Pháp lệnh Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1962
Số hiệu: 34/LCT Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Hoàng Văn Hoan
Ngày ban hành: 16/07/1962 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 08/08/1962 Số công báo: Số 29
Lĩnh vực: An ninh quốc gia, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 34/LCT

Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 1962

 

PHÁP LỆNH

QUY ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA CẢNH SÁT NHÂN DÂN NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Để tăng cường lực lượng giữ gìn trật tự an ninh của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của nhân dân;
Căn cứ vào điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân như sau:

Điều 1

Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một lực lượng vũ trang thuộc Bộ Công an, thừa hành pháp luật của Nhà nước, đấu tranh chống bọn phản cách mạng và những kẻ phạm tội khác, giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền lợi hợp pháp của công dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân nhằm góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi.

Điều 2

Cảnh sát nhân dân phải tuyệt đối trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, dũng cảm trong công tác, luôn luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng, trình độ chính trị, quân sự và nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Điều 3

Cảnh sát nhân dân trong khi tiến hành công tác phải căn cứ vào pháp luật của Nhà nước, phải dựa vào nhân dân, liên hệ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải tích cực phòng ngừa ngăn chặn những hành vi phạm tội và vi phạm trật tự trị an.

Điều 4

Cảnh sát nhân dân có những nhiệm vụ sau đây:

1. Phát hiện, ngăn ngừa và trấn áp những hoạt động phá hoại của bọn phản cách mạng, bằng các biện pháp quản lý hành chính về trị an;

2. Đấu tranh chống bọn lưu manh, côn đồ, trộm cắp, tham ô, đầu cơ, buôn lậu và những kẻ phạm tội khác;

3. Truy nã bọn tội phạm trốn tránh pháp luật;

4. Thi hành việc quản chế, giáo dục, cải tạo bọn phản cách mạng và những kẻ phạm tội khác.

5. Giữ trật tự trị an ở các nơi công cộng và ở những cuộc họp công cộng; ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân;

6. Phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong việc bảo quản tài sản công cộng, góp ý kiến về những biện pháp đề phòng trộm cắp, tham ô;

7. Bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ, quản lý các loại xe và những người lái xe; phối hợp với cơ quan giao thông vận tải kiểm tra an toàn giao thông đường sông, đường biển;

8. Tuyên truyền trong nhân dân về tinh thần cảnh giác cách mạng, về ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật của Nhà nước, động viên và tổ chức nhân dân tham gia giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ tài sản công cộng, giữ gìn vệ sinh chung.

9. Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh, giấy thông hành; cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đi nước ngoài về việc tư;

10. Quản lý việc xuất cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài theo pháp luật quy định;

11. Quản lý các máy và phụ tùng máy vô tuyến điện; quản lý các cơ sở sản xuất, sửa chữa, mua bán máy và phụ tùng máy vô tuyến điện; quản lý các loại vũ khí; chất nổ, chất cháy, chất độc mạnh; quản lý nghề chứa trọ, nghề khắc con dấu, nghề in, đúc, khắc chữ in và những nghề kinh doanh đặc biệt khác theo pháp luật quy định;

12. Phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành những biện pháp bài trừ những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại;

13. Tham gia các công tác phòng cháy và chữa cháy, phòng và chống bão lụt, phòng và chống các bệnh dịch, v.v...;

14. Tìm những người mất tích, giúp nhân dân tìm địa chỉ những người thân thuộc và tìm trẻ em bị lạc, cứu giúp người bị tai nạn và người bị bệnh cần cấp cứu;

15. Và thi hành những công tác khác thuộc chức năng của Công an nhân dân theo chỉ thị của Bộ Công an.

Điều 5

Cảnh Sát nhân dân có những quyền hạn sau đây:

1. Bắt, tạm giữ, tạm tha, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật và thư tín, tạm giữ tang vật, theo pháp luật quy định;

2. Kiểm soát giấy chứng minh, giấy thông hành hoặc giấy chứng nhận khác của công dân, đòi hỏi mọi người nghiêm chỉnh tuân theo thể lệ về quản lý trật tự trị an;

3. Phạt hoặc thi hành những biện pháp cưỡng chế khác theo thể lệ quản lý trật tự trị an đối với những người vi phạm thể lệ quản lý trật tự trị an;

4. Trong khi làm nhiệm vụ khẩn cấp:

a) Ngăn chặn hành động phá hoại,

b) Đuổi bắt kẻ phạm tội,

c) Cấp cứu người bị nạn, được quyền mượn các loại phương tiện giao thông vận tải và phương tiện thông tin liên lạc của cơ quan, đoàn thể hoặc tư nhân (trừ của Đoàn ngoại giao) và những người điều khiển các phương tiện đó;

5. Được quyền đi lại trong thành phố, thị xã, thị trấn, bằng các phương tiện giao thông công cộng mà không phải trả tiền trong khi đang làm nhiệm vụ;

6. Được sử dụng vũ khí trong những trường hợp khẩn cấp, như phải đối phó với những kẻ dùng vũ khi bạo động, tập kích, chống cự khi bị bắt, phá hoại trị an xã hội, những kẻ phạm tội nguy hiểm đang chạy trốn, nếu những kẻ ấy không chịu nghe lệnh ngăn cấm của cảnh sát;

7. Được mang vũ khí và trang phục theo chế độ do Bộ Công an định;

8. Và những quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Điều 6

Cảnh sát nhân dân có kỷ luật nghiêm minh, đội ngũ chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tổ chức Cảnh sát nhân dân do Hội đồng Chính phủ quy định.

