Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989
Số hiệu: 23-LCT/HĐNN8 Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Hội đồng Nhà nước Người ký: Võ Chí Công
Ngày ban hành: 28/08/1989 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 15/03/1990 Số công báo: Số 5
Lĩnh vực: Thi hành án, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 23-LCT/HĐNN8

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 1989

 

PHÁP LỆNH

CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC SỐ 23-LCT/HĐNN8 NGÀY 28/08/1989 VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định về dân sự của Toà án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ vào Điều 100 và Điều 137 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định việc thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Toà án.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1: Những bản án, quyết định về dân sự của Toà án.

Những bản án, quyết định về dân sự của Toà án nói trong Pháp lệnh này bao gồm những bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, các quyết định về tài sản trong các bản án hình sự, các bản án và quyết định khác do pháp luật quy định.

Điều 2: Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án.

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng.

Điều 3: Những bản án, quyết định được thi hành.

Những bản án, quyết định được thi hành theo Pháp lệnh này bao gồm:

1- Những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật:

a) Bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm;

b) Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

c) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

d) Quyết định của Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;

đ) Bản án, quyết định của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận.

2- Những bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay:

a) Bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của công dân mà Toà án cho thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị;

b) Quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự hoặc bảo đảm cho việc xét sử và thi hành án.

Điều 4: Thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

1- Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án hoặc uỷ thác cho Chánh án Toà án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định thi hành.

Đối với bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định thi hành. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh có thể uỷ thác cho Chánh án Toà án nhân dân cấp dưới nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định thi hành.

2- Chánh án Toà án quân sự có thể uỷ thác cho Chánh án Toà án nhân dân nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án, ra quyết định thi hành đối với dân thường bị xét xử tại Toà án quân sự hoặc đối với người phải thi hành án là cán bộ, chiến sĩ Lực lượng an ninh nhân dân hoặc Quân đội nhân dân bị toà án quân sự xét xử mà không còn ở trong lực lượng vũ trang nhân dân.

3- Toà án nhận uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện uỷ thác và thông báo kết quả thi hành án cho Toà án đã uỷ thác.

Điều 5: Biện pháp thi hành án.

Khi bản án, quyết định của toà án được đưa ra thi hành thì người phải thi hành án có nghĩa vụ tự nguyện thi hành; nếu không tự nguyện thi hành thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành.

Điều 6: Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân trong việc thi hành án.

1- Chính quyền địa phương các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Toà án nhân dân trong việc tổ chức thi hành án.

2- Lực lượng Cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của Chánh án Toà án nhân dân hoặc của chấp hành viên.

3- Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hữu quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và công dân có trách nhiệm giúp đỡ, thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc thi hành án.

Điều 7 :Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án.

Người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 8: Kiểm sát việc thi hành án.

Việc kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, Toà án, cơ quan Nhà nước khác, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án, nhằm bảo đảm các bản án, quyết định của Toà án được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời theo quy định tại các điều 15, 16 và 17 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Chương 2:

CHẤP HÀNH VIÊN

Điều 9: Chấp hành viên.

Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này.

Điều 10: Nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên.

Chấp hành viên có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1- Triệu tập đương sự, người có liên quan đến trụ sở Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án;

2- Định cho người phải thi hành án thời hạn không quá một tháng để tự nguyện thi hành;

3- áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Pháp lệnh này;

4- Yêu cầu chính quyền địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp xử lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc thi hành án;

5- Đề nghị Chánh án Toà án nơi chấp hành viên công tác ra quyết định hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án hoặc phạt tiền người cố tình không thi hành án;

6- Yêu cầu Toà án đã ra bản án hoặc quyết định giải thích những điểm chưa rõ để thi hành;

7- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc khởi tổ vụ án hình sự đối với người vi phạm.

Chấp hành viên phải thi hành bản án, quyết định của Toà án đúng pháp luật và chịu trách nhiệm về hành vi trái pháp luật của mình.

Điều 11: Bổ nhiệm, miễn nhiệm chấp hành viên.

Người có phẩm chất chính trị, trung thực, khách quan, có kiến thức pháp lý cần thiết và nắm vững nghiệp vụ thi hành án, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ tư pháp quyết định, theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân địa phương.

Điều 12: Chế độ đối với chấp hành viên.

Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ chấp hành viên để sử dụng khi làm nhiệm vụ và được hưởng thang bậc lương riêng theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.

Chương 3:

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN

Điều 13: Căn cứ để thi hành án.

Khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành thì Toà án đã tuyên bản án hoặc ra quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản trích lục bản án hoặc quyết định có ghi: "để thi hành".

Điều 14: Quyền yêu cầu thi hành án.

Người được thi hành án căn cứ vào bản trích lục bản án, quyết định có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành.

Nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sở thẩm đồng thời là chung thẩm vụ án để yêu cầu thi hành án, Bản trích lục bản án, quyết định của Toà án phải được gửi kèm theo đơn yêu cầu thi hành án.

Điều 15: Chánh án Toà án chủ động ra quyết định thi hành án.

Những bản án, quyết định được Chánh án Toà án chủ động ra quyết định thi hành bao gồm:

1- Bản án, quyết định nói tại khoản 2 Điều 3 của Pháp lệnh này;

2- Bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí.

Điều 16: Thời hiệu thi hành án.

1- Trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án là công dân có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời là chung thẩm vụ án để yêu cầu thi hành án. Trong thời hạn đó, nếu người được thi hành án không yêu cầu thi hành thì bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành.

Thời hạn được tình theo ngày Toà án nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến Toà án hoặc tính theo ngày gửi ghi trên dấu bưu điện, nếu đơn gửi qua bