Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
Số hiệu: 27-LCT/HĐNN8 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Hội đồng Nhà nước Người ký: Võ Chí Công
Ngày ban hành: 07/12/1989 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Tố tụng và các phương thức giải quyết tranh chấp, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 27-LCT/HĐNN8

Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 1989

 

PHÁP LỆNH

CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC SỐ 27-LCT/HĐNN8 NGÀY 07/12/1989 VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

Để giải quyết đúng pháp luật các vụ án dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ vào Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định thủ tục khởi kiện, điều tra, hoà giải, xét xử các vụ án dân sự.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp.

Công dân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Điều 2. Quyền tự định đoạt của đương sự.

Người khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự hoà giải với nhau.

Điều 3. Nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ.

Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.

Điều 4. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự.

Các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.

Điều 5. Trách nhiệm hoà giải của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để giúp các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, trừ những trường hợp không hoà giải được hoặc pháp luật quy định không được hoà giải.

Điều 6. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Điều 7. Tiếng nói, chữ viết dùng trong tố tụng dân sự.

Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.

Công dân các dân tộc có quyền dùng tiến nói, chữ viết của dân tộc mình và Toà án phải cử người phiên dịch.

Điều 8. Việc tham gia tố tụng dân sự của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân.

Các cơ quan Nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và công dân theo quy định của pháp luật có thể tham gia các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân trước khi khởi kiện, có quyền cung cấp cho Toà án tin tức về vụ án và, tuỳ trường hợp, giúp đỡ Toà án trong việc hoà giải; có quyền kiến nghị Toà án cấp trên xem xét những việc làm trái pháp luật của Toà án cấp dưới. Toà án phải xem xét, giải quyết và trả lời cho người đã kiến nghị.

Nếu không có người khởi kiện thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc trong phạm vi chức năng của mình có quyền khởi kiện hoặc đề nghị Viện kiểm sát xem xét việc khởi tố vụ án đối với những việc được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Pháp lệnh này.

Điều 9. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự theo quy định tại các Điều 12, 13a, 13b của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và những quy định của Pháp lệnh này.

Chương 2:

THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN

Điều 10. Những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.

Các Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự sau đây:

1- Những việc tranh chấp về quyền sở hữu, về hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác về quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau, giữa công dân với pháp nhân, giữa pháp nhân với nhau, trừ những việc thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức khác;

2- Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình;

3- Những việc tranh chấp về lao động;

4- Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, trừ những trường hợp quân nhân, cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến tranh thuộc trách nhiệm giải quyết của các cơ quan hữu quan;

5- Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch;

6- Những việc khiếu nại về danh sách cử tri;

7- Những việc khiếu nại cơ quan báo chí về việc không cải chính thông tin có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

8- Những việc khác do pháp luật quy định.

Điều 11. Thẩm quyền của các Toà án các cấp.

1- Toà án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này, trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh.

2- Toà án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau đây:

a) Khi có đương sự là người nước ngoài hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài;

b) Tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 29 của Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp;

c) Vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.

3- Trong trường hợp đặc biệt, Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết.

Điều 12. Thẩm quyền của Toà án đối với quyết định của cơ quan, tổ chức khác.

Khi xét xử vụ án dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết.

Điều 13. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ.

1- Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Toà án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn; nếu bị đơn là pháp nhân thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi pháp nhân có trụ sở, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Các đương sự cũng có thể thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết.

2- Tranh chấp bất động sản do Toà án nơi có bất động sản giải quyết.

Điều 14. Những trường hợp nguyên đơn được lựa chọn Toà án.

Trong những trường hợp sau đây nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết:

1- Nếu không biết địa chỉ của bị đơn hoặc nếu bị đơn không có nơi cư trú ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản hoặc cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết;

2- Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của một chi nhánh của pháp nhân thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi pháp nhân có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết;

3- Nếu yêu cấp cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của mình giải quyết;

4- Nếu đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của mình, nơi xảy ra việc gây thiệt hại hoặc nơi cư trú của bị đơn giải quyết;

5- Nếu vụ án phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể kiện ở Toà án nơi cư trú của bị đơn hoặc nơi thực hiện hợp đồng; nếu khi ký kết hợp đồng mà các bên có thoả thuận trước về Toà án giải quyết việc tranh chấp thì nguyên đơn chỉ được khởi kiện tại Toà án đó;

6- Nếu các bị đơn có nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết.

Điều 15. Chuyển vụ án cho Toà án khác; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền.

1- Sau khi đã thụ lý vụ án mà thấy vụ án đó không thuộc thẩm quyền của mình thì Toà án chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền.

2- Tranh chấp về thẩm quyền do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết.

Chương 3:

THÀNH PHẦN CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ.VIỆC THAY ĐỔI THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN, KIỂM SÁT VIÊN, THƯ KÝ TOÀ ÁN, NGƯỜI GIÁM ĐỊNH, NGƯỜI PHIÊN DỊCH

Điều 16. Thành phần của Hội đồng xét xử.

1- Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời chung thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân.

2- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán.

3- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án dân sự Toà án nhân dân tối cao gồm ba thẩm phán.

4- Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền.

Điều 17. Những trường hợp phải thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch.

1- Thẩm phán, hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

a) Đồng thời là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người thân thích của đương sự, người làm chứng trong vụ án;

b) Đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án;

c) Đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

d) Trong một Hội đồng xét xử mà thẩm phán, hội thẩm nhân dân là người thân thích với nhau;

đ) Có căn cứ cho thấy họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

2- Kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:

a) Có căn cứ được quy định tại điểm a và điểm đ, khoản 1 Điều này;

b) Họ đã là thẩm phán, hội thẩm nhân dân hoặc người tham gia tố tụng khác trong cùng một vụ án.

Điều 18. Giải quyết việc thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch.

1- Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch do Chánh án Toà án quyết định; việc thay đổi kiểm sát viên do Viện kiểm sát quyết định.

2- Tại phiên toà, việc thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử xem xét và quyết định, sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi của kiểm sát viên tham gia phiên toà.

Chương 4:

NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG

Điều 19. Các đương sự.

Các đương sự là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung thì người có quyền lợi được bảo vệ có thể tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn.

Điều 20. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự.

1- Nguyên đơn có quyền thay đổi yêu cầu của mình. Bị đơn có quyền phản đối yêu cầu của nguyên đơn và có quyền đề đạt yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn.

2- Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình; được biết chứng cứ do bên kia cung cấp; yêu cầu Toà án tiến hành biện pháp điều tra cần thiết, quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời; tham gia hoà giải; tham gia phiên toà; yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch; đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; tham gia tranh luận tại phiên toà; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

3- Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ; thi hành quyết định, thực hiện yêu cầu của Toà án; phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị Toà án phạt tiền từ hai mươi nghìn đồng đến năm mươi nghìn đồng.

Điều 21. Năng lực hành vi về tố tụng của các đương sự.

1- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự.

2- Người chưa thành niên phải có người đại diện thay mặt trong tố tụng. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động, nhưng khi cần thiết, Toà án có thể triệu tập người đại diện của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải có người đại diện tham gia tố tụng, nhưng khi cần thiết, Toà án hỏi thêm ý kiến của người chưa thành niên.

3- Nếu đương sự là người vì có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.

Nếu không có ai đại diện cho người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người vắng mặt không có tin tức thì Toà án cử một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm người đại diện cho họ.

Điều 22. Người đại diện do đương sự uỷ quyền.

1- Đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật.

2- Pháp nhân tham gia tố tụng thông qua người lãnh đạo của mình hoặc người đại diện được pháp nhân uỷ quyền bằng văn bản.

Điều 23. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người đại diện được uỷ quyền.

Người đại diện được uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được uỷ quyền.

Điều 24. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

1- Đương sự có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.

2- Một người có thể bảo vệ quyền lợi cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền lợi của những người đó không đối lập nhau.

Điều 25. Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

1- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi kiện.

2- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch theo quy định tại Chương III của Pháp lệnh này; có quyền cung cấp chứng cứ, đề đạt yêu cầu, được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điểm cần thiết trong hồ sơ tham dự hoà giải, tham gian phiên toà.

3- Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Điều 26. Những người tham gia tố tụng khác.

1- Người nào biết bất cứ tình tiết nào liên quan đến vụ án đều có thể được Toà án, Viện kiểm sát triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng có nghĩa vụ khai trung thực tất cả những gì mà mình biết về vụ án.

2- Người giám định là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định mà Toà án, Viện kiểm sát trưng cầu. Người giám định có quyền tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định; yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định; tham dự vào việc xét hỏi và được đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định.

3- Người phiên dịch do Toà án, Viện kiểm sát yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt.

4- Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, Viện kiểm sát.

Điều 27. Sự kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.

1- Nếu đương sự chết mà quyền hoặc nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng.

2- Nếu pháp nhân sáp nhập, phân chia hoặc giải thể thì pháp nhân nào tiếp tục nhiệm vụ, tiếp thu tài sản của pháp nhân cũ có quyền và nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân đó.

Điều 28. Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân.

1- Đối với việc vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố.

2- Viện kiểm sát có nhiệm vụ tham gia tố tụng đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã khởi tố. Đối với những vụ án khác, Viện kiểm sát có thể tham gia tố tụng từ bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết.

3- Nếu Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm cung cấp chứng cứ.

4- Toà án gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp các bản sao bản án, quyết định của Toà án ngay sau khi ra các văn bản đó; chuyển cho Viện kiểm sát mượn hồ sơ vụ án để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

Điều 29. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của tổ chức xã hội.

Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hoà giải.

Chương 5:

ÁN PHÍ

Điều 30. Án phí.

Các đương sự chịu án phí theo quy định của pháp luật, tuỳ theo loại vụ án và trên cơ sở lợi ích, mức độ lỗi của họ trong quan hệ pháp luật mà Toà án giải quyết trong vụ án.

Hội đồng bộ trưởng phối hợp với Toà án nhân dân tối cao quy định chế độ án phí.

Điều 31. Người phải nộp tiền tạm ứng án phí; người phải chịu án phí.

1- Nguyên đơn; bị đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ những trường hợp quy định tại Điều 32 của Pháp lệnh này.

2- Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo; nếu trong thời hạn đó mà không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì coi như không kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

3- Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải, các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc chịu án phí. Nếu họ không thoả thuận được thì Toà án quyết định mức án phí và người phải chịu án phí.

4- Nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 46 của Pháp lệnh này thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước.

5- Nếu việc giải quyết vụ án bị tạm đình chỉ thì án phí được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết.

Điều 32. Miễn án phí; miễn nộp tiền tạm ứng án phí.

1- Những người sau đây được miễn án phí:

a) Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên ngoài giá thú;

b) Người lao động đòi tiền công lao động;

c) Người đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ;

d) Người khiếu nại về danh sách cử tri.

2- Viện kiểm sát khởi tố, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung không phải chịu án phí.

3- Người có khó khăn về kinh tế được Uỷ ban nhân dân xã, phường,

thị trấn, cơ quan, tổ chức xã hội chứng nhận thì có thể được Toà án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng án phí và có thể được Toà án miễn một phần hoặc toàn bộ án phí.

Điều 33. Chi phí về giám định.

Đương sự đã đề nghị trưng cầu giám định phải nộp tiền tạm ứng chi phí về giám định; nếu vì họ không nộp mà việc giám định không được tiến hành thì Toà án có thể căn cứ vào kết quả điều tra đã đạt được để giải quyết vụ án hoặc tự mình trưng cầu giám định.

Chương 6:

KHỞI KIỆN VÀ KHỞI TỐ VỤ ÁN. THỤ LÝ VỤ ÁN

Điều 34. Khởi kiện.

1- Một người có thể khởi kiện đối với một người về một hoặc nhiều yêu cầu khác nhau.

2- Một người có thể khởi kiện đối với nhiều người hoặc nhiều người có thể khởi kiện đối với một người về cùng một quan hệ pháp luật.

3- Người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình; của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; nội dung sự việc; yêu cầu của mình và những tài liệu, lý lẽ chứng minh cho những yêu cầu đó.

4- Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung bằng văn bản gửi cho Toà án.

Điều 35. Quyền thay đổi yêu cầu của người khởi kiện.

1- Trước khi Toà án mở phiên toà, người đã khởi kiện có quyền thay đổi yêu cầu đã được nêu khi khởi kiện.

2- Tại phiên toà việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không phải hoãn phiên toà để điều tra thêm.

Điều 36. Những trường hợp trả lại đơn khởi kiện.

Toà án trả lại đơn khởi kiện cho người nộp đơn trong những trường hợp sau đây:

1- Người nộp đơn không có quyền khởi kiện;

2- Thời hiệu khởi kiện đã hết;

3- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật;

4- Sự việc được pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết trước, nhưng đương sự chưa yêu cầu hoặc cơ quan hữu quan chưa giải quyết;

5- Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Điều 37. Thụ lý vụ án.

1- Nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Toà án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nộp đơn, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.

2- Toà án thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu đương sự được miễn án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án nhận đơn khởi kiện. Nếu đương sự được miễn nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý là ngày Toà án cho miễn nộp tiền tạm ứng án phí.

3- Toà án có thể gia hạn nộp tiền tạm ứng án phí một tháng. Hết thời hạn đó mà nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án không thụ lý vụ án.

Chương 7:

ĐIỀU TRA VỤ ÁN

Điều 38. Việc điều tra trước khi hoà giải, xét xử.

1- Để chuẩn bị cho việc hoà giải, xét xử, tuỳ trường hợp, Toà án tiến hành những việc sau đây:

a) Lấy lời khai của các đương sự, người làm chứng về những vấn đề cần thiết;

b) Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hữu quan hoặc công dân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;

c) Xem xét tại chỗ;

d) Trưng cầu giám định;

đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp.

2- Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình trưng cầu giám định hoặc điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án.

Điều 39. Uỷ thác điều tra.

Nếu cần điều tra ở ngoài địa hạt của mình thì Toà án có thể uỷ thác cho Toà án nơi cần phải tiến hành điều tra.

Toà án được uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện ngay uỷ thác và thông báo kết quả cho Toà án đã uỷ thác.

Điều 40. Xem xét bằng chứng bị tố cáo là giả mạo.

1- Đương sự đưa ra bằng chứng bị tố cáo là giả mạo được rút lại bằng chứng đó; nếu đương sự không rút mà bằng chứng đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vụ án thì Toà án trưng cầu giám định.

Người đưa ra bằng chứng giả mạo phải chịu phí tổn giám định đó, nhưng nếu bằng chứng đó không phải là giả mạo thì đương sự đã tố cáo phải chịu phí tổn giám định.

2- Nếu việc giả mạo bằng chứng có dấu hiệu của tội phạm thì Toà án chuyển bằng chứng giả mạo và các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Chương 8:

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI

Điều 41. áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, đương sự, có thể áp dụng những biện pháp sau đây để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng:

1- Buộc một bên phải thực hiện việc cấp dưỡng;

2- Giao người chưa thành niên cho cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức chăm nom;

3- Trả tiền lương hoặc tiền công lao động;

4- Kê biên tài sản đang tranh chấp để tránh việc tẩu tán;

5- Cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp

6- Cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên quan đến việc tranh chấp;

7- Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định.

Điều 42. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

1- Trước khi mở phiên toà, nếu có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì đương sự phải làm đơn, Viện kiểm sát phải có văn bản gửi cho Toà án. Toà án nghe lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến yêu cầu đó trước khi quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Nếu cần phải áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Toà án có quyền ra quyết định ngay.

2- Nếu biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm chuyển dịch tài sản mà việc mua bán phải đăng ký với cơ quan quản lý thì quyết định của Toà án phải được giao cho đương sự và gửi cho cơ quan quản lý hữu quan.

3- Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay. Các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án của Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định này. Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án phải xem xét và trả lời.

Chương 9:

HOÀ GIẢI, TẠM ĐÌNH CHỈ, ĐÌNH CHỈ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN. ĐƯA VỤ ÁN RA XÉT XỬ

Điều 43. Hoà giải.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết vụ án, trừ các việc sau đây:

1- Huỷ việc kết hôn trái pháp luật;

2- Đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước;

3- Những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật;

4- Những việc được quy định tại các khoản 4, 5, 6 của Điều 10 của Pháp lệnh này và những việc khác theo quy định của pháp luật.

Điều 44. Thủ tục hoà giải.

1- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hoà giải.

2- Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Bản sao biên bản này được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Nếu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát, tổ chức xã hội khời kiện vì lợi ích chung phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật.

3- Nếu các đương sự không thoả thuận được với nhau thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành để đưa vụ án ra xét xử.

4- Nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Toà án đưa vụ án ra xét xử.

Điều 45. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.

1- Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong những trường hợp sau đây:

a) Nguyên đơn hoặc bị đơn chết mà chưa có người thừa kế tham gia tố tụng;

b) Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 47 của Pháp lệnh này mà một trong các đương sự không thể có mặt vì bị ốm nặng hoặc có lý do chính đáng khác;

c) Không tìm được địa chỉ của bị đơn;

d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự khác; sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.

2- Toà án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa.

Điều 46. Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án trong những trường hợp sau đây:

1- Đương sự chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế;

2- Các đương sự đã tự hoà giải; người khởi kiện rút đơn khởi kiện, Viện kiểm sát rút quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp không nguyên đơn hoặc nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án;

3- Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng;

4- Những trường hợp đã được quy định tại các khoản 2, 3, 5 Điều 36 của Pháp lệnh này.

Điều 47. Thời hạn chuẩn bị xét xử.

1- Trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ trường hợp, Toà án ra một trong những quyết định sau đây:

a) Công nhận sự thoả thuận của các đương sự;

b) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;

c) Đình chỉ việc giải quyết vụ án;

d) Đưa vụ án ra xét xử.

Nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc việc điều tra gặp nhiều khó khăn, thì thời hạn nói trên là sáu tháng.

2- Toà án phải mở phiên toà trong thời hạn một tháng kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; nếu có lý do chính đáng thì có thể mở phiên toà trong thời hạn hai tháng. Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm, thì hồ sơ vụ án phải được Toà án chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày.

Chương 10

PHIÊN TOÀ SƠ THẨM

Điều 48. Những người tham gia phiên toà.

1- Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Nếu Viện kiểm sát khởi tố, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, thì kiểm sát viên, đại diện tổ chức xã hội phải có mặt tại phiên toà.

2- Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, nếu:

a) Vắng mặt kiểm sát viên trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia tố tụng;

b) Vắng mặt đại diện tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung;

c) Vắng mặt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

d) Vắng mặt người làm chứng cần được hỏi tại phiên toà;

đ) Thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế ngay.

3- Việc xét xử vẫn được tiến hành nếu đương sự yêu cầu xét xử vắng mặt họ hoặc người không phải là nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng.

Điều 49. Thủ tục bắt đầu phiên toà.

1- Khi bắt đầu phiên toà, chủ toạ phiên toà đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên toà đã có mặt và giải tích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà. Nếu có người được triệu tập vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định việc có hoãn phiên toà hay không.

2- Chủ toạ phiên toà giới thiệu các thành viên của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch và hỏi những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu thay đổi những người đó hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

3- Chủ toạ phiên toà giải thích cho người giám định, người phiên dịch về quyền và nghĩa vụ của họ. Những người này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.

4- Người làm chứng phải cam đoan không khai gian dối. Nếu thấy người làm chứng có thể bị ảnh hưởng bởi lời khai của người khác thì chủ toạ phiên toà cho cách ly người làm chứng với những người khác trước khi hỏi người làm chứng.

5- Chủ toạ phiên toà hỏi đương sự, kiểm sát viên, đại diện tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng chứng hay không; nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.

Điều 50. Thủ tục xét hỏi tại phiên toà.

1- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, người đại diện của tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, kiểm sát viên trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, người làm chứng, người giám định; xem xét vật chứng.

2- Khi xét hỏi. Hội đồng xét xử hỏi trước rồi đến kiểm sát viên, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia tố tụng có quyền đề xuất với Hội đồng xét xử những vấn đề cần được hỏi thêm.

Điều 51. Tranh luận tại phiên toà.

1- Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc xét hỏi, các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người đại diện tổ chức xã hội khởi kiện về lợi ích chung trình bày ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ, đề xuất hướng giải quyết vụ án. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác, nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Nếu thấy cần thiết thì Hội đồng xét xử cho phát biểu thêm. Sau đó kiểm sát viên trình bày ý kiến về hướng giải quyết vụ án.

2- Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định xét hỏi lại và tranh luận lại.

Điều 52. Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án; công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà.

1- Nếu tại phiên toà mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện, kiểm sát viên rút quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án, các đương sự thoả thuận được với nhau về giải quyết vụ án, thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc công nhận sự thoả thuận đó.

2- Hội đồng xét xử tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 45 hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại các khoản 1, 3, 4 Điều 46 của Pháp lệnh này.

Điều 53. Nghị án.

1- Các quyết định của Hội đồng xét xử phải do các thành viên của Hội đồng thảo luận và quyết dịnh theo đa số. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử.

2- Trong bản án Hội đồng xét xử trình bày đầy đủ nội dung vụ án, những tình tiết đã được chứng minh, những chứng cứ, căn cứ pháp luật mà Toà án dựa vào để giải quyết các vấn đề trong vụ án, quyết định của Toà án về giải quyết vụ án, các án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Đối với các quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, trả tiền công lao động, cấm hoặc buộc phải thực hiện hành vi nhất định thì Hội đồng xét xử có thể quyết định cho thi hành ngay.

Điều 54. Biện pháp đối với người vi phạm trật tự phiên toà.

Người vi phạm trật tự phiên toà, tuỳ trường hợp, có thể bị chủ toạ phiên toà cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ.

Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ phiên toà và thi hành lệnh của chủ toạ phiên toà về việc buộc rời khỏi phòng xử án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự phiên toà.

Điều 55. Sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định.

Bản án, quyết định đã tuyên thì không được sửa chữa, bổ sung, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu vì tính toán sai. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung và Viện kiểm sát, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung phải được thông báo ngay về việc sửa chữa, bổ sung đó.

Điều 56. Biên bản phiên toà.

1- Biên bản phiên toà phải phản ánh rõ mọi diễn biến của phiên toà. Chủ toạ phiên toà kiểm tra biên bản phiên toà và cùng với thư ký phiên toà ký vào biên bản.

2- Sau bảy ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu sửa chữa, bổ sung biên bản. Chủ toạ phiên toà, thư ký phiên toà và người có yêu cầu ký tên xác nhận những điều sửa chữa, bổ sung. Nếu yêu cầu của họ không được chấp nhận thì họ có quyền làm đơn, văn bản nêu rõ ý kiến của mình để đưa vào hồ sơ vụ án.

Điều 57. Cấp trích lục, bản sao bản án hoặc quyết định của Toà án.

1- Ngay sau phiên toà, các đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, được Toà án cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, Toà án cấp cho họ bản án, quyết định về vụ án theo yêu cầu của họ.

2- Nếu đương sự vắng mặt tại phiên toà thì Toà án gửi ngay cho họ bản trích lục bản án, quyết định về vụ án.

Chương 11

THỦ TỤC PHÚC THẨM

Điều 58. Người có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

1- Đương sự, người đại diện của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp phúc thẩm. Người kháng cáo phải làm đơn nêu rõ lý do và yêu cầu của kháng cáo.

2- Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

Điều 59. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

1- Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú.

2- Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định.

3- Nếu kháng cáo, kháng nghị quá hạn mà có lý do chính đáng thì thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày trở ngại cho việc kháng cáo, kháng nghị không còn nữa.

Điều 60. Bổ sung, sửa đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị; rút kháng cáo, kháng nghị.

Trước hoặc trong phiên toà phúc thẩm người kháng cáo có quyền sửa đổi nội dung đã kháng cáo hoặc rút kháng cáo; Viện kiểm sát có quyền sửa đổi nội dung đã kháng nghị hoặc rút kháng nghị.

Điều 61. Thông báo việc kháng cáo, kháng nghị; thời hạn gửi hồ sơ cho Toà án cấp phúc thẩm.

1- Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng cáo và tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Viện kiểm sát gửi bản kháng nghị cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị, tổ chức xã hội để khởi vụ án vì lợi ích chung.

2- Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.

Nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm hoặc nếu chỉ có kháng nghị của Viện kiểm sát, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.

Điều 62. Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị về phần nào thì phần đó chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 53 của Pháp lệnh này.

Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 53 của Pháp lệnh này.

Điều 63. Phạm vi xét xử phúc thẩm.

1- Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần khác của bản án, quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị.

2- Khi xét xử, Toà án cấp phúc thẩm có thể sử dụng chứng cứ mới do các đương sự cung cấp hoặc do Toà án, Viện kiểm sát thu thập thêm. Chứng cứ cũ và chứng cứ mới đều phải được xem xét tại phiên toà.

Điều 64. Thời hạn xét xử phúc thẩm.

1- Toà án cấp tỉnh xét xử phúc thẩm bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn ba tháng; Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

2- Thời hạn xét xử phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

Điều 65. Việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm.

Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hoà giải, tự mình hoặc uỷ thác cho Toà án khác điều tra thêm, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo những quy định tại các chương VII, VIII, IX của Pháp lệnh này.

Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm thì hồ sơ vụ án phải được Toà án chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày.

Điều 66. Những trường hợp Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định mà không mở phiên toà.

Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên toà trong những trường hợp sau đây:

1- Xét kháng cáo quá hạn;

2- Xét kháng cáo, kháng nghị về án phí;

3- Xét kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

Điều 67. Những người tham gia phiên toà phúc thẩm.

1- Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị. Đối với các trường hợp khác, Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm, nếu thấy cần thiết.

2- Người kháng cáo, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị phải được triệu tập tham gia phiên toà.

3- Toà án chỉ triệu tập người giám định, người làm chứng cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

4- Nếu kiểm sát viên phải tham gia phiên toà mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu những người khác đã được triệu tập mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 48 của Pháp lệnh này.

Điều 68. Thủ tục phiên toà phúc thẩm.

Phiên toà phúc thẩm được tiến hành tương tự phiên toà sơ thẩm, nhưng trước khi xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của ban án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị.

Điều 69. Quyền hạn của Toà án cấp phúc thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm có quyền:

1- Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

2- Sửa bản án sơ thẩm, nếu thấy việc điều tra đã đẩy đủ, nhưng Toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật;

3- Huỷ bỏ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại trong những trường hợp sau đây:

a) Việc điều tra của Toà án cấp sơ thẩm không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được;

b) Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của pháp luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng;

4- Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 45 hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 46 của Pháp lệnh này.

Bản án phúc thẩm là chung thẩm, có hiệu lực thi hành.

Điều 70. Thủ tục phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.

Khi phúc thẩm quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm không phải triệu tập các đương sự, trừ trường hợp cần thiết phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết định.

Nếu Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phúc thẩm quyết định của Toà án thì sau khi nghe ý kiến của kiểm sát viên, tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định giữ nguyên, sửa hoặc huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm.

Quyết định phúc thẩm là chung thẩm, có hiệu lực thi hành.

Chương 12:

THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM

Điều 71. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

1- Các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Việc điều tra không đầy đủ;

b) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;

c) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;

d) Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Điều 72. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

1- Những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:

a) Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cáo có quyền kháng nghị bản án, quyết định của các Toà án các cấp;

b) Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định của các Toà án cấp dưới;

c) Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định của các Toà án cấp dưới.

2- Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó.

Điều 73. Thời hạn kháng nghị; thông báo việc kháng nghị.

1- Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Việc kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị hạn chế về thời gian.

2- Bản sao bản kháng nghị phải được gửi ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Toà án phải gửi ngay bản sao bản kháng nghị cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Điều 74. Thẩm quyền giám đốc thẩm.

1- Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp huyện;

2- Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp tỉnh;

3- Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao;

4- Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những quyết định của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Điều 75. Thời hạn xét xử giám đốc thẩm.

Phiên toà giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị.

Điều 76. Phạm vi giám đốc thẩm; phiên toà giám đốc thẩm.

1- Hội đồng giám đốc thẩm có thể xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị.

2- Phiên toà giám đốc thẩm không mở công khai.

3- Tại phiên toà, một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, nội dung của kháng nghị. Nếu Toà án đã triệu tập người tham gia tố tụng thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về kháng nghị. Hội đồng xét xử thảo luận và ra bản án, quyết định.

Điều 77. Quyền hạn của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm.

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền:

1- Giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

2- Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ bỏ hoặc bị sửa;

3- Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu thấy việc điều tra đã đầy đủ, nhưng vụ án được giải quyết không đúng pháp luật;

4- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại vì việc điều tra vụ án không đầy đủ hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong những trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 69 của Pháp lệnh này;

5- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 46 của Pháp lệnh này.

Chương 13:

THỦ TỤC TÁI THẨM

Điều 78. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:

1- Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được;

2- Đã xác định được là lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch rõ ràng không đúng sự thật hoặc đã có sự giả mạo bằng chứng;

3- Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố tình kết luận trái pháp luật;

4- Bản án hình sự, dân sự hoặc quyết định của cơ quan, tổ chức mà Toà án đã dựa vào để giải quyết vụ án dã bị huỷ.

Điều 79. Thời hạn kháng nghị; thông báo việc kháng nghị.

1- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm kể từ ngày phát hiện được những tình tiết quy định tại Điêu 78 của Pháp lệnh này.

