắng mặt, nhưng trước đó đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gởi lời khai cho Toà án thì chủ toạ phiên toà công bố lời khai đó.

Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử; trường hợp người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có thể bị dẫn giải đến phiên tòa theo quyết định của Hội đồng xét xử.

8. Người giám định có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của tòa án để làm rõ những vấn đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định.

Trường hợp người giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.”

9. Người phiên dịch có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệut ập của toà án.

Trường hợp người vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.”

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 5 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
5. Về sự tham gia phiên toà của đương sự và Viện kiểm sát.

a) Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 43 của Pháp lệnh thì đối với phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, nhưng trong trường hợp người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét xử, không cần phải biết lý do vắng mặt của bên bị kiện có chính đáng hay không chính đáng.

Đối với vụ án mà nội dung đã rõ ràng, có đủ chững cứ được các bên thừa nhận và không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Tòa án tiến hành phiên toà sơ thẩm không cần sự có mặt của đương sự và những người tham gia tố tụng khác.

Đối với vụ án thuộc trường hợp này cũng như vụ án khi xét xử sơ thẩm mặc dù có sự tham gia của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, nhưng do có kháng cáo, kháng nghị, khi xét xử phúc thẩm họ không có yêu cầu tham gia phiên toà, thì Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm không cần có sự có mặt của người tham gia tố tụng.

b) Theo quy định tại khoản 3 Điều 43, Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án và trong trường hợp có đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần hay đối với các vụ án về khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Trong trường hợp không tham gia phiên toà sơ thẩm được thì phải có ý kiến bằng văn bản. Do đó, khi có vụ án thuộc một trong các trường hợp này nếu vắng mặt Kiểm sát viên mà cũng chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát, thì Toà án cấp sơ thẩm phải hoãn phiên toà.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 15 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
15. Về việc Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà

Khoản 3 Điều 43 và Điều 63 Pháp lệnh quy định Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà hoặc phải có ý kiến bằng văn bản đối với một số loại vụ án hành chính cụ thể, nay theo quy định tại điểm 3 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn: "Tham gia các phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án"; do đó, từ nay trở đi sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án phải hoãn phiên toà.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 23.1 và Điểm 24 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
23. Về việc chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện kiểm sát

23.1. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm theo
quy định tại khoản 1 Điều 43 của Pháp lệnh, thì Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án hành chính cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu ngay sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 7 Điều 37 của Pháp lệnh. Hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án để tiến hành mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án.
...
24. Về việc Kiểm sát viên Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp

24.1. Khoản 1 Điều 43, khoản 1 Điều 63 và khoản 1 Điều 71 của Pháp lệnh quy định Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà; do đó, sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo hướng dẫn tại mục 22 Nghị quyết này và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp phân công Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Trường hợp vụ án phức tạp, phiên toà có thể kéo dài nhiều ngày và xét thấy cần thiết thì yêu cầu Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên dự khuyết. Viện kiểm sát gửi thông báo bằng văn bản về việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) cho Toà án. Trong văn bản thông báo phải nêu rõ họ, tên của Kiểm sát viên và Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) được Viện trưởng phân công tham gia phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án phải hoãn phiên toà.

24.2. Pháp lệnh không quy định Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp trong các trường hợp quy định tại Điều 61 của Pháp lệnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp xét kháng nghị của Viện kiểm sát, thì Toà án thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên họp vắng mặt có lý do chính đáng và được Viện kiểm sát thông báo về sự vắng mặt đó thì Toà án hoãn phiên họp. Ngoài trường hợp này nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành phiên họp theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Quy định về người phiên dịch được hướng dẫn bởi Điểm 16 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
16. Về quy định tại khoản 9 Điều 43 của Pháp lệnh

Trường hợp trong vụ án có đương sự là người không sử dụng được tiếng Việt và Toà án đã cử người phiên dịch, nếu người phiên dịch vắng mặt tại phiên toà và không có người thay thế ngay thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, nếu đương sự không sử dụng được tiếng Việt đó vẫn yêu cầu tiến hành xét xử (không phụ thuộc vào việc các đương sự khác có đồng ý hay không đồng ý việc Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử).