Điều 7

Chế độ cấp bậc Của sĩ quan và hạ sĩ quan Cảnh sát nhân dân sẽ quy định bằng một pháp lệnh riêng.

Điều 8

Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân nào thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc phạm sai lầm khuyết điểm trong công tác thì bị kỷ luật, nếu phạm tội thì bị truy tố trước pháp luật.

Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân có thành tích xuất sắc thì được khen thưởng.

Pháp lệnh này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 16 tháng 7 năm 1962.

 

 

Hoàng Văn Hoan

(Đã ký)

 

- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư 141-BCA năm 1963

Ngày 20 tháng 7 năm 1962, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký lệnh công bố pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16 tháng 7 năm 1962 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trong điều 5 của Pháp lệnh có ghi hai quyền hạn ở điểm 4 và 5 là:

"- Trong khi làm nhiệm vụ khẩn cấp:

a- Ngăn chặn hành động phá hoại,

b- Đuổi bắt kẻ phạm tội,

c- Cấp cứu người bị nạn,

Được quyền mượn các loại phương tiện giao thông vận tải và phương tiện thông tin liên lạc của cơ quan, đoàn thể hoặc tư nhân (trừ của Đoàn ngoại giao) và những người điều khiển các phương tiện đó" và:

"Được quyền đi lại trong thành phố, thị xã, thị trấn bằng các phương tiện giao thông công cộng mà không phải trả tiền trong khi đang làm nhiệm vụ".

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cho Cảnh sát nhân dân hai quyền hạn ghi trong điểm 4 và 5 (điều 5) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho công tác đấu tranh chống các bọn tội phạm, giữ gìn trật tự an ninh chung và phục vụ nhân dân tốt hơn nữa của lực lượng Cảnh sát nhân dân.

Bộ Công an giải thích một số vấn đề chi tiết về hai quyền hạn nói trên, để các cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân nắm vững vận dụng cho đúng đắn, để các cơ quan, đoàn thể và nhân dân hiểu rõ, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân làm tốt nhiệm vụ và giám sát việc sử dụng quyền hạn của Cảnh sát nhân dân.

I. QUYỀN ĐƯỢC MƯỢN CÁC LOẠI PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG VẬN TẢI VÀ PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN LIÊN LẠC RONG KHI LÀM NHIỆM VỤ KHẨN CẤP

Nhiệm vụ khẩn cấp đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân cần phải mượn phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc, nhưng chỉ hạn trong ba trường hợp:

a- Ngăn chặn hành động phá hoại: Nghĩa là ngăn chặn hành vi dùng chất cháy, chất nổ, chất độc, vũ khí hoặc bằng bất cứ phương pháp nào khác có thể gây tổn thất nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, gây nguy hại đến sức khỏe, tính mạng của nhân dân, của gia súc, tổn thất đến sản xuất, ngăn chặn những cuộc gây rối trật tự trị an.

b- Đuổi bắt kẻ phạm tội: Nghĩa là đuổi bắt những kẻ phạm pháp quả tang, quy định trong Sắc luật số 002/SL.T ngày 18 tháng 6 năm 1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa:

- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay;

- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp;

- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn;

- Đang có lệnh truy nã.

c- Cấp cứu người bị nạn: Nghĩa là gặp người bị tai nạn bất ngờ, nếu không đưa đi bệnh viện cấp cứu ngay thì nguy hiểm đến tính mạng người đó, ví dụ bị cảm ngã giữa đường bất tỉnh, động kinh ngất, phụ nữ có mang sắp đẻ, hoặc đang đẻ rơi, người bị tai nạn xe cộ, bị đánh thành thương, .v.v...

Nói chung, khi có những việc đã nói trên thuộc phạm vi 3 trường hợp khẩn cấp do pháp lệnh quy định thì cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân đang công tác thấy cần phải kịp thời giải quyết, nhưng bản thân cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân lúc đó thiếu phương tiện để đi lại hoặc để báo tin thật nhanh chóng thì được quyền mượn các phương tiện giao thông, vận tải hoặc phương tiện thông tin liên lạc.

Việc mượn các phương tiện giao thông, vận tải phải hết sức thận trọng và có cân nhắc để tránh những trường hợp không thật cần thiết cũng mượn phương tiện.

Các phương tiện giao thông vận tải do cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân được mượn gồm có: Xe ô tô, xe mô tô, xe đạp máy, xe đạp, ca nô, xuồng máy, thuyền, đò, riêng đối với trường hợp cấp cứu người bị nạn thì có thể mược được cả xe ngựa và xe xích lô.