Việc kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào không bị hạn chế về thời gian.

2- Bản sao bản kháng nghị phải được gửi ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Toà án phải gửi ngay bản sao bản kháng nghị cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Điều 80. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

Những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:

a) Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án các cấp;

b) Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp huyện.

Điều 81. Thẩm quyền tái thẩm, thời hạn xét xử tái thẩm.

Các quy định tại các Điều 74, 75, 76 của Pháp lệnh này cũng áp dụng đối với việc xét xử tái thẩm.

Điều 82. Quyền hạn của Hội đồng xét xử tái thẩm.

Hội đồng xét xử tái thẩm có quyền:

1- Giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

2- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung;

3- Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 46 của Pháp lệnh này.

Chương 14:

VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN CÓ NHÂN TỐ NƯỚC NGOÀI

Điều 83. Quyền của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài về tố tụng dân sự.

Người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài có quyền khởi kiện tại các Toà án của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tham gia tố tụng theo quy định của Pháp lệnh này.

Điều 84. Vụ án dân sự có liện quan đến Nhà nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao.

Vụ án dân sự có liên quan đến Nhà nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao được giải quyết bằng con đường ngoại giao, trừ trường hợp Nhà nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao đồng ý tham gia tố tụng tại Toà án Việt Nam.

Điều 85. Uỷ thác tư pháp giữa Toà án Việt Nam với Toà án nước ngoài.

1- Việc uỷ thác tư pháp giữa Toà án Việt Nam với Toà án nước ngoài được thực hiện theo nguyên tắc bình đằng và cùng có lợi.

2- Toà án Việt Nam thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài, nếu việc được yêu cầu không trái với chủ quyền và không xâm phạm đến an ninh quốc gia của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 86. Thi hành những quy định về tố tụng dân sự trong những điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp và pháp lý.

Đối với những việc có liên quan đến công dân, pháp nhân các nước mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết điều ước quốc tế về tư pháp và pháp lý thì tố tụng dân sự được tiến hành theo quy định của những điều ước đó.

Chương 15:

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 87.

Pháp lệnh này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1990.

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 88.

Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng của mình hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.

 

 

Võ Chí Công

(Đã ký)

 

- Một số vấn đề về thủ tục tố tụng dân sự được hướng dẫn bởi Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 24, 26 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, nay họ có đơn xin ly hôn và có căn cứ cho thấy bị đơn vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không chịu cung cấp tin tức, địa chỉ của bị đơn cho Toà án, hoặc có trường hợp gia đình bị đơn đã cung cấp địa chỉ, nhưng việc uỷ thác chưa có kết quả, thì Toà án có thể giải quyết cho ly hôn vắng mặt bị đơn được không? Nếu thời gian chờ uỷ thác quá lâu thì có vi phạm thời hạn xét xử không? Thủ tục tống đạt bản án sơ thẩm như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Công văn số 517/NCPL ngày 9-10-1993 của Toà án nhân dân tối cao về việc ly hôn với một bên đang ở nước ngoài; Cụ thể là:
"1. Trong trường hợp Toà án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục uỷ thác tư pháp đến lần thứ hai, nhưng không được các cơ quan tư pháp có trách nhiệm của nước liên quan đáp ứng, thì Toà án liên hệ với Bộ Tư pháp để thông qua Bộ Ngoại giao yêu cầu cơ quan lãnh sự của nước ta tại nước có liên quan thực hiện uỷ thác tư pháp theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh Lãnh sự công bố ngày 24-11-1990 với nội dung: Lãnh sự thực hiện uỷ thác tư pháp của cơ quan nhà nước Việt Nam có thẩm quyền đối với công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự, nếu việc đó không trái với pháp luật nước tiếp nhận hoặc Điều ước Quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia.
Việc thực hiện uỷ thác tư pháp này phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam. Nếu Toà án đã thực hiện theo đúng các hướng dẫn nói trên, nhưng việc uỷ thác tư pháp vẫn không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong, không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
2. Đối với những vụ án ly hôn nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, bị đơn là người đang ở nước ngoài, nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh là họ vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để bị đơn gửi lời khai về cho Toà án, thì cần coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Trong trường hợp này, nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Ngược lại, nếu không có đầy đủ căn cứ để chứng minh được là bị đơn vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.
3. Đối với các trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yếu bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án được thi hành theo thủ tục chung". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1995; trang 278-279).
Theo hướng dẫn trên đây, thì ngoài việc thực hiện thủ tục uỷ thác tư pháp, Toà án còn có thể tiến hành các biện pháp khác để giải quyết vụ án. Chỉ trong trường hợp không tìm được địa chỉ của bị đơn, Toà án mới áp dụng điểm c khoản 1 Điều 45 ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Thời gian tạm đình chỉ giải quyết vụ án không tính vào thời hạn giải quyết vụ án và do đó, không có sự vi phạm quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn xét xử.
2. Trường hợp xin ly hôn với một bên có triệu chứng tâm thần mà người đó không chịu đi giám định, thì giải quyết như thế nào?
Khi thụ lý và giải quyết đơn xin lý hôn với một bên có triệu chứng tâm thần, thì cần phải có giám định của bệnh viện kết luận bị đơn là người mắc bệnh tâm thần. Trong trường hợp sau khi đã thụ lý đơn xin ly hôn, Toà án đã nhiều lần yêu cầu bị đơn đi giám định về tình trạng và mức độ bệnh tật mà người đó không chịu đi giám định, thì căn cứ vào kết quả xác minh và chứng cứ đã thu thập được, Toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án loại này, Toà án cần thực hiện đúng các hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về vấn đề ly hôn với một bên đang mắc bệnh tâm thần tại Công văn số 53/KHXX ngày 21-9-1996; cụ thể như sau:
" Trường hợp một bên vợ hoặc chồng mắc bệnh tâm thần mà bên kia gửi đơn đến Toà án xin ly hôn, nếu xét thấy mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.
Thủ tục giải quyết loại việc này là thủ tục phức tạp, trong đó việc bảo vệ quyền lợi của một bên đương sự được đặc biệt chú ý. Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 7/NCPL ngày 30-9-1966 của Toà án nhân dân tối cao "Về việc xét xử việc ly hôn với người mất trí" được giải quyết như sau:
Người mắc bệnh tâm thần là người không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, như vậy họ không thể tham gia tố tụng. Do đó, việc làm trước tiên của Toà án khi nhận được đơn xin ly hôn về loại này là điều tra, xác minh tình trạng và mức độ bệnh tật, thời gian mắc bệnh của bị đơn, nếu đúng bị đơn là người bị mắc bệnh tâm thần, thì phải có giám định của bệnh viện xác nhận.
Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 21 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29-11-1989 quy định: "Nếu đương sự là người có nhược điểm về thể chất và tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng.
Nếu không có ai đại diện cho người... có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì Toà án cử một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ chức xã hội làm người đại diện cho họ".
Toà án không nhất thiết phải lấy lời khai của người mắc bệnh tâm thần và triệu tập họ đến Toà án. Trường hợp họ là người hoàn toàn mất trí, bệnh tình trầm trọng, Toà án sẽ không lấy lời khai của họ. Trường hợp họ không phải là người thường xuyên mất trí (có khi họ tỉnh táo), thì kinh nghiệm một số Toà án cử cán bộ đến tận nơi kết hợp với gia đình và bệnh viện để giải thích và lấy lời khai của họ.
Tại phiên toà, người đại diện sử dụng quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn nên không cần thiết gọi người mắc bệnh tâm thần đến phiên toà vì sẽ ảnh hưởng đến trật tự phiên toà, gây khó khăn cho việc xét xử. Khi xét xử, cần có đại diện Viện kiểm sát và đây là loại việc mà Viện kiểm sát có thể tham gia tố tụng ngay từ khi Toà án bắt đầu thụ lý đơn xin ly hôn.
Về thủ tục, Toà án không tiến hành hoà giải như các vụ ly hôn khác, nhưng đối với nguyên đơn xin ly hôn, Toà án nên thuyết phục, giải thích để họ đoàn tụ và rút đơn xin ly hôn. Trường hợp bị đơn không phản đối việc ly hôn Toà án cũng không ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn mà phải mở phiên toà xét xử.
Khi giải quyết loại việc này, Toà án cần cân nhắc thận trọng và chú ý đến hoàn cảnh của bị đơn (như quân nhân mắc bệnh do hậu quả chiến tranh; người mắc bệnh vì nghề nghiệp...) mà đặt vấn đề cấp dưỡng. Nếu người mất trí đã có nguồn thu nhập khác (như phụ cấp mất sức lao động...) đủ để sinh sống, thì bản án cũng phải ghi rõ điều đó; Toà án dự kiến người chăm sóc, nuôi dưỡng bị đơn (nếu bị đơn không còn cha mẹ, thì người nuôi dưỡng có thể là một người họ hàng thân thích của bị đơn, nếu không có thì Toà án cử một tổ chức xã hội ở địa phương có trách nhiệm với họ)". (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 223-224).
3. Việc kết hôn không đăng ký thì Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình có hướng dẫn rằng việc kết hôn không đăng ký có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật; nếu có một hoặc hai bên xin li hôn, thì Toà án xử như việc xin li hôn theo Điều 40.
Trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 có hướng dẫn những cặp chung sống với nhau không đăng ký đã chung sống hàng chục năm có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán thì có hiệu lực pháp lý cao hơn. Hai văn bản này đều có đề cập đến vấn đề hôn nhân thực tế, nhưng hướng dẫn cách giải quyết khác nhau. Vậy cần thực hiện theo văn bản nào?
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán có hiệu lực pháp lý cao hơn các văn bản hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao. Về vấn đề công nhận hay không công nhận hôn nhân thực tế được hướng dẫn trong Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20-1-1988 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình" và trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với nhau. Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực kể từ ngày 3-1-1987, về nguyên tắc mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh; do đó, kể từ ngày Luật hôn nhân và gia định có hiệu lực pháp luật, mà hai người nam nữ muốn chung sống với nhau thì chỉ được coi là việc kết hôn, nếu tuân thủ các quy định tại Chương II của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trước khi Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực thì thực tế cho thấy có nhiều cặp chung sống với nhau không đăng ký, nhưng đã có con chung, tài sản chung và nếu không coi những trường hợp này là hôn nhân thực tế để giải quyết cho ly hôn thì không bảo đảm trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như không phù hợp với thực tế của Việt Nam; vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình ngày 20-1-1988 (chỉ sau một năm, kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hệu lực), Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình trong đó có hướng dẫn khi những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, thì Toà án xử như việc xin ly hôn theo Điều 40 (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1990; trang 247). Tuy trong Nghị quyết này không hướng dẫn cụ thể về thời điểm chung sống, nhưng phải hiểu rằng Toà án chỉ thụ lý giải quyết như việc xin ly hôn theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình nếu những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn trước ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực, chứ không phải kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực trở về sau; Nếu hướng dẫn cho cả về sau, thì vô hình chung Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trái pháp luật, tạo cho một số lợi dụng về chung sống với nhau không cần đăng ký kết hôn và chỉ khi không chung sống được với nhau mới yêu cầu Toà án giải quyết.
Trong kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao (thay mặt Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao) tại Hội nghị tổng kết công tác Toà án năm 1995 cũng hướng dẫn là chấm dứt việc hôn nhân thực tế đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn, trừ một số trường hợp họ đã chung sống hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung, thì có thể coi là hôn nhân thực tế để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là đối với phụ nữ (Xem cuốn Các văn bản hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 273). Thời điểm Hội nghị tổng kết công tác Toà án là năm 1996; do đó, theo tinh thần hướng dẫn trong Kết luận này, Toà án cũng chỉ có thể thụ lý giải quyết như việc xin ly hôn theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình khi có đơn xin ly hôn của các cặp nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn trước ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực.
Như vậy, hướng dẫn trong hai văn bản trên là thống nhất và không có gì mâu thuẫn với nhau. Về vấn đề này Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi ý kiến với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và sẽ ban hành Thông tư liên tịch trong thời gian gần đây. Hai cơ quan thống nhất hướng dẫn là đối với những cặp nam nữ chung sống với nhau sau ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực mà không đăng ký kết hôn nếu có đơn xin ly hôn thì Toà án không thụ lý để giải quyết theo Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình; Toà án chỉ thụ lý để giải quyết việc nuôi con và chia tài sản chung (nếu có yêu cầu) theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình và các quy định tương ứng của Bộ Luật dân sự.
4. Khi nhận hoặc khi thụ lý đơn xin ly hôn mà Toà án phát hiện việc kết hôn không đúng thủ tục do pháp luật quy định như việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cấp, thì Toà án giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại các Điều 3 và 7 Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (sau đây gọi là Pháp lệnh) và tại Điều 4 Nghị định số 184/CP ngày 30-11-1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, thì ở Việt Nam thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam. Theo quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh thì "việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài vi phạm một trong các quy định tại Điều 6 của Pháp lệnh này là trái pháp luật" và Điều 6 của Pháp lệnh quy định "Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo nghi thức kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình. Chính phủ quy định thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài". Tại các Điều 7, 8, 9 và 10 Nghị định số 184/CP nói trên thì các yêu cầu về hồ sơ và trình tự đăng ký kết hôn tại Việt Nam được quy định rất chặt chẽ. Như vậy theo các quy định trên đây, thì việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tiến hành trước Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là trái pháp luật; do đó khi một hoặc hai bên có đơn xin ly hôn, thì Toà án vẫn thụ lý để giải quyết. Áp dụng Điều 9 Pháp lệnh huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ cũng như quyền lợi của con người được giải quyết theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Cần lưu ý là thẩm quyền thụ lý và giải quyết loại việc này thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của công dân Việt Nam; nếu công dân Việt Nam không còn thường trú tại Việt Nam thì thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú cuối cùng của người đó tại Việt Nam (Xem Điều 9 Pháp lệnh).
5. Về việc xin ly hôn mà các bên có yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng là đất trồng cây hàng năm và nuôi trồng thuỷ sản, nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993, thì ngoài việc sử dụng cho ly hôn Toà án hay Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết việc chia đất đó? Nếu Toà án không giải quyết thì có một bên phản ứng, thậm chí dẫn đến xô xát sau khi ly hôn, vì mảnh đất là nguồn sống chính của họ ở nông thôn. Trường hợp này giải quyết như thế nào?
Theo điểm 1 Công văn số 92/KHXX ngày 8-8-1997 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính, thì trong trường hợp người khởi kiện nộp đơn khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất kể cả đất có tài sản mà họ không tranh chấp tài sản, thì trước khi thụ lý, Toà án phải yêu cầu người khởi kiện xuất trình Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn... nơi có đất (là đối tượng tranh chấp quyền sử dụng đất) về việc đất đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993. Chỉ sau khi có một trong hai loại giấy nêu trên để xác định chắc chắn là đối với đất đó (đang là đối tượng tranh chấp) đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993, thì Toà án mới thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền như đã được hướng dẫn tại khoản 1 Phần I Thông tư. Nếu đương sự không xuất trình được một trong hai loại giấy nêu trên, thì Toà án không thụ lý để giải quyết, trừ trường hợp họ thay đổi yêu cầu thành việc tranh chấp tài sản gắn liền với việc sử dụng đất. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 239). Như vậy, theo hướng dẫn này thì dù là đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993; nếu một trong các bên đương sự có yêu cầu giải quyết phân chia quyền sử dụng đất, thì Toà án không giải quyết. Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho các bên biết quy định của văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền giải quyết.
6. Trong khi quan hệ hôn nhân còn tồn tại, con dâu có quyền đòi chia tài sản chung của gia đình nhà chồng theo công sức đóng góp của mình không?
Trường hợp con dâu sống chung với gia đình nhà chồng, có công sức đóng góp trong việc tạo nên khối tài sản chung của gia đình, mặc dù quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại, nhưng nếu họ có yêu cầu được chia tài sản chung của gia đình nhà chồng tương ứng với công sức đóng góp của mình, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung và áp dụng quy định tại Điều 238 Bộ luật dân sự (Chia tài sản thuộc sở hữu chung) để giải quyết .
7. Khi cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con, hoặc việc thay đổi họ tên trong giấy khai sinh cho con, thì Toà án thụ lý giải quyết về hình thức hay giải quyết cả về nội dung?
Khi thụ lý giải quyết việc cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ, tên trong giấy khai sinh cho con , thì trước hết Toà án phải nắm vững các quy định của pháp luật về các vấn đề này. Toà án phải xem xét việc cơ quan hộ tịch từ chối việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ, tên cho con vì lý do gì; Đồng thời Toà án phải xác minh, thu thập chứng cứ và căn cứ vào các quy định của pháp luật về các vấn đề này để có quyết định. Nếu có đầy đủ căn cứ cho rằng yêu cầu việc xác định cha, mẹ cho con hoặc việc thay đổi họ , tên trong giấy khai sinh cho con là chính đáng, thì Toà án chấp nhận và buộc cơ quan hộ tịch có trách nhiệm xác định cha, mẹ cho con hoặc thay đổi họ, tên trong giấy khai sinh cho con theo yêu cầu của nguyên đơn.
8 . Cơ quan nào thu, chi tiền tạm ứng chi phí định giá cho các loại kiện về dân sự do các đương sự nộp?
Về vấn đề này cần phân biệt như sau:
a- Nếu các đương sự thoả thuận với nhau yêu cầu cá nhân hoặc cơ quan thực hiện việc định giá thì họ trực tiếp nộp tiền tạm ứng chi phí định giá cho cá nhân hoặc cơ quan tiến hành việc định giá theo yêu cầu của cá nhân hoặc cơ quan đó.
b- Nếu việc định giá do Toà án quyết định, thì trên cơ sở dự báo của cơ quan định giá, Toà án thu tiền tạm ứng chi phí định giá và chi trả cho cơ quan định giá và phải thanh toán với đương sự sau khi việc định giá thực hiện xong. Trong bản án, quyết định Toà án phải quyết định người phải chịu chi phí định giá và số tiền chi phí định giá phải nộp.
….
10. Đại diện của Toà án không phải là thành viên của Hội đồng định giá, vậy khi Hội đồng định giá chỉ có hai thành viên, một của cơ quan tài chính, vật giá, một là của cơ quan khác mà khi biểu quyết về giá các ý kiến trái ngược nhau, thì Toà án căn cứ vào đâu để giải quyết?
Quyết định cuối cùng về giá là thuộc Hội đồng định giá. Như vậy, trong trường hợp Hội đồng định giá chỉ có hai thành viên mà khi biểu quyết về giá các ý kiến trái ngược nhau, thì việc định giá được coi là chưa thành, và phải tiến hành định giá lại để có được quyết định cuối cùng của Hội đồng định giá về giá. Tuy nhiên, để tránh xảy ra trường hợp tương tự, thì khi thành lập Hội đồng định giá, ngoài đại diện của cơ quan tài chính, vật giá tuỳ vào tài sản cần định giá mà Toà án cần mời thêm đại diện của hai cơ quan chức năng khác. Ví dụ: để định giá về quyền sử dụng đất, thì ngoài đại diện của cơ quan tài chính, vật giá, Toà án cần mời thêm đại diện của cơ quan xây dựng và đại diện của cơ quan nhà đất.
11. Chi phí cho việc đo đạc đất đai do ai phải chịu?
Trong trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất mà cần phải đo đạc diện tích đất, thì việc đo đạc diện tích đất là một trong những việc Toà án phải tiến hành trước khi hoà giải, xét xử. Thông thường việc đo đạc diện tích đất do Toà án thực hiện. Nếu việc đo đạc diện tích đất do Toà án thực hiện, thì không có chi phí cho việc đo đạc đất đai. Trong trường hợp cần thiết phải yêu cầu cơ quan chuyên môn tiến hành việc đo đạc diện tích đất đai, thì chi phí cho việc đo đạc đất đai do người thua kiện phải chịu. Cần chú ý là khi thực hiện việc đo đạc đất đai các bên đương sự cần phải có mặt, Toà án có thể mời đại diện của chính quyền địa phương chứng kiến.
12. Trường hợp các bên tranh chấp về nhà ở đều ở trong nước, nhưng đối tượng là người Việt Nam ở nước ngoài là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì có giải quyết không?
Về vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Nếu tranh chấp về nhà ở phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 58/NQ-UBTVQH ngày 20-8-1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 và hướng dẫn tại khoản 2 mục II Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25-1-1999 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Toà án không giải quyết trong khi chưa có chính sách của Nhà nước đối với loại giao dịch dân sự này.
- Nếu tranh chấp về nhà ở phát sinh từ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập từ ngày 1-7-1991, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung.
13. Trường hợp chính quyền địa phương giao đất cho hộ gia đình để dãn hộ cho chủ hộ là bố mẹ. Vợ chồng con làm nhà trên đất đó, khi vợ chồng con xin ly hôn thì có coi đất đó là tài sản chung của vợ chồng để chia không?
Theo quy định tại Điều 118 Bộ luật dân sự thì "quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản chung của hộ"; do đó cần phân biệt như sau:
- Nếu các thành viên trong hộ gia đình đều đồng ý cho đất để vợ chồng một người con của chủ hộ làm nhà ở, mặc dù không có giấy tờ, nhưng có nhiều người biết việc cho đất đó và vợ chồng người con đã làm nhà ở thực sự trên đất đã được cho thành khuôn viên riêng, thì vợ chồng người con đó đang sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất. Khi xét xử cho ly hôn thì quyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của vợ chồng và được chia theo quy định chung.
- Nếu các thành viên trong hộ gia đình chưa đồng ý cho đất để vợ chồng một người con của chủ hộ làm nhà ở, nhưng vợ chồng người con đó đã làm nhà ở trên một phần đất đó, thì trong trường hợp này nhà ở là tài sản chung của vợ chồng, còn quyền sử dụng đất vẫn là của hộ gia đình. Khi xét xử cho ly hôn thì Toà án tính giá trị của nhà ở để chia cho họ hoặc chia nhà ở bằng hiện vật, còn đất thì người nhận một phần hoặc toàn bộ nhà ở phải thanh toán tiền giá trị quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo khung giá đất do chính quyền địa phương quy định. Trong trường hợp họ phải thanh toán tiền giá trị quyền sử dụng đất, thì Toà án chỉ buộc phải thanh toán cho những người không đồng ý cho đất theo phần tương ứng mà họ được hưởng.
14. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở hoặc tranh chấp về ranh giới với diện tích nhỏ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nào?
Theo hướng dẫn tại Mục I Thông tư liên tịch số 02/TTLT ngày 28-7-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính "Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm 1993" và theo hướng dẫn tại Công văn số 92/KHXX ngày 8-8-1997 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Thông tư liên tịch số 02/TTLT này, thì các tranh chấp quyền sử dụng đất (đất canh tác, đất gắn liền với tài sản nhưng các bên không tranh chấp về tài sản) mà đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993 thì thuộc thẩm quyền Toà án giải quyết; nếu đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1993, thì thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết. (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng; năm 1998; trang 236-237 và trang 239-240).
Như vậy, tranh chấp quyền sử dụng đất mà trên đất đó có nhà ở, nhưng các bên không có tranh chấp về nhà ở và tranh chấp ranh giới đất (thực chất là tranh chấp quyền sử dụng đất) nếu các loại đất đó đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; nếu chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
15. Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định về người đại diện do đương sự uỷ quyền. Đề nghị hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề uỷ quyền, đặc biệt là bị đơn là dân sự uỷ quyền.
Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì chỉ trừ việc ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật, đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng. Theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này thì đương sự là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; do đó, việc bị đơn uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, thì cũng như nguyên đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan uỷ quyền. Việc Toà án không chấp nhận ai tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền thì đã được hướng dẫn cụ thể tại mục IV Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 296-297).

17. Cơ quan nào có trách nhiệm chuyển giao giấy triệu tập của Toà án?
Theo quy định của pháp luật tố tụng nói chung và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói riêng, thì việc chuyển giao giấy triệu tập của Toà án cho những người tham gia tố tụng là trách nhiệm của Toà án; Vì vậy, Toà án cần áp dụng các biện pháp thích hợp để chuyển giao giấy triệu tập cho họ (như: Cử cán bộ trực tiếp giao cho họ; Yêu cầu họ đến Toà án và giao cho họ; Gửi qua đường bưu điện; Gửi qua Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi họ cư trú và nhờ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển giao cho họ và báo cho Toà án biết giấy triệu tập đã được chuyển giao...)

24. Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà có trường hợp người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác, thì có đưa những người đó vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Khi giải quyết việc ly hôn và có yêu cầu phân chia tài sản mà người khác nợ vợ chồng họ hoặc vợ chồng họ nợ người khác thì cần phải đưa người nợ hoặc chủ nợ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ chồng cùng đồng ý không buộc người nợ phải trả nợ cho họ;
- Chủ nợ đồng ý không buộc vợ chồng họ phải trả nợ cho chủ nợ.

26. Đề nghị giải thích tư cách tố tụng của trưởng thôn trong việc đại diện cho thôn trong việc giao kết hợp đồng dân sự và tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự.
Theo quy định tại Điều 94, Điều 110, Điều 116 và Điều 120 Bộ luật dân sự, thì thôn không phải là đơn vị có tư cách pháp nhân, thôn cũng không phải là hộ gia đình hay tổ hợp tác. Theo pháp luật hành chính, thì thôn cũng không phải là một cấp hành chính, thôn chỉ là một đơn vị hành chính; do đó Trưởng thôn không thể tự nhân danh nhân dân của thôn trong giao việc giao kết hợp đồng dân sự cũng như tự đứng ra tham gia tố tụng dân sự với tư cách là đại diện cho nhân dân của thôn đó. Tuy nhiên, nếu Trưởng thôn được mọi người trong thôn uỷ quyền trong việc giao kết hợp đồng dân sự và tham gia tố tụng dân sự khi có tranh chấp, thì Trưởng thôn có quyền giao kết hợp đồng dân sự, và trong trường hợp này mọi người trong thôn phải cùng cam kết thực hiện các điều khoản của hợp đồng cũng như cùng chịu trách nhiệm phát sinh từ hợp đồng. Khi có tranh chấp hợp đồng nếu có yêu cầu Toà án giải quyết, thì Trưởng thôn đại diện cho nhân dân trong thôn tham gia tố tụng. Trong trường hợp Trưởng thôn không được nhân dân trong thôn uỷ quyền mà tự mình giao kết hợp đồng dân sự, thì tự mình phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.

Ngoài các vấn đề đã được giải đáp trên đây, còn có một số vấn đề khác Toà án nhân dân tối cao đang cùng phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu để có hướng dẫn áp dụng thống nhất; Ví dụ: thế nào là "vật phạm pháp có số lượng lớn", "gây hậu quả nghiêm trọng" quy định tại điểm b khoản 2 Điều 99 Bộ luật hình sự về tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ; hướng dẫn áp dụng Điều 181 Bộ luật hình sự về tội vị phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng... Khi có hướng dẫn của liên ngành, Toà án nhân dân tối cao sẽ gửi đến các Toà án các cấp.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
II. VỀ HÒA GIẢI

1. Theo Điều 5 của Pháp lệnh thì hòa giải là thủ tục bắt buộc, chỉ không hòa giải được hoặc hòa giải không thành thì mới đưa ra vụ án xét xử, trừ những trường hợp không phải hòa giải theo quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh.

2. Khi các đương sự thỏa thuận với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những điều các đương sự đã thỏa thuận. Bản sao biên bản này gửi ngay cho Viện Kiểm sát cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung. Nếu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc Viện Kiểm sát, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung phản đối sự thỏa thuận đó, thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn đó (hay nói một cách khác là hết hạn 15 ngày đó) không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối, thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay, nên các đương sự không có quyền kháng cáo quyết định này theo thủ tục phúc thẩm, mà chỉ có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại việc giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

Theo quy định tại Điều 40 Luật hôn nhân và gia đình thì hòa giải cũng là một thủ tục bắt buộc khi cả hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn; do đó, nếu Tòa án đã hòa giải để hai bên đương sự về đoàn tụ với nhau nhưng họ vẫn kiên quyết xin ly hôn, thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản về sự thỏa thuận của các đương sự về thuận tình ly hôn, phân chia tài sản và nuôi con …. Việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa ra xét xử trong các trường hợp này cũng được thực hiện theo hướng dẫn trên.

3. Trong trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải mà các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.

4. Ngoài việc đưa ra xét xử những việc không phải hòa giải (Điều 43), những việc hòa giải không thành, Tòa án đưa ra xét xử những việc như sau: bị đơn đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng (khoản 4 Điều 44) hoặc những trường hợp không có điều kiện tiến hành hòa giải như: có một bên đương sự ở nước ngoài, đang bị giam giữ hoặc những trở ngại khách quan như bị tai nạn, ốm đau … nên không thể có mặt được khi hòa giải.

5. Trước khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cũng tiến hành hòa giải và các đương sự hòa giải được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng được thực hiện theo hướng dẫn 2, 3, 4 của phần này.

Trong trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết định công nhận sự thỏa thuận đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 8 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
8. Việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự có thể bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của đương sự, tổ chức xã hội hoặc quyết định khởi tố vụ án của Viện kiểm sát.