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều ... 44 ... của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều ... 44 ... của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 20 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
20. Điều 45 được sửa đổi, bổ sung như sau:

''Điều 45

Hội đồng xét xử hoãn phiên toà trong các trường hợp sau đây:

1. Các trường hợp quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh này;

2. Thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay;

3. Cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 16 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
16. Điều 45 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 45

Hội đồng xét xử hoãn phiên toà trong các trường hợp sau đây:

1. Vắng mặt Kiểm sát viên hoặc chưa có ý kiến bằng văn bản của Viện kiểm sát trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà hay phải có ý kiến bằng văn bản;

2. Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng đối với phiên toà sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của người tham gia tố tụng;

3. Thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay;

4. Cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung."

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 1 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:

1. "Bên bị kiện" quy định tại ... khoản 1 Điều 46 thành "người bị kiện".

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 17 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
17. Về quy định tại tại khoản 2 Điều 49 của Pháp lệnh

17.1. Bản án hành chính sơ thẩm cần phải có các nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 49 của Pháp lệnh và phải được trình bày tương tự theo mẫu bản án sơ thẩm được ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính thì việc ghi các đương sự như sau:

a) Thay mục “Nguyên đơn” (Người khởi kiện) bằng “Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính”. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh khởi tố vụ án hành chính thì ghi tên Viện kiểm sát đó (ví dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H.T). Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện khởi tố vụ án hành chính thì ghi tên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đó thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính: Viện kiểm sát nhân dân huyện G, thành phố H).

b) Thay mục “Bị đơn” (Người bị kiện) bằng “Người có quyết định hành chính (hành vi hành chính) bị khởi tố vụ án hành chính (ví dụ: Người có quyết định hành chính bị khởi tố vụ án hành chính: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường B, quận H, thành phố H).

17.2. Khi xét xử vụ án hành chính tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể có một hoặc một số quyết định sau đây:

a) Bác yêu cầu của người khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;

b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện tuyên huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật;

c) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;

d) Buộc cơ quan hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật gây ra;

đ) Chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện tuyên huỷ quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật; buộc bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân do quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật gây ra.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án

...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều ... 49 ... của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 6 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
6. Về căn cứ pháp luật để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai.

Khi giải quyết vụ án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện.

Ví dụ: Nghị định của Chính phủ quy định về thu thuế đối với một loại hoạt động nào đó với mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cũng chỉ hướng dẫn cụ thể hơn và cũng hướng dẫn mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Uỷ ban nhân dân tỉnh X căn cứ vào địa phương mình cho rằng phải thu cao hơn nên ra văn bản hướng dẫn việc thu thuế đối với loại hoạt động này ở địa phương mình với mức tối đa là 8% tổng giá trị lợi nhuận. Khi thu thuế, cán bộ có thẩm quyền chỉ căn cứ vào văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh nên ra quyết định thu thuế 7% tổng giá trị lợi nhuận. Quyết định về thu thuế này bị khiếu kiện. Trong trường hợp này Nghị định của Chính phủ có giá trị pháp lý cao nhất và căn cứ vào nghị định của Chính phủ, thì quyết định về thu thuế của cán bộ có thẩm quyền là không đúng; do đó, khi xét xử Toà án quyết định huỷ bỏ quyết định về thu thuế nói trên và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định thu thuế phải sửa lại quyết định của mình cho đúng pháp luật.

Cần lưu ý là trong các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên (như trong ví dụ trên), thì đồng thời việc ra quyết định huỷ bỏ quyết định hành chính hay kết luận hành vi hành chính là trái pháp luật, Toà án cần kiến nghị với cơ quan đã ra văn bản quy phạm pháp luật trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên để cơ quan đó tự huỷ bỏ. Nếu trong một thời gian nhất định mà vẫn chưa huỷ bỏ, thì yêu cầu Viện kiểm sát áp dụng các quy định tại Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị văn bản nói trên.