Các phương tiện thông tin liên lạc do cán bộ chiến sĩ Cảnh sát nhân dân được mượn gồm có: Máy điện thoại, điện báo, vô tuyến điện. Mượn phương tiện thông tin liên lạc là chỉ để dùng tại chỗ.

Những phương tiện mà cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân không được mượn là:

- Xe Chủ tịch và Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Xe của Chủ tịch và Phó chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Xe của Thủ tướng và Phó thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Xe chữa cháy và phương tiện thông tin liên lạc đang dùng trong việc chữa cháy.

- Xe hộ đê và các phương tiện giao thông vận tải và phương tiện thông tin liên lạc đang dùng trong công tác chống bão lụt, .v.v...

- Phương tiện giao thông vận tải và thông tin liên lạc của bộ đội đang dùng trong các việc quan trọng như chuyển quân đi tác chiến, đi ra thao trường để phục vụ kế hoạch đột xuất.

- Các loại xe cứu thương, xe đang chở thư, có giấy ưu tiên qua phà do Bộ Giao thông vận tải cấp thì cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân cũng không được mược. Nhưng nếu các xe này đi thuận chiều mà gặp trường hợp cần thiết thì cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân được nhờ sắp xếp đưa người bị nạn đến địa điểm cấp cứu.

Khi mượn phương tiện giao thông vận tải và phương tiện thông tin liên lạc, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân phải xuất trình giấy chứng nhận Công an, riêng khi mượn phương tiện giao thông vân tải còn phải làm giấy biên nhận (có mẫu thống nhất do Bộ Công an quy định).

Trước khi mượn, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân phải nói rõ yêu cầu của công tác và đề nghị với người thay mặt đơn vị hoặc chủ phương tiện để mượn. Người thay mặt đơn vị hoặc người chủ phương tiện phải hết lòng giúp đỡ Cảnh sát nhân dân để khỏi chậm trễ, trở ngại việc giải quyết công tác khẩn cấp như pháp lệnh đã quy định.

Khi dung xong phương tiện giao thông vận tải thì phải mang đến cơ quan, đơn vị hoặc người chủ phương tiện trả chu đáo.

Khi mượn người điều khiển phương tiện giao thông vận tải, mà những người này không một tổ chức nào trả lương thì phải trả tiền công cho họ cũng như khi dùng phương tiện giao thông vận tải của tư nhân thì nói chung phải thanh toán các phí tổn về xăng, dầu và nếu hỏng thì phải trả tiền sửa chữa cho họ và thanh toán vào khoản hành chính phí của cơ quan Công an.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 141-BCA năm 1963

Ngày 20 tháng 7 năm 1962, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký lệnh công bố pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16 tháng 7 năm 1962 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trong điều 5 của Pháp lệnh có ghi hai quyền hạn ở điểm 4 và 5 là:

"- Trong khi làm nhiệm vụ khẩn cấp:

a- Ngăn chặn hành động phá hoại,

b- Đuổi bắt kẻ phạm tội,

c- Cấp cứu người bị nạn,

Được quyền mượn các loại phương tiện giao thông vận tải và phương tiện thông tin liên lạc của cơ quan, đoàn thể hoặc tư nhân (trừ của Đoàn ngoại giao) và những người điều khiển các phương tiện đó" và:

"Được quyền đi lại trong thành phố, thị xã, thị trấn bằng các phương tiện giao thông công cộng mà không phải trả tiền trong khi đang làm nhiệm vụ".

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cho Cảnh sát nhân dân hai quyền hạn ghi trong điểm 4 và 5 (điều 5) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho công tác đấu tranh chống các bọn tội phạm, giữ gìn trật tự an ninh chung và phục vụ nhân dân tốt hơn nữa của lực lượng Cảnh sát nhân dân.

Bộ Công an giải thích một số vấn đề chi tiết về hai quyền hạn nói trên, để các cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân nắm vững vận dụng cho đúng đắn, để các cơ quan, đoàn thể và nhân dân hiểu rõ, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân làm tốt nhiệm vụ và giám sát việc sử dụng quyền hạn của Cảnh sát nhân dân.
...
II. QUYỀN ĐI LẠI TRONG THÀNH PHỐ, THỊ XÃ, THỊ TRẤN BẰNG PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CÔNG CỘNG MÀ KHÔNG PHẢI TRẢ TIỀN TRONG KHI ĐANG LÀM NHIỆM VỤ

a- Đi lại trong thành phố, thị xã, thị trấn là bao gồm việc đi lại trên các đường phố trong nội thành, nội thị và các đường đi ra ngoại ô thuộc phạm vi thành phố, thị xã, thị trấn.

b- Phương tiện giao thông công cộng nói trong điều này là:

- Xe ô tô buýt, xe điện, xe lửa, trên đường bộ.

- Cầu, phà, đò và ca nô, trên đường thủy.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.