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu thấy cần phải điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có thể tự mình tiến hành điều tra bổ sung hoặc ủy thác cho Viện kiểm sát khác điều tra bổ sung, yêu cầu Tòa án điều tra bổ sung. Viện kiểm sát có thể trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản với Tòa án về những vấn đề cần điều tra bổ sung. Tòa án có trách nhiệm kịp thời đáp ứng yêu cầu của Viện kiểm sát về điều tra bổ sung. Trong trường hợp thấy có thể điều tra bổ sung được tại phiên tòa thì Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát biết.

Nếu Tòa án cần hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát chuyển trả lại Tòa án. Việc giao nhận hồ sơ vụ án cũng được thực hiện theo điểm 6 của Thông tư này.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục III Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
III. VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CÔNG DÂN MẤT TÍCH HOẶC ĐÃ CHẾT

1. Tòa án có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cấp huyện nơi thường trú của người khởi kiện hoặc nơi thường trú cuối cùng mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định là mất tích hoặc đã chết.

2. Tòa án có thể xác định một người là mất tích, nếu đã quá hai năm hoặc có thể xác định một người đã chết nếu đã quá năm năm mà ở nơi đăng ký hộ khẩu thường trú cuối cùng (và ở nơi tạm trú thường xuyên cuối cùng nếu có) của người đó, không có tin tức gì về người đó.

Trong trường hợp không thể xác định được ngày nhận tin tức cuối cùng về người vắng mặt thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày đầu của tháng tiếp sau tháng nhận được tin tức cuối cùng về người vắng mặt, còn trong trường hợp không thể xác định được tháng đó thì tính thời gian bắt đầu vắng mặt là ngày 1 tháng 1 năm tiếp sau đó.

3. Đối với những người có thể chết trong một tai nạn nhất định như bị lũ lụt cuốn trôi, bị đắm tàu, đi trên máy bay bị mất liên lạc v.v…. Nếu sau thời hạn sáu tháng từ ngày xảy ra tai nạn mà không có tin tức gì chứng tỏ là người đó còn sống, thì Tòa án xác định là người đó đã chết vào ngày xảy ra tai nạn đó.

4. Khi nhận được đơn khởi kiện của đương sự Tòa án yêu cầu đương sự đến cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của tỉnh và Trung ương nhắn tin tìm người vắng mặt và lấy xác nhận của cơ quan đó về việc đã nhắn tin tìm người vắng mặt nộp cho Tòa án thụ lý vụ án. Tòa án cũng có quyền yêu cầu người khởi kiện nộp tiền tạm ứng cho việc thông báo tìm người vắng mặt trên báo chí, đài phát thanh, đài vô tuyến truyền hình của tỉnh và của Trung ương, để Tòa án thụ lý vụ án và thông báo tìm người vắng mặt. Người khởi kiện phải chịu án phí và phí tổn về việc thông báo tìm người vắng mặt. Trong thông báo phải nêu rõ họ, tên, đặc điểm nhân dạng, nơi cư trú, làm việc cuối cùng của người vắng mặt, thời gian bắt đầu vắng mặt, v.v… để bất cứ ai biết về người đó cũng có thể cung cấp tin cho Tòa án. Thông báo cùng được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi người vắng mặt cư trú, làm việc cuối cùng. Trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày nhắn tin hoặc thông báo mà người vắng mặt không trình diện và không có tin tức gì về người đó thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu có tin tức về người vắng mặt, thì Tòa án yêu cầu người khởi kiện rút đơn khởi kiện và ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, nếu đương sự không rút đơn khởi kiện thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử để bác bỏ yêu cầu của họ.

5. Đối với loại việc này Tòa án không phải hòa giải mà phải xét xử tại phiên tòa công khai, Tòa án phải yêu cầu Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa. Tòa án triệu tập những người có lợi ích liên quan đến người không có tin tức để nghe ý kiến của họ. Hội đồng xét xử ra bản án xác định là người đó mất tích và trích lục bản án sơ thẩm cũng phải được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân, cơ quan, tổ chức nơi người bị tuyên bố là mất tích cư trú, làm việc cuối cùng. Sau thời hạn một năm kể từ ngày bản án của Tòa án xác định một người là mất tích có hiệu lực pháp luật, nếu vẫn không có tin tức chứng tỏ người đó còn sống thì người có lợi ích liên quan đến người đó có quyền yêu cầu Tòa án xác định người đó đã chết.

6. Trình tự tố tụng đối với việc xác định người đã chết cũng giống như xác định người đã mất tích. Tuy nhiên, để xác định người đã chết không nhất thiết phải qua thủ tục xác định người đó là mất tích.

Ngày chết của người mà Tòa án xác định người đã chết là ngày bản án của Tòa án về việc đó có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp người đó có thể chết trong một tai nạn, thì Tòa án có thể xác định ngày chết của người đó là ngày xảy ra tai nạn.

7. Tài sản của người mà Tòa án xác định là mất tích tùy trường hợp được giao cho người thân thích của họ hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý. Người được giao quản lý tài sản có trách nhiệm bảo quản và không được chuyển dịch quyền sở hữu, thế chấp, cầm cố … tài sản đó. Tài sản đó có thể được trích ra để nuôi dưỡng người mà người mất tích có nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người mất tích. Tài sản của người mà Tòa án xác định là đã chết được giải quyết theo pháp luật về thừa kế.

8. Nếu có người xin ly hôn vì lý do người kia mất tích thì Tòa án giải quyết cả việc mất tích và ly hôn trong cùng một vụ án. Trong trường hợp Tòa án xác định người kia bị mất tích thì Tòa án cho nguyên đơn được ly hôn với người mất tích.

9. Trong trường hợp mà Tòa án xác định là mất tích hoặc đã chết xuất hiện thì vụ án có thể được giải quyết lại theo thủ tục tái thẩm. Nếu vụ án được giải quyết lại theo thủ tục tái thẩm thì tài sản của người bị Tòa án xác định là đã chết hoặc bị mất tích đang do người khác quản lý hoặc đã được chuyển giao theo pháp luật thừa kế được trả lại theo yêu cầu của họ.

Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người mà tòa án xác định là đã chết hoặc mất tích đã kết hôn với người khác thì không được khởi kiện, khởi tố để yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn đó.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục IV Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
IV. VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ĐỐI VỚI VIỆC TỪ CHỐI ĐĂNG KÝ HOẶC KHÔNG CHẤP NHẬN YÊU CẦU SỬA ĐỔI NHỮNG ĐIỀU GHI TRONG GIẤY TỜ VỀ HỘ TỊCH

Đương sự có quyền khiếu nại cơ quan hộ tịch về quyền từ chối đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn (kể cả việc kết hôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài) đăng ký việc nuôi con nuôi, nhận con ngoài giá thú, xác nhận cha, mẹ cho con, thay đổi quốc tịch … có quyền khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch như thay đổi họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh hoặc bổ sung sửa chữa các sai sót như ghi nhầm tên của cha mẹ trong giấy khai sinh …..

Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết loại việc này là Tòa án cấp huyện nơi có trụ sở của cơ quan hộ tịch bị khiếu nại. Đối với loại việc này, Tòa án phải yêu cầu Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa. Để giải quyết vụ việc này Tòa án cần nắm vững các quy định của điều lệ đăng ký hộ tịch (ban hành kèm theo Nghị định số 4-CP ngày 16-1-1961 của Hội đồng Chính phủ), Thông tư số 05-NV ngày 21-1-1961 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch, Nghị định số 219-HĐBT ngày 20-11-1987 của Hội đồng Bộ trưởng.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 19 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
19. Việc xác định nơi cư trú theo quy định tại Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có phải được thực hiện theo Điều 48 Bộ luật dân sự hay không?
Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định về thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ, trong đó có quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Toà án nơi cư trú của bị đơn. Việc xác định nơi nào là nơi cư trú của bị đơn phải thực hiện theo các quy định tại các Điều 48, 49, 50, 51, 52 và 53 của Bộ luật dân sự.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điểm 7 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
7. Một số Toà án đề nghị giải thích rõ việc thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thì thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu "đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm", nếu "đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án".
Nên hiểu tinh thần của các quy định trên đây như sau:
- Thẩm phán đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia xét xử vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác. (Thí dụ: đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh), trừ trường hợp các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vẫn tham gia xét xử ở Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Pháp lệnh có quy định là các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng không quy định việc các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này có nghĩa là: nếu Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh huỷ bỏ bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện và giao vụ án cho Toà án cấp huyện xét xử lại, mà việc xét xử sơ thẩm này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh không có quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cùng một vụ án đó một lần nữa, còn Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì cũng không có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp huyện vì theo quy định của khoản 2 Điều 74 và của Điều 81 Pháp lệnh thì Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh. Để tránh tình trạng này, có thể là khi huỷ bán án, quyết định của Toà án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án cấp tỉnh nên giữ vụ án lại ở Toà án cấp tỉnh để xét xử theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở cấp Toà án này không được tham gia xét xử vụ án đó ở cấp Toà án khác. Tuy nhiên, thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở một cấp Toà án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Toà án, bởi lẽ thẩm phán xét xử vụ án ở một Toà án thông thường chính là người đã tiến hành điều tra, hoà giải trước khi xét xử vụ án đó.
- Thư ký Toà án đã tham gia tiến hành tố tụng ở một cấp Toà án không được tham gia tố tụng với tư cách là thẩm phán ở cấp xét xử khác. Tuy nhiên, thư ký Toà án sau khi được bầu làm thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp Toà án mặc dù trước đó đã tham gia tố tụng với tư cách là thư ký Toà án trong giai đoạn điều tra, hoà giải;
- Người đã tham gia tố tụng với tư cách là kiểm soát viên, giám định viên, người phiên dịch trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia tố tụng đối với cùng một vụ án với tư cách là thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào và ở bất cứ cấp Toà án nào.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Mục V Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
V. VỀ QUY ĐỊNH CÁC ĐIỂM B, C KHOẢN 1 ĐIỀU 17 CỦA PHÁP LỆNH

Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 của Pháp lệnh thì Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi: nếu “đã có lần điều tra, hòa giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”, hoặc nếu, “đã là Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án”.

Khi áp dụng quy định trên đây cần chú ý như sau:

- Thẩm phán đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác (thí dụ: đã tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì không được tham gia xét xử ở Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, đã tham gia xét xử ở tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, thì không được tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Riêng các thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có thể xét xử nhiều lần cùng một vụ án ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và ở Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Pháp lệnh không quy định các thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Do đó trong trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và giao vụ án cho Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử lại, mà việc xét xử này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh không có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án đó một lần nữa, còn Tòa án nhân dân tối cao thì cũng có thẩm quyền giám đốc thẩm tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện (vì theo quy định của khoản 2 Điều 47 và Điều 81 của Pháp lệnh thì Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp tỉnh). Để tránh tình trạng này, khi hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án cấp tỉnh cần giữ vụ án lại để xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

Thẩm phán đã tiến hành điều tra hòa giải về vụ án ở cấp Tòa án này thì không được tham gia xét xử vụ án đó ở cấp Tòa án khác. Tuy nhiên, Thẩm phán đã tiến hành điều tra hòa giải ở một cấp Tòa án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Tòa án.

- Thư ký Tòa án tham gia tố tụng ở cấp xét xử này thì không được tham gia tố tụng với tư cách Thẩm phán ở cấp xét xử khác. Thư ký Tòa án sau khi được bầu làm Thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp xét xử mặc dù trước đó đã tham gia tố tụng với tư cách Thư ký Tòa án trong giai đoạn điều tra, hòa giải.

- Người đã tham gia tố tụng với tư cách là một Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia giải quyết vụ án đó với tư cách Thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, bất cứ Tòa án nào.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Điểm 7 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
7. Một số Toà án đề nghị giải thích rõ việc thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh thì thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu "đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm", nếu "đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án".
Nên hiểu tinh thần của các quy định trên đây như sau:
- Thẩm phán đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia xét xử vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác. (Thí dụ: đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh), trừ trường hợp các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao vẫn tham gia xét xử ở Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Pháp lệnh có quy định là các thành viên của Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng không quy định việc các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này có nghĩa là: nếu Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh huỷ bỏ bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện và giao vụ án cho Toà án cấp huyện xét xử lại, mà việc xét xử sơ thẩm này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh không có quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cùng một vụ án đó một lần nữa, còn Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao thì cũng không có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp huyện vì theo quy định của khoản 2 Điều 74 và của Điều 81 Pháp lệnh thì Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh. Để tránh tình trạng này, có thể là khi huỷ bán án, quyết định của Toà án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án cấp tỉnh nên giữ vụ án lại ở Toà án cấp tỉnh để xét xử theo thủ tục sơ thẩm;
- Thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở cấp Toà án này không được tham gia xét xử vụ án đó ở cấp Toà án khác. Tuy nhiên, thẩm phán đã tiến hành điều tra, hoà giải ở một cấp Toà án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Toà án, bởi lẽ thẩm phán xét xử vụ án ở một Toà án thông thường chính là người đã tiến hành điều tra, hoà giải trước khi xét xử vụ án đó.
- Thư ký Toà án đã tham gia tiến hành tố tụng ở một cấp Toà án không được tham gia tố tụng với tư cách là thẩm phán ở cấp xét xử khác. Tuy nhiên, thư ký Toà án sau khi được bầu làm thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp Toà án mặc dù trước đó đã tham gia tố tụng với tư cách là thư ký Toà án trong giai đoạn điều tra, hoà giải;
- Người đã tham gia tố tụng với tư cách là kiểm soát viên, giám định viên, người phiên dịch trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia tố tụng đối với cùng một vụ án với tư cách là thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào và ở bất cứ cấp Toà án nào.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Mục V Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
V. VỀ QUY ĐỊNH CÁC ĐIỂM B, C KHOẢN 1 ĐIỀU 17 CỦA PHÁP LỆNH

Theo các điểm b, c khoản 1 Điều 17 của Pháp lệnh thì Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi: nếu “đã có lần điều tra, hòa giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”, hoặc nếu, “đã là Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch trong vụ án”.

Khi áp dụng quy định trên đây cần chú ý như sau:

- Thẩm phán đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

- Thẩm phán đã tham gia xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; không được tham gia xét xử lại vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ở một cấp xét xử khác (thí dụ: đã tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì không được tham gia xét xử ở Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; đã tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì không được tham gia xét xử ở Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, đã tham gia xét xử ở tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, thì không được tham gia xét xử ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh). Riêng các thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có thể xét xử nhiều lần cùng một vụ án ở Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và ở Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Pháp lệnh không quy định các thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều lần cùng vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Do đó trong trường hợp Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và giao vụ án cho Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử lại, mà việc xét xử này lại sai lầm nghiêm trọng thì bản án có sai lầm này (nếu không được sửa chữa theo thủ tục phúc thẩm) sẽ không được sửa chữa theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh không có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án đó một lần nữa, còn Tòa án nhân dân tối cao thì cũng có thẩm quyền giám đốc thẩm tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện (vì theo quy định của khoản 2 Điều 47 và Điều 81 của Pháp lệnh thì Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chỉ có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án cấp tỉnh). Để tránh tình trạng này, khi hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án cấp tỉnh cần giữ vụ án lại để xét xử theo thủ tục sơ thẩm.