Tuy nhiên, để việc ra quyết định được đúng đắn, Toà án phải xác minh tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện thì gồm có bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật của những cơ quan nào quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành để xác định văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điểm 16 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
16. Về các quyết định của Toà án trong bản án hành chính sơ thẩm Khoản 2 Điều 49 Pháp lệnh quy định các nội đung chính của bản án.

Tuy nhiên điểm e khoản 2 này chỉ quy định là "các quyết định của Toà án" mà không quy định cụ thể là những quyết định nào. Khi xét xử vụ án hành chính tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Toà án có thể có một hoặc một số quyết định sau đây:

a. Bác yêu cầu của người khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;

b. Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện tuyên huỷ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật;

c. Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật;

d. Buộc cơ quan hành chính nhà nước bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật gây ra;

đ. Chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện tuyên huỷ quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm công vụ theo quy định của pháp luật; buộc bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân do quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật gây ra.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 6 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
6. Về căn cứ pháp luật để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai.

Khi giải quyết vụ án hành chính, căn cứ để xem xét quyết định hành chính, hành vi hành chính đúng hay sai là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện.

Ví dụ: Nghị định của Chính phủ quy định về thu thuế đối với một loại hoạt động nào đó với mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cũng chỉ hướng dẫn cụ thể hơn và cũng hướng dẫn mức tối đa là 5% tổng giá trị lợi nhuận thu được. Uỷ ban nhân dân tỉnh X căn cứ vào địa phương mình cho rằng phải thu cao hơn nên ra văn bản hướng dẫn việc thu thuế đối với loại hoạt động này ở địa phương mình với mức tối đa là 8% tổng giá trị lợi nhuận. Khi thu thuế, cán bộ có thẩm quyền chỉ căn cứ vào văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh nên ra quyết định thu thuế 7% tổng giá trị lợi nhuận. Quyết định về thu thuế này bị khiếu kiện. Trong trường hợp này Nghị định của Chính phủ có giá trị pháp lý cao nhất và căn cứ vào nghị định của Chính phủ, thì quyết định về thu thuế của cán bộ có thẩm quyền là không đúng; do đó, khi xét xử Toà án quyết định huỷ bỏ quyết định về thu thuế nói trên và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định thu thuế phải sửa lại quyết định của mình cho đúng pháp luật.

Cần lưu ý là trong các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật của cấp dưới trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên (như trong ví dụ trên), thì đồng thời việc ra quyết định huỷ bỏ quyết định hành chính hay kết luận hành vi hành chính là trái pháp luật, Toà án cần kiến nghị với cơ quan đã ra văn bản quy phạm pháp luật trái với văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên để cơ quan đó tự huỷ bỏ. Nếu trong một thời gian nhất định mà vẫn chưa huỷ bỏ, thì yêu cầu Viện kiểm sát áp dụng các quy định tại Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị văn bản nói trên.

Tuy nhiên, để việc ra quyết định được đúng đắn, Toà án phải xác minh tại thời điểm ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà bị khiếu kiện thì gồm có bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật của những cơ quan nào quy định về lĩnh vực đó đang có hiệu lực thi hành để xác định văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều ... 52 của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Khoản 29 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
29. Thay cụm từ ''Thư ký phiên toà'' tại các điều ... 52 của Pháp lệnh thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 25 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
25. Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 55 của Pháp lệnh thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đối với các vụ án hành chính do Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện thực hành công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 2 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:
...
2. "Pháp nhân" quy định tại ... khoản 1 Điều 56 ... thành "cơ quan, tổ chức".

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 21 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
21. Điều 58 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 58

1. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.

2. Trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị.

Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.

3. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho Viện kiểm sát và các đương sự biết về việc thay đổi bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.

Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.”