Thẩm phán đã tiến hành điều tra hòa giải về vụ án ở cấp Tòa án này thì không được tham gia xét xử vụ án đó ở cấp Tòa án khác. Tuy nhiên, Thẩm phán đã tiến hành điều tra hòa giải ở một cấp Tòa án vẫn có quyền tham gia xét xử vụ án đó ở cùng cấp Tòa án.

- Thư ký Tòa án tham gia tố tụng ở cấp xét xử này thì không được tham gia tố tụng với tư cách Thẩm phán ở cấp xét xử khác. Thư ký Tòa án sau khi được bầu làm Thẩm phán vẫn có thể tham gia xét xử vụ án ở cùng cấp xét xử mặc dù trước đó đã tham gia tố tụng với tư cách Thư ký Tòa án trong giai đoạn điều tra, hòa giải.

- Người đã tham gia tố tụng với tư cách là một Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch trong vụ án, thì trong mọi trường hợp không được tham gia giải quyết vụ án đó với tư cách Thẩm phán ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào, bất cứ Tòa án nào.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 11 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
11. Trong quá trình điều tra, chuẩn bị xét xử, nếu Tòa án hoặc Viện kiểm sát thấy cần thiết phải thay đổi hoặc nhận được đơn yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch thì tùy trường hợp cụ thể Tòa án và Viện kiểm sát trao đổi với nhau để xem xét việc thay đổi trước khi mở phiên tòa.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 16 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
16. Trường hợp nguyên đơn bỏ đi làm ăn xa, Toà án không tống đạt được giấy triệu tập thì giải quyết như thế nào?
Trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết, nhưng sau khi Toà án đã thụ lý vụ án thì nguyên đơn bỏ đi làm ăn xa, Toà án không tống đạt được giấy triệu tập cho đương sự, thì cần giải quyết như sau:
- Nếu có thân nhân của nguyên đơn còn sinh sống ở địa phương và có căn cứ cho thấy họ biết được địa chỉ của nguyên đơn hay họ vẫn liên lạc với nguyên đơn, thì Toà án yêu cầu họ thông báo hoặc chuyển cho nguyên đơn giấy triệu tập của Toà án. Nếu thân nhân của họ không chịu thông báo hoặc chuyển giấy triệu tập của Toà án cho nguyên đơn để nguyên đơn về tham gia tố tụng hoặc thông báo cho Toà án biết họ yêu cầu xét xử vắng mặt họ, thì coi đây là trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu thông báo hoặc chuyển giấy triệu tập của Toà án cho nguyên đơn, thì Toà án áp dụng khoản 3 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Nếu thân nhân của nguyên đơn không ai biết địa chỉ của nguyên đơn hoặc thân nhân của nguyên đơn không còn ai sinh sống ở địa phương, thì Toà án cần thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương về việc Toà án đã thụ lý để giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm và yêu cầu nguyên đơn phải có mặt để tham gia tố tụng hoặc cho biết ý kiến của mình về việc có yêu cầu Toà án xét xử vụ án vắng mặt họ hay không. Nếu nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt họ, thì Toà án tiến hành xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung. Nếu họ yêu cầu xét xử có mặt họ thì yêu cầu họ có mặt tại Toà án theo đúng lịch phiên toà do Toà án ấn định. Sau thời hạn ba tháng, kể từ ngày ra thông báo, nếu nguyên đơn vẫn không có tin tức gì và cũng không có mặt tại Toà án để tham gia phiên toà, thì Toà án áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 28 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
28. Cơ quan nào có trách nhiệm thi hành quyết định của Toà án về phạt tiền theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự?
Trong trường hợp Toà án áp dụng khoản 3 Điều 20, Điều 54 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để ra quyết định phạt tiền đối với bị đơn dân sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng và đối với người vi phạm trật tự phiên toà, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 4, Điều 20 Pháp lệnh thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm có trách nhiệm thi hành quyết định phạt tiền của Toà án đó.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục I Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
I. VỀ VIỆC BỊ ĐƠN TỪ CHỐI KHAI BÁO, CỐ TÌNH VẮNG MẶT KHÔNG CÓ LÝ DO CHÍNH ĐÁNG

Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 của Pháp lệnh thì “các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, thi hành quyết định, thực hiện yêu cầu của Tòa án, phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị Tòa án phạt tiền từ 20.000đ đến 50.000đ”

Pháp lệnh này không quy định việc áp giải đương sự cho nên Tòa án không có quyền yêu cầu áp giải bị đơn cố tình vắng mặt.

Đối với các trường hợp Tòa án đã triệu tập nhiều lần mà bị đơn không chịu đến trụ sở Tòa án để Tòa án lấy lời khai, hòa giải, thì Tòa án có thể phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập họ đến trụ sở Ủy ban nhân dân để lấy lời khai, ủy quyền cho Ủy ban nhân dân lấy lời khai hoặc trực tiếp đến nhà họ để lấy lời khai. Nếu đã làm như vậy mà vẫn không lấy được lời khai của bị đơn, thì Tòa án thu thập chứng cứ cần thiết từ các nguồn khác và phản ảnh rõ trong hồ sơ việc không lấy được lời khai của bị đơn. Sau đó Tòa án tự mình hoặc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết giấy triệu tập phiên tòa tại trụ sở Ủy ban nhân dân và tại nơi ở của bị đơn. Nếu bị đơn triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn không đến phiên tòa, thì Tòa án xét xử vụ án vắng mặt của họ theo quy định tại khoản 3 Điều 48 của Pháp lệnh.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
VI. VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO ĐIỀU 21 CỦA PHÁP LỆNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN DO ĐƯƠNG SỰ ỦY QUYỀN, NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO ĐƯƠNG SỰ

1. Những người sau đây không được làm người đại diện cho đương sự tại Điều 21 của Pháp lệnh:

a. Không có quốc tịch ở Việt Nam, không cư trú ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định trước đối với đương sự là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài;

b. Chưa đủ 18 tuổi;

c. Bị bệnh tâm thần.

Đương sự là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được thì phải có người đại diện tham gia tố tụng (khoản 3 Điều 21). Người có nhược điểm về thể chất trong các trường hợp này là người bị mù cả hai mắt, người bị điếc cả hai tai … người có nhược điểm về tâm thần là người bị bệnh tâm thần tới mức không thể tham gia tố tụng được.

2. Tòa án không chấp nhận những người thuộc một trong những trường hợp sau đây tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự ủy quyền, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự

a. Không có quốc tịch Việt Nam, không cư trú ở Việt Nam, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác đối với đương sự là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài.

b. Chưa đủ 18 tuổi;

c. Bị bệnh tâm thần;

d. Đã bị khởi tốt về hình sự hoặc bị kết án nhưng chưa được xóa án;

đ. Là cán bộ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát;

e. Là người giám định, người phiên dịch, người làm chứng trong vụ án;

f. Là người thân thích với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên đang tham gia giải quyết vụ án;

g. Chuyên viên tư vấn pháp luật của các Văn phòng dịch vụ pháp lý (theo hướng dẫn tại Thông tư số 1119 QLTPK ngày 24-12-1987 và Công văn số 870/CV/DVPL ngày 26-10-1988 của Bộ Tư pháp).

Cơ quan, tổ chức không được tham gia tố tụng với một tư cách là người đại diện do đương sự ủy quyền.

Một người chỉ có thể tham gia tố tụng với một tư cách hoặc là người đại diện do đương sự ủy quyền hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, chứ không được tham gia tố tụng cùng một lúc với hai tư cách vừa là người đại diện do đương sự ủy quyền vừa là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

3. Đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh có thể làm giấy ủy quyền cho Luật sư hoặc người thay mặt mình trong tố tụng. Đối với việc ly hôn, việc hủy kết hôn trái pháp luật, thì đương sự phải tự mình tham gia tố tụng, không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.

Đương sự có thể ủy quyền cho Luật sư hoặc người khác một phần hoặc toàn bộ các quyền của mình trong tố tụng. Người đại diện cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi được ủy quyền. Mặc dù đương sự đã ủy quyền cho người đại diện nhưng đương sự vẫn có quyền tự mình tham gia tố tụng. Tòa án cũng có quyền triệu tập đương sự đích thân tham gia tố tụng khi xét thấy cần thiết.

Theo quy định tại Điều 24 của Pháp lệnh thì đương sự có thể nhờ Luật sư, Bào chữa viên nhân dân hoặc người khác (kể cả người thân thích của đương sự) được Tòa án chấp nhận để bảo vệ quyền lợi của mình. Đương sự chọn người bảo vệ quyền lợi cho mình và đề nghị Tòa án chấp nhận, trong trường hợp này nếu Tòa án thấy người do đương sự đề nghị Tòa án chấp thuận làm người bảo vệ quyền lợi của đương sự mà thuộc một trong các trường hợp đã nêu ở điểm 2 phần VI này thì Tòa án không chấp nhận họ làm người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 15 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
15. Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định về người đại diện do đương sự uỷ quyền. Đề nghị hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề uỷ quyền, đặc biệt là bị đơn là dân sự uỷ quyền.

Theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì chỉ trừ việc ly hôn và huỷ kết hôn trái pháp luật, đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này có thể làm giấy uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng. Theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này thì đương sự là công dân, pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; do đó, việc bị đơn uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, thì cũng như nguyên đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan uỷ quyền. Việc Toà án không chấp nhận ai tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện do đương sự uỷ quyền thì đã được hướng dẫn cụ thể tại mục IV Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 296-297).

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 23 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
23. Về thủ tục xin tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, đương sự có thể uỷ quyền cho người khác thay mình yêu cầu Toà án giải quyết được không? Có đưa người mà nguyên đơn xin tuyên bố đã chết hoặc mất tích vào tham gia tố tụng với tư cách bị đơn không?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì chỉ trừ việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì đương sự không được uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình tham gia tố tụng; do đó, việc yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng.
Việc tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết là việc xác định một sự kiện pháp lý nên không thể coi người mà người có yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết là bị đơn.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 22 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
22. Đối với trường hợp tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, tuyên bố một bên mất năng lực hành vi dân sự... Viện kiểm sát nhân dân có bắt buộc phải tham gia phiên toà hay không? Nếu vắng mặt đại diện Viện kiểm sát thì Hội đồng xét xử có phải hoãn phiên toà hay không?
Theo tinh thần hướng dẫn tại khoản 5 Mục III Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì đối với việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết Toà án phải yêu cầu Viện kiểm sát tham gia phiên toà (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 293). Như vậy, đối với việc tuyên bố mất tích, tuyên bố một người là đã chết hoặc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, thì Toà án phải yêu cầu Viện kiểm sát tham gia phiên toà và về nguyên tắc thì Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà; do đó, nếu vắng mặt đại diện Viện kiểm sát thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà; Tuy nhiên, trong trường hợp Viện kiểm sát đã nhận được yêu cầu của Toà án về việc tham gia phiên toà, nhưng có thông báo cho Toà án biết việc Viện kiểm sát không tham gia phiên toà trong vụ án cụ thể đó, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1, 3, 6, 7 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:

1. Khi Viện kiểm sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm cung cấp các tài liệu cần thiết đối với việc giải quyết vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án. Viện kiểm sát khởi tố vụ án không phải nộp tiền tạm ứng án phí và không phải chịu án phí, nhưng các đương sự khác vẫn phải chịu án phí theo quy định chung.
...
3. Đối với những vụ án do Viện kiểm sát khởi tố, nếu sau khi Tòa án đã thụ lý mà thấy vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo lãnh thổ, thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã khởi tố vụ án để Viện kiểm sát quyết định khởi tố lại theo đúng thẩm quyền của Tòa án.
...
6. Mọi tài liệu có trong hồ sơ vụ án được đánh số thứ tự và có bản kê danh mục các tài liệu. Trước khi chuyển hồ sơ vụ án từ Tòa án sang Viện kiểm sát hoặc ngược lại, cần kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ án. Người nhận hồ sơ vụ án phải đối chiếu bản kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ vụ án.
7. Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và chuyển trả hồ sơ vụ án cho Tòa án chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

Đối với hồ sơ vụ án có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, thì thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án là ba tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Viện kiểm sát chuyển trả hồ sơ vụ án cho Tòa án chậm nhất là ba tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp, nếu Viện kiểm sát cần điều tra bổ sung, thì thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm là một tháng, theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là bốn tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 4, Điều 10 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
4. Đối với các vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 28 và các vụ án mà Viện kiểm sát có yêu cầu tham gia phiên tòa sơ thẩm, thì ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án gửi cho Viện kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa. Hồ sơ vụ án cũng có thể được chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
...
10. Viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với những vụ án quy định tại khoản 2 Điều 28, khoản 1 Điều 67 Pháp lệnh hoặc những việc khác mà Viện kiểm sát thấy cần tham gia phiên tòa. Viện kiểm sát cần thông báo họ, tên kiểm sát viên sẽ tham gia phiên tòa để Tòa án thông báo cho những người tham gia tố tụng khác biết. Nếu sau đó Viện kiểm sát thay đổi kiểm sát viên thì cần thông báo việc thay đổi này cho Tòa án biết.
Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa nếu vắng mặt kiểm sát viên trong các trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc kiểm sát viên bị thay đổi mà không có kiểm sát viên thay thế ngay.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 2 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
2. Trong trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, nếu thấy cần thiết thì Tòa án có thể tiến hành điều tra để thu nhập thêm chứng cứ. Tòa án có thể trao đổi với Viện kiểm sát để Viện kiểm sát cung cấp thêm tài liệu hoặc rút quyết định khởi tố. Nếu Viện kiểm sát không nhất trí với ý kiến của Tòa án thì tùy trường hợp Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Chương 1 và Chương 2 Nghị định 117-CP năm 1994 (VB hết hiệu lực: 27/06/1997)

Căn cứ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29 tháng 11 năm 1989;
...
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1.
...
Điều 2.
...
Chương 2: ÁN PHÍ DÂN SỰ

Điều 3. Án phí dân sự bao gồm án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm đồng thời chung thẩm, án phí dân sự phúc thẩm.

Điều 4. Mức án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm đồng thời chung thẩm đối với các vụ án dân sự không có giá ngạch là 50.000 đồng.
...
Điều 5. Mức án phí dân sự phúc thẩm đối với tất cả các loại vụ án dân sự là 50.000 đồng.

Điều 6. Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí dân sự được quy định như sau:
...
Điều 7. Trong các trường hợp dưới đây, tiền tạm ứng án phí đã nộp được xử lý như sau:
...
Điều 8. Việc chịu án phí dân sự sơ thẩm được quy định như sau:
...
Điều 9. Việc chịu án phí dân sự phúc thẩm được quy định như sau:
...
Điều 10.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Khoản 9 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
9. Vấn đề định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Theo tinh thần quy định tại Điều 172 và Phần thứ năm của Bộ luật dân sự, thì quyền sử dụng đất cũng là tài sản; do đó, việc định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất về nguyên tắc chung cũng được thực hiện như việc định giá, tính tiền tạm ứng án phí, án phí dân sự sơ thẩm đối với việc giải quyết các tranh chấp tài sản khác. Vấn đề lập Hội đồng định giá đã được hướng dẫn trong Kết luận của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1995; cụ thể là:
"Khi cần định giá tài sản có tranh chấp, Toà án chủ động triệu tập Hội đồng định giá, nhưng đại diện của Toà án, Viện kiểm sát tham dự cuộc họp của Hội đồng định giá là với vai trò giám sát, chứ không phải là thành viên của Hội đồng định giá, không tham gia biểu quyết về giá. Việc biêủ quyết về giá cả tài sản tranh chấp hoàn toàn thuộc quyền các thành viên của Hội đồng định giá bao gồm đại diện cơ quan tài chính, vật giá, các cơ quan chức năng khác và bắt buộc phải có mặt các bên đương sự. Các đương sự có quyền phát biểu về ý kiến việc định giá nêu ra nhưng quyền quyết định cuối cùng về giá là thuộc Hội đồng định giá. Các đương sự phải chịu chi phí cho việc định giá tương ứng với phần tài sản được phân chia" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1996; trang 399-400).
Tuy nhiên, cần chú ý rằng quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt, cho nên việc đinh giá quyền sử dụng đất không phải theo giá thị trường như đối với các loại tài sản khác mà phải thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước (cụ thể là phải thực hiện theo đúng Nghị định số 87/CP ngày 17-8-1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất và Nghị định số 17/1998/NĐ-CP ngày 21-3-1998 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 4 của Nghị định số 87/CP ngày 17-8-1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất).
Việc tính tiền tạm ứng án phí: Khi có đơn khởi kiện về tranh chấp quyền sử dụng đất, Toà án căn cứ vào các quy định trong các Nghị định trên đây của Chính phủ (có thể tham khảo thêm ý kiến của cơ quan tài chính vật giá và các cơ quan chức năng khác) để tạm xác định giá quyền sử dụng đất có tranh chấp và trên cơ sở đó tính tiền tạm ứng án phí.
Về án phí: Tuỳ thuộc vào kết quả xét xử mà Toà án buộc người phải chịu án phí và số tiền án phí tính theo giá quyền sử dụng đất mà Hội đồng định giá đã quyết định.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục VII Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
VII. VỀ ÁN PHÍ

1. Hiện nay, trong khi chưa có những quyết định mới về chế độ án phí, Tòa án vẫn thực hiện theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về cách tính án phí tại Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 và về mức thu án phí đã được sửa đổi tại Thông tư số 02/NCPL ngày 28-4-1989.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Chương 1 và Chương 3 Nghị định 70-CP năm 1997

Căn cứ vào Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29 tháng 11 năm 1989;
...
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1.-
...
Điều 2.-
...
Chương 3: ÁN PHÍ DÂN SỰ

Điều 6.- án phí dân sự bao gồm án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm đồng thời chung thẩm, án phí dân sự phúc thẩm.

Điều 7.-
...
Điều 8.- Mức án phí dân sự phúc thẩm đối với tất cả các loại vụ án dân sự là 50.000 đồng.

Điều 9.- Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí dân sự được quy định như sau:
...
Điều 10.- Trong các trường hợp dưới đây, tiền tạm ứng án phí đã nộp được xử lý như sau:
...
Điều 11.- Việc chịu án phí dân sự sơ thẩm được quy định như sau:
...
Điều 12.- Việc chịu án phí dân sự phúc thẩm được quy định như sau:
...
Điều 13.-

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 2 Mục VII Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
VII. VỀ ÁN PHÍ
...
2. Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, cho nên sau khi nhận đơn khởi kiện của đương sự, Tòa án phải giải thích cho họ biết về chế độ án phí, về việc phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án mới thụ lý để giải quyết, giải thích ngay cho tất cả các đương sự biết tất cả việc nếu họ có kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm và hậu quả của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 1, 2 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
1. Khoản 3 Điều 31 Pháp lệnh quy định là "Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải, các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc chịu án phí. Nếu họ không thoả thuận được thì Toà án quyết định mức án phí và người phải chịu án phí", nhưng khoản 4 Điều này lại quy định là "nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, Điều 46 Pháp lệnh này thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước". Vậy quyết định án phí trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc hoà giải thành được thì giải quyết như thế nào?
Án phí là vấn đề khá phức tạp nên sẽ được quy định cụ thể ở một văn bản riêng như Điều 30 Pháp lệnh đã quy định là "Hội đồng Bộ trưởng phối hợp với Toà án nhân dân tối cao quy định chế độ án phí". Trong Pháp lệnh chỉ mới quy định một số nguyên tắc về án phí. Thí dụ: khoản 4 Điều 31 chỉ nêu nguyên tắc là "nếu việc giải quyết vụ án bị đình chỉ thì số tiền tạm ứng án phí được sung vào quỹ Nhà nước", nhưng chưa xác định rõ về mặt định lượng là sung một phần hay toàn bộ số tiền tạm ứng án phí, và cũng chưa giải quyết trường hợp nếu đương sự chưa nộp một phần hoặc toàn bộ số tiền tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 32 Pháp lệnh thì giải quyết vấn đề án phí như thế nào nếu họ không được miễn án phí... Vì vậy, việc áp dụng các quy định của Pháp lệnh cần được đặt trong mối liên hệ với các quy định và hướng dẫn có liên quan. Hiện nay, trong khi chưa có những quy định mới về chế độ án phí thì các Toà án vẫn thực hiện theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao về cách tính án phí tại Thông tư số 85/TATC ngày 6-8-1982 và về mức thu án phí đã được sửa đổi tại Thông tư số 02/NCPL ngày 28-2-1989.
2. Trong trường hợp người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án thông báo hợp lệ việc phải nộp số tiền đó thì Toà án cấp sơ thẩm có phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm không? Nếu đương sự nộp đơn kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì giải quyết như thế nào?
Để thực hiện các quy định tại các Điều 31, 59, 66 của Pháp lệnh, các Toà án cần chú ý là:
Nếu người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án cấp sơ thẩm thông báo hợp lệ số tiền phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả của việc không nộp, thì coi như đương sự không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc thông báo đó.
Nếu đương sự kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra đầy đủ lý do của việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn và gửi báo cáo kèm theo hồ sơ vụ án lên Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 29 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
29. Trường hợp người khởi kiện không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí mà không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết, thì có được coi là sai lầm nghiêm trọng để huỷ án không?
Theo tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì về nguyên tắc nếu người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án không thụ lý vụ án. Tuy nhiên trường hợp người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết thì từ trước tới nay không coi là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng để Toà án cấp phúc thẩm huỷ án của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, để thực hiện đúng quy định tại Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì từ nay về sau các Toà án cần chú ý là trong trường hợp nguyên đơn không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án chỉ thụ lý vụ án để giải quyết khi nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu họ không nộp tiền tạm ứng án phí mà Toà án vẫn thụ lý để giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 3, 4 Mục VII Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
VII. VỀ ÁN PHÍ
...
3. Người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn kháng cáo (trừ trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm), mặc dù đã được Tòa án giải thích, nhắc nhở thì coi như không kháng cáo và Tòa án cấp sơ thẩm không phải gửi hồ sơ lên cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc giải thích, nhắc nhở đó.
4. Mọi trường hợp kháng cáo không đúng hạn, kháng cáo đúng hạn nhưng không nộp tiền tạm ứng án phí, kháng cáo đúng hạn nhưng nộp tiền tạm ứng án phí sau khi hết hạn kháng cáo, đều coi là kháng cáo quá hạn. Trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm không phải gửi đơn lên Tòa án cấp phúc thẩm hồ sơ vụ án, mà chỉ gửi đơn kháng cáo có kèm theo bản sao bản án sơ thẩm và tài liệu xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm và tài liệu xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm về lý do kháng cáo không đúng hạn, không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn và thời hạn vượt quá 15 ngày kể từ ngày nhận được tài liệu này, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét việc kháng cáo quá hạn đó. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn thì Tòa án sơ thẩm phải gửi ngay hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết theo thủ tục cấp phúc thẩm. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo quá hạn, thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, các đương sự có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án đó theo thủ tục giám đốc thẩm.

Điều 32 của Pháp lệnh không quy định là người lao động khiếu nại về bị buộc thôi việc được miễn án phí; do đó, họ cũng phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh. Mức án phí đối với loại vụ án này là mức án phí đối với loại vụ án dân sự không có giá ngạch.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 29 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
29. Trường hợp người khởi kiện không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí mà không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết, thì có được coi là sai lầm nghiêm trọng để huỷ án không?
Theo tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì về nguyên tắc nếu người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí thì Toà án không thụ lý vụ án. Tuy nhiên trường hợp người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý và giải quyết thì từ trước tới nay không coi là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng để Toà án cấp phúc thẩm huỷ án của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, để thực hiện đúng quy định tại Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì từ nay về sau các Toà án cần chú ý là trong trường hợp nguyên đơn không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án chỉ thụ lý vụ án để giải quyết khi nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu họ không nộp tiền tạm ứng án phí mà Toà án vẫn thụ lý để giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 3 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
3. Khi quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời bị khiếu nại hay kiến nghị theo quy định tại khoản 3 Điều 42 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời bằng hình thức ra quyết định hay công văn trả lời?
Qua xem xét nếu thấy cần thiết phải sửa đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được thẩm phán quyết định thì Chánh án Toà án ra quyết định; còn nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được thẩm phán quyết định là đúng, thì Chánh án Toà án chỉ cần có công văn trả lời. Quyết định hoặc công văn trả lời của Chánh án Toà án giải quyết việc khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được gửi cho các đương sự có liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 21 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
21. Đối với việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì có được hoà giải không?
Vấn đề này cần phân biệt như sau:
- Nếu việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà thiệt hại ngoài hợp đồng là thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 43 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án không tiến hành hoà giải.
- Đối với việc đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác, theo tinh thần quy định tại Điều 13 Bộ luật dân sự thì gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật không phải là giao dịch dân sự; do đó, không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 43 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và vì vậy Toà án tiến hành hoà giải theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

Xem nội dung VB
- Thủ tục hòa giải áp dụng cho cả trường hợp giải quyết việc thuận tình ly hôn và được hướng dẫn bởi Điểm 4 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
4. Thủ tục giải quyết việc thuận tình ly hôn như thế nào?
Thủ tục hoà giải quy định tại Điều 44 Pháp lệnh được áp dụng cho cả trường hợp giải quyết việc thuận tình ly hôn. Cụ thể là: theo quy định tại Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình thì hoà giải là một thủ tục bắt buộc khi cả hai vợ chồng có đơn xin thuận tình ly hôn. Do đó, nếu Toà án đã hoà giải đoàn tụ nhưng hai bên đương sự vẫn kiên quyết xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, sau đó lập biên bản thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn và gửi ngay bản sao biên bản này cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn mà có đương sự thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát phản đối việc thuận tình ly hôn đó, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử; nếu trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về việc thuận tình ly hôn và quyết định này có hiệu lực pháp luật.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 31 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
31. Việc ra quyết định công nhận hoà giải thành trước khi mở phiên toà phúc thẩm được thực hiện như thế nào?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại khoản 5 Phần II Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; cụ thể là: "Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án cũng tiến hành hoà giải và nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải thành. Việc ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm 2, 3, 4 của phần này.
Trong trường hợp tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Hội đồng xét xử ra ngay quyết định công nhận sự thoả thuận đó". Các điểm 2, 3, 4 của phần II Nghị quyết nói trên là hướng dẫn về việc hoà giải, ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 292 - 293).
Như vậy, trường hợp hoà giải thành trước khi mở phiên toà phúc thẩm, thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải thành, trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những điều mà các đương sự đã thoả thuận. Bản sao biên bản này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung; Nếu hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối, thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay.

Xem nội dung VB
- Người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án được hướng dẫn bởi Điểm 5 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
5. Điều 45 Pháp lệnh quy định là: "Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án..." vậy ai là người có thẩm quyền ra quyết định đó và nếu quyết định đó bị khiếu nại thì giải quyết như thế nào?
Điều 45 Pháp lệnh đã quy định cụ thể các trường hợp Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, do đó, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên toà; còn tại phiên toà thì hội đồng xét xử ra quyết định đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Pháp lệnh thì quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm sẽ xét kháng cáo, kháng nghị, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm theo thủ tục quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh. Còn quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp phúc thẩm cũng như các quyết định khác của Toà án cấp phúc thẩm đều là chung thẩm có hiệu lực thi hành; nếu có khiếu nại hoặc kháng nghị sẽ được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm.
Khi giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án cần lưu ý như sau: vì việc tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là việc chấm dứt việc giải quyết vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án lại tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án, cho nên ngay sau khi nhận được kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ, Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ cần kiểm tra lại việc tạm đình chỉ của mình để: nếu cho rằng việc tạm đình chỉ là đúng thì chuyển ngay hồ sơ vụ án lên Toà án cấp trên để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm; còn nếu thấy việc tạm đình chỉ là không đúng hoặc lý do của việc tạm đình chỉ đã hết, thì cần tiến hành ngay việc tiếp tục giải quyết vụ án và báo cho người đã kháng cáo, cho Viện kiểm sát đã kháng nghị biết để rút kháng cáo, kháng nghị nhằm khỏi phải giải quyết việc xem xét kháng cáo, kháng nghị ở Toà án cấp trên theo thủ tục phúc thẩm một cách không cần thiết.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Mục VIII Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
VIII. VỀ VIỆC TẠM ĐÌNH CHỈ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

Khi áp dụng điểm c khoản 1 Điều 45 cần chú ý như sau:

1. Nếu bị đơn cố ý giấu địa chỉ, cố ý lẩn tránh không đến Tòa án, nhưng trước đó Tòa án đã lấy lời khai của họ, đã thu thập được chứng cứ đầy đủ, thì Tòa án có quyền xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 48 của Pháp lệnh.