Xem nội dung VB
- Khoản này được sửa đổi bởi Khoản 17 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
17. Khoản 1 Điều 58 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 58

1. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo; Viện kiểm sát kháng nghị có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng nghị; Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới."

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 26 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
26. Về việc Viện kiểm sát thay đổi, bổ sung kháng nghị quy định tại Điều 58 của Pháp lệnh

26.1. Toà án chấp nhận việc Viện kiểm sát đã kháng nghị thay đổi, bổ sung kháng nghị như sau:

a) Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh, thì Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu.

b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Pháp lệnh, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà người đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi đã kháng nghị trong thời hạn kháng nghị.

26.2. Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 58 của Pháp lệnh. Việc thay đổi, bổ sung kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 17 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
17. Việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 62 Pháp lệnh thì trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của Pháp lệnh này. Đồng thời theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền: "Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này"; do đó, để bảo đảm thống nhất thì trước khi mở phiên toà phúc thẩm nếu có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải thành lập Hội đồng xét xử, nếu kết quả xét xử cho thấy đúng có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Cần chú ý là nếu huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra bản án phúc thẩm; nếu huỷ quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định phúc thẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 18 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
18. Việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 62 của Pháp lệnh thì trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của Pháp lệnh. Đồng thời theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 64 của Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền: “Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này”; do đó, để bảo đảm thống nhất thì trước khi mở phiên toà phúc thẩm nếu có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải thành lập Hội đồng xét xử, nếu kết quả xét xử cho thấy đúng có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Cần chú ý là nếu huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra bản án phúc thẩm; nếu huỷ quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định phúc thẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 15 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
15. Về việc Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà

Khoản 3 Điều 43 và Điều 63 Pháp lệnh quy định Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà hoặc phải có ý kiến bằng văn bản đối với một số loại vụ án hành chính cụ thể, nay theo quy định tại điểm 3 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn: "Tham gia các phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện Kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án"; do đó, từ nay trở đi sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án phải hoãn phiên toà.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 22 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
22. Điều 63 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 63

1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm; nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên toà.

Toà án phải gởi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho tòa án

2. Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì tòa án vẫn có thể tiến hành xét xử.

3. Toà án chỉ triệu tập người giám định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu của đương sự và khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị; nếu có người vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án quyết định tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên toà.

4. Đối với các vụ án khi xét xử sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không có yêu cầu tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm không cần sự có mặt của họ.”

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 23.2, 23.5, 24 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
23. Về việc chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện kiểm sát
...
23.2. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 63 của Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án hành chính cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Hết thời hạn mười ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm yêu cầu Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án để tiến hành mở phiên toà xét xử phúc thẩm vụ án.
...
23.5. Trường hợp Viện kiểm sát cần nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì Toà án tạo điều kiện để Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án tại Toà án.
24. Về việc Kiểm sát viên Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp

24.1. Khoản 1 Điều 43, khoản 1 Điều 63 và khoản 1 Điều 71 của Pháp lệnh quy định Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà; do đó, sau khi thụ lý vụ án hành chính, Toà án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo hướng dẫn tại mục 22 Nghị quyết này và yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp phân công Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Trường hợp vụ án phức tạp, phiên toà có thể kéo dài nhiều ngày và xét thấy cần thiết thì yêu cầu Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên dự khuyết. Viện kiểm sát gửi thông báo bằng văn bản về việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) cho Toà án. Trong văn bản thông báo phải nêu rõ họ, tên của Kiểm sát viên và Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) được Viện trưởng phân công tham gia phiên toà. Nếu vắng mặt Kiểm sát viên, thì Toà án phải hoãn phiên toà.

24.2. Pháp lệnh không quy định Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp trong các trường hợp quy định tại Điều 61 của Pháp lệnh. Tuy nhiên, đối với trường hợp xét kháng nghị của Viện kiểm sát, thì Toà án thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và yêu cầu Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên họp vắng mặt có lý do chính đáng và được Viện kiểm sát thông báo về sự vắng mặt đó thì Toà án hoãn phiên họp. Ngoài trường hợp này nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành phiên họp theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 18 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
...
18. Điều 64 được sửa đổi, bổ sung như sau:

"Điều 64

1. Phiên toà phúc thẩm được tiến hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm. Trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị, một thành viên Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.

2. Toà án cấp phúc thẩm có quyền:

a) Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;

b) Sửa một phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm;

c) Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;

d) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 40 của Pháp lệnh này;

đ) Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này;

e) Đình chỉ việc giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án cần phải có mặt người kháng cáo và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.

Đối với trường hợp có nhiều người kháng cáo, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm, nhưng không xem xét nội dung kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt nói trên.

3. Bản án, quyết định sơ thẩm bị sửa đổi một phần hoặc toàn bộ khi:

a) Nội dung trái pháp luật, không phù hợp với hồ sơ vụ án;

b) Có chứng cứ mới cho thấy bản án, quyết định sơ thẩm trái pháp luật, không đúng với sự thật khách quan của vụ án."

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điểm 17 Nghị quyết 03/2003/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 05/09/2006)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau :
...
17. Việc đình chỉ giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm

Theo quy định tại Điều 62 Pháp lệnh thì trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định của Pháp lệnh này. Đồng thời theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 64 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền: "Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này"; do đó, để bảo đảm thống nhất thì trước khi mở phiên toà phúc thẩm nếu có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng phải thành lập Hội đồng xét xử, nếu kết quả xét xử cho thấy đúng có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 Pháp lệnh thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án. Cần chú ý là nếu huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra bản án phúc thẩm; nếu huỷ quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định phúc thẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 23 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
23. Điều 68 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 68

1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

2. Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện.”

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 23.3 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
23.3. Trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải gửi hồ sơ vụ án hành chính cùng với quyết định kháng nghị cho Viện kiểm sát nghiên cứu ngay sau khi Chánh án ra quyết định kháng nghị. Hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm yêu cầu Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án để tiến hành mở phiên toà xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 23.3 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
23.3. Trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải gửi hồ sơ vụ án hành chính cùng với quyết định kháng nghị cho Viện kiểm sát nghiên cứu ngay sau khi Chánh án ra quyết định kháng nghị. Hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm yêu cầu Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án để tiến hành mở phiên toà xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 24 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
24. Điều 69 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 69

1. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.

2. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 2 Điều 67 của Pháp lệnh này.

3. Kháng nghị phải được gửi cho Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị, Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Trong trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án cấp tỉnh kháng nghị thì Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm phải gởi kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị và hồ sơ vụ án.

4. Người đã kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có quyền thay đổi bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

5. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà, người kháng nghị có quyền rút kháng nghị. Việc rút kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi theo quy định tại khoản 3 Điều này.

Việc rút kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong trường hợp người kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị.

6. Người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định không quá hai tháng để xem xét, quyết định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

7. Người kháng nghị có quyền hoãn hoặc tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 19 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
19. Về quy định tại Điều 69 của Pháp lệnh

19.1. Đối với những bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là sáu tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

19.2. Đối với những bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật sau 0 giờ 00 ngày 01 tháng 6 năm 2006 thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 2 Điều 67 của Pháp lệnh.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 23.4 Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP (VB hết hiệu lực: 12/09/2011)

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 tháng 2006 (sau đây viết tắt là Pháp lệnh);
...
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:
...
23. Về việc chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện kiểm sát
...
23.4. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án hành chính để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì việc chuyển hồ sơ vụ án hành chính được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 Phần I Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 25 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
25. Điều 70 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 70

1. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ án liên quan đến quyết định bị kháng nghị.

2. Uỷ ban Thẩm phán Toà ấn cấp tỉnh giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án cấp huyện bị kháng nghị.

3 . Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị.

4. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

5. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm hoặc tái thẩm toàn bộ vụ án.

6. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án phải mở phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 26 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
26. Điều 71 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 71

1. Phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không phải triệu tập đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị trừ trường hợp Toà án thấy cần phải nghe ý kiến của họ trước khi quyết định.

Đại diện Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

2. Tại phiên toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trình bày nội dung vụ án, nội dung kháng nghị. Trong trường hợp Toà án có triệu tập những người tham gia tố tụng thì người được triệu tập trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát trình bày ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.

3. Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

4. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.

Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, của Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.

Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm phán Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên.”

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 27 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
27. Điều 72 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 72

Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có quyền:

1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

2. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa; 3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;

4. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.''

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 7 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
7. Về hiệu lực thi hành của Pháp lệnh

a) Theo quy định tại điều 73 của Pháp lệnh, thì trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không có quy định khác, thì các quy định này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính, có đương sự là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; cụ thể là không phân biệt người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức của Việt Nam hay là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, việc phân biệt thẩm quyền của Toà án được thực hiện theo quy định tại Điều 12, Điều 13 của Pháp lệnh và việc giải quyết vụ án hành chính vẫn theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được sửa đổi bởi Khoản 28 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
...
28. Điều 73 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 73

Các quy định của Pháp lệnh này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính có đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.”

Xem nội dung VB
- Cụm từ này được sửa đổi bởi Điểm 2 Khoản 19 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 (VB hết hiệu lực: 01/07/2011)

Điều 1

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính như sau:
....
19. Sửa đổi một số từ ngữ tại các điều 19, 28, 37, 40, 46, 56 và 73 như sau:

1. "Bên bị kiện" quy định tại khoản 1 Điều 37 và khoản 1 Điều 46 thành "người bị kiện".

2. "Pháp nhân" quy định tại ... Điều 73 thành "cơ quan, tổ chức".

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b, c Khoản 7 Công văn 39/KHXX năm 1996

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
...
7. Về hiệu lực thi hành của Pháp lệnh
...
b) Đối với các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trước ngày 1-7-1996 nay có khiếu kiện, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại cho đến ngày khởi kiện chưa quá ba mươi ngày, thì Toà án vẫn thụ lý giải quyết theo quy định của Pháp lệnh. Ví dụ một người bị sử phạt vi phạm hành chính ngày 1-6-1996 và không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại với người đã ra quyết định xử phạt. Ngày 20-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời của người đã ra quyết định xử phạt và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại, nên ngày 9-7-1996 họ khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì trong trường hợp này Toà án thụ lý giải quyết theo theo thủ tục chung, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện mới 20 ngày.

Trong trường hợp quá ba mươi ngày thì Toà án trả lại đơn kiện và giải thích cho họ biết họ có quyền khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân. Ví dụ một người bị xử phạt vi phạm hành chính ngày1-5-1996 và không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó, nên đã khiếu nại với người ra quyết định xử phạt. Ngày 1-6-1996 họ nhận được văn bản trả lời của người ra quyết định xử phạt và họ vẫn không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại nên ngày 5-7-1996 họ khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, thì trong trường hợp này Toà án trả lại đơn kiện, bởi vì kể từ ngày nhận được văn bản trả lời đến ngày khởi kiện đã quá 30 ngày. Đồng thời Toà án giải thích cho họ biết quyền khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân.

c) Đối với các khiếu kiện về buộc thôi việc cán bộ, viên chức Nhà nước trước ngày 1-7-1996 theo quy định của pháp luật được coi là vụ án lao động và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nếu đã được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì Toà án tiếp tục giải quyết theo quy định của Pháp lệnh này, không đặt vấn đề chuyển sang giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Đối với các vụ án loại này đã được giải quyết xong và đúng với các quy định của pháp luật trước ngày 1-7-1996, thì không đặt vấn đề căn cứ theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong trường hợp trái với các quy định của Pháp luật trước ngày 1-7-1996 cho nên bị kháng nghị, xét xử theo thủ tục giám đốc thảm hoặc tái thẩm và bị huỷ để giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm, thì vụ án được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.