2. “Không tìm được địa chỉ của bị đơn” được hiểu là sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án, thì bị đơn không có mặt tại địa chỉ do nguyên đơn cung cấp và không ai biết địa chỉ của bị đơn. Trong trường hợp này Tòa án yêu cầu nguyên đơn tìm địa chỉ của bị đơn. Tòa án cũng có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để xác định địa chỉ của bị đơn. Nếu không tìm thấy địa chỉ của bị đơn thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Khi lý do của việc quyết định tạm đình chỉ không còn nữa thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án hoặc nếu có căn cứ theo quy định tại Điều 46 của Pháp lệnh thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.

3. Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán có quyền ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, còn tại phiên tòa Hội đồng xét xử ra quyết định đó.

4. Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 của Pháp lệnh thì quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xét kháng cáo, kháng nghị tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa cấp sơ thẩm theo thủ tục quy định tại Điều 66 và Điều 70 của Pháp lệnh. Còn quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm cũng như các quyết định khác của Tòa án cấp phúc thẩm đều là chung thẩm, có hiệu lực thi hành, nếu có kháng nghị thì giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm nếu có khiếu nại thì giải quyết theo thủ tục giải quyết đơn khiếu nại.

Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án không phải là việc chấm dứt vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án, cho nên sau khi nhận được đơn kháng cáo, kháng nghị khiếu nại đối với quyết định tạm đình chỉ, Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ cần kiểm tra lại việc tạm đình chỉ của mình nếu thấy việc tạm đình chỉ là đúng thì chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án cấp trên để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, còn nếu thấy việc tạm đình chỉ là không đúng hoặc lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa, thì cần tiến hành ngay việc tiếp tục giải quyết vụ án và báo cho người đã kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại nhằm khỏi giải quyết việc xem xét kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại ở Tòa án trên theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm một cách không cần thiết, mà không phải gửi hồ sơ lên Tòa án cấp trên giải quyết theo trình tự phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 25 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
25. Trong trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án, sau đó một thời gian mà lý do tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án tiếp tục giải quyết. Vậy có nên xoá sổ để thụ lý như vụ án mới không? Người đang giải quyết vụ án mà ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì có được tiếp tục tiến hành tố tụng nữa không?
Theo hướng dẫn tại khoản 4 mục VIII Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thì: "Tạm đình chỉ giải quyết vụ án không phải là chấm dứt việc giải quyết vụ án và sau khi có quyết định tạm đình chỉ nếu thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa thì Toà án lại tiếp tục giải quyết vụ án" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 298); do đó, trong trường hợp ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, thì Toà án không xoá sổ thụ lý vụ án và tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa. Do vụ án chưa được giải quyết xong, vì vậy người đang giải quyết vụ án mà ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án vẫn được tiếp tục tiến hành tố tụng.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục IX Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
IX. VỀ ĐÌNH CHỈ VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

1. Sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án, cho đến trước khi mở phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Viện Kiểm sát rút quyết định khởi tố, thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của Pháp lệnh. Nếu tại phiên tòa sơ thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Kiểm sát viên rút quyết định khởi tố vụ án, thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Pháp lệnh.

Việc đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Viện Kiểm sát rút quyết định khởi tố ở cấp phúc thẩm cũng áp dụng theo cách hướng dẫn trên đây.

2. Nếu đã quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với các trường hợp quy định tại khoản 1, 4 của Điều 46 của Pháp lệnh thì đương sự không có quyền khởi kiện lại nữa. Nếu Tòa án đã đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do là đương sự đã tự hòa giải (nghĩa là đã tự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án), người khởi kiện rút đơn khởi kiện, Viện Kiểm sát rút quyết định khởi tố vụ án trong trường hợp không có nguyên đơn (thí dụ: hủy việc kết hôn trái pháp luật) hoặc nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ án (khoản 2 Điều 46), nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng (khoản 3 Điều 46), thì sau đó đương sự có thể khởi kiện lại, nhưng họ phải nộp tiền tạm ứng phí như mới khởi kiện lần đầu.

Xem nội dung VB
- Điểm này được hướng dẫn bởi Khoản 27 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
27. Việc không ra "quyết định đưa vụ án ra xét xử" trước khi mở phiên toà phúc thẩm có trái với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 47 và Điều 68 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không?
Việc không ra "quyết định đưa vụ án ra xét xử" trước khi mở phiên toà phúc thẩm không trái với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Quy định tại điểm d khoản 1 Điều 47 là chỉ áp dụng đối với việc giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm.
Điều 68 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Phiên toà phúc thẩm được tiến hành tương tự phiên toà sơ thẩm, nhưng trước khi xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị, một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị". Theo tinh thần quy định tại điều luật này thì không nên hiểu một cách máy móc rằng trong phiên toà phúc thẩm chủ toạ phiên toà cũng phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thực tiễn xét xử của Toà án cấp phúc thẩm từ trước đến nay cho thấy Toà án cấp phúc thẩm không phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trước khi mở phiên toà phúc thẩm và điều này cũng không vi phạm thủ tục tố tụng.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 9 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
9. Trong trường hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ, về hướng giải quyết vụ án, thì trước khi đưa vụ án ra xét xử cần có sự trao đổi trước giữa kiểm sát viên tham gia phiên tòa và thẩm phán được phân công xét xử vụ án và khi cần thiết thì có thể báo cáo với lãnh đạo hai ngành để giải quyết. Nếu sau khi trao đổi ý kiến mà vẫn chưa có sự nhất trí thì từng ngành vẫn tiến hành công việc theo thẩm quyền của mình.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 20 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
20. Việc ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định theo Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trong trường hợp các thành viên của Hội đồng xét xử đã về hưu hoặc đã chuyển địa bàn công tác thì thẩm quyền, thành phần được quyền sửa chữa, bổ sung như thế nào?
Trong trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu vì tính toán sai thì cho phép Toà án được sửa chữa, bổ sung. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự không quy định việc sửa chữa, bổ sung bản án phải do Thẩm phán - chủ toạ phiên toà hay Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử đã xét xử vụ án; do đó, trong trường hợp các thành viên của Hội đồng xét xử đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển địa bàn công tác hoặc vì lý do khác mà không còn là Thẩm phán của Toà án đã xét xử vụ án đó, thì có thể do Chánh toà hoặc Phó Chánh toà; Chánh án hoặc Phó Chánh án Toà án nhân dân đó sửa chữa, bổ sung phần sai sót trong bản án, quyết định đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục XI Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
XI. VỀ VIỆC TRÍCH LỤC BẢN ÁN HOẶC QUYẾT ĐỊNH, BẢN SAO BẢN ÁN HOẶC QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Ngay sau phiên tòa, Tòa án cấp cho đương sự, tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp cho họ bản sao bản án hoặc quyết định về vụ án theo yêu cầu của họ. Mục đích của việc cấp trích lục bản án hoặc quyết định là để cho đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có thể sử dụng khi kháng cáo theo quy định tại Điều 58 của Pháp lệnh. Trong thực tế có một số đương sự lợi dụng việc Tòa án cấp cho họ bản trích lục bản án hoặc quyết định để làm những việc trái pháp luật (thí dụ: trong trường hợp Tòa án xử lý cho ly hôn sau khi đã được cấp trích lục bản án, một bên đương sự đã sử dụng bản trích lục đó để đi đăng ký kết hôn ngay với người khác, mặc dù bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật), vì vậy, khi cấp trích lục bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải ghi rõ trong bản án trích lục đó là bản án hoặc quyết định “chưa có hiệu lực thi hành”.

Trong trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án cấp cho họ bản sao bản án, quyết định về vụ án thì người được cấp phải chịu lệ phí về việc cấp giấy tờ.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 5 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
5. Trong những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát cùng cấp thấy cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc Viện kiểm sát cấp trên thấy cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thì Viện kiểm sát có công văn yêu cầu Tòa án chuyển cho Viện kiểm sát mượn hồ sơ vụ án. Tòa án chuyển cho Viện kiểm sát mượn hồ sơ vụ án chậm nhất là hai mươi ngày kể từ ngày nhận được công văn yêu cầu.

Nếu Viện kiểm sát cấp trên mượn hồ sơ vụ án thì Tòa án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát cùng cấp chuyển cho Viện kiểm sát cấp trên.

Trong thời hạn ba tháng kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuyển trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án, nếu không có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
...

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 19 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
18. Bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau 15 ngày nếu không có kháng cáo, kháng nghị (trong trường hợp đại diện Viện kiểm sát có mặt tại phiên toà) hay phải sau 30 ngày khi Viện kiểm sát trên một cấp không kháng nghị?
Pháp luật tố tụng chưa có quy định và cũng chưa có văn bản nào của các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về thời điểm hiệu lực của bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm, nếu không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Căn cứ vào thực tiễn công tác giám đốc thẩm trong thời gian qua và để áp dụng thống nhất chung, thì bản án dân sự, quyết định dân sự của Toà án cấp sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
2. Trong trường hợp người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án thông báo hợp lệ việc phải nộp số tiền đó thì Toà án cấp sơ thẩm có phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm không? Nếu đương sự nộp đơn kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì giải quyết như thế nào?
Để thực hiện các quy định tại các Điều 31, 59, 66 của Pháp lệnh, các Toà án cần chú ý là:
Nếu người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án cấp sơ thẩm thông báo hợp lệ số tiền phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả của việc không nộp, thì coi như đương sự không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc thông báo đó.
Nếu đương sự kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra đầy đủ lý do của việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn và gửi báo cáo kèm theo hồ sơ vụ án lên Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 30 Mục IV Công văn 16/1999/KHXX

Trong thời gian chuẩn bị cho Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998, nhiều Toà án Nhân dân và Toà án quân sự các cấp đã có công văn gửi đến Toà án nhân dân tối cao đề nghị được giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án năm 1998.
Sau đây là giải đáp của Toà án nhân dân tối cao về các vấn đề đó; cụ thể là:

IV- VỀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
...
30. Việc ra quyết định chấp nhận rút đơn kháng cáo trước phiên toà phúc thẩm phải do một Hội đồng hay một Thẩm phán? Nếu phải do một Hội đồng thì cần có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân không? Có phải ghi bút ký không?
Vấn đề này đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 3/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự"; cụ thể là: "Về rút đơn kháng cáo, rút kháng nghị khi áp dụng Điều 60 cần chú ý như sau:
1- Thẩm phán Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị trước khi mở phiên toà phúc thẩm.
2- Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm" (Xem cuốn Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng; năm 1992; trang 299).

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục X Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990

Nghị quyết 03/HĐTP năm 1990 hướng dẫn áp dụng Quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (trích) do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành
...
X. VỀ VIỆC RÚT ĐƠN KHÁNG CÁO, RÚT KHÁNG NGHỊ

Khi áp dụng Điều 60 cần chú ý như sau:

1. Thẩm phán Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phúc thẩm.

2. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định việc rút kháng cáo, rút kháng nghị tại phiên tòa phúc thẩm.

Trong trường hợp thấy việc xét xử sơ thẩm có sai lầm thì ngay sau khi quyết định chấp nhận việc rút kháng cáo, rút kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải thông báo ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm đó để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm xét kháng cáo, kháng nghị bằng Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán. Nếu xét thấy việc kháng cáo, kháng nghị quá hạn là có lý do chính đáng thì hội đồng xét xử ra quyết định chấp nhận việc kháng cáo, kháng nghị quá hạn đó. Sau khi có quyết định này, nếu đương sự rút kháng cáo hoặc Viện Kiểm sát rút kháng nghị, thì Tòa án vẫn chấp nhận việc rút đó.

Đương sự chấp nhận việc rút kháng cáo (kể cả kháng cáo quá hạn đã được chấp nhận) vẫn phải nộp tiền án phí phúc thẩm.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 2, 6 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
2. Trong trường hợp người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án thông báo hợp lệ việc phải nộp số tiền đó thì Toà án cấp sơ thẩm có phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm không? Nếu đương sự nộp đơn kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì giải quyết như thế nào?
Để thực hiện các quy định tại các Điều 31, 59, 66 của Pháp lệnh, các Toà án cần chú ý là:
Nếu người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, mặc dù đã được Toà án cấp sơ thẩm thông báo hợp lệ số tiền phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả của việc không nộp, thì coi như đương sự không kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm không phải chuyển hồ sơ lên Toà án cấp phúc thẩm, nhưng trong hồ sơ phải phản ánh rõ việc thông báo đó.
Nếu đương sự kháng cáo trong thời hạn, nhưng nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm cần điều tra đầy đủ lý do của việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm quá hạn và gửi báo cáo kèm theo hồ sơ vụ án lên Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm xét việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng cáo quá hạn
...
6. Đối với các quyết định công nhận việc hoà giải thành trước khi Pháp lệnh có hiệu lực thi hành mà có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có áp dụng thủ tục mới quy định tại các Điều 66, 70 của Pháp lệnh để giải quyết hay không?
Đối với các quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, công nhận việc thuận tình ly hôn trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không áp dụng thủ tục không mở phiên tòa theo quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh, mà vẫn phải mở phiên toà xét xử theo thủ tục đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trước khi có Pháp lệnh này.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điều 10 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
10. Viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với những vụ án quy định tại khoản 2 Điều 28, khoản 1 Điều 67 Pháp lệnh hoặc những việc khác mà Viện kiểm sát thấy cần tham gia phiên tòa. Viện kiểm sát cần thông báo họ, tên kiểm sát viên sẽ tham gia phiên tòa để Tòa án thông báo cho những người tham gia tố tụng khác biết. Nếu sau đó Viện kiểm sát thay đổi kiểm sát viên thì cần thông báo việc thay đổi này cho Tòa án biết.

Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa nếu vắng mặt kiểm sát viên trong các trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc kiểm sát viên bị thay đổi mà không có kiểm sát viên thay thế ngay.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 6 Công văn 101/NCPL năm 1990

Một số Toà án đã hỏi Toà án nhân dân tối cao một số vấn đề về Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:
...
6. Đối với các quyết định công nhận việc hoà giải thành trước khi Pháp lệnh có hiệu lực thi hành mà có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm có áp dụng thủ tục mới quy định tại các Điều 66, 70 của Pháp lệnh để giải quyết hay không?
Đối với các quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, công nhận việc thuận tình ly hôn trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không áp dụng thủ tục không mở phiên tòa theo quy định tại các Điều 66, 70 Pháp lệnh, mà vẫn phải mở phiên toà xét xử theo thủ tục đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trước khi có Pháp lệnh này.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Điều 13 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
13. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 1-1-1990 chỉ được tiến hành trước ngày 1-1-1993, trừ trường hợp kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 12 Thông tư liên ngành 09/TTLN năm 1990

Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
12. Theo quy định tại Điều 87 thì Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1990. Do đó, kể từ ngày 1-1-1990 trong việc giải quyết và việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự thụ lý trước ngày 1-1-1990 nhưng chưa được giải quyết xong đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh này.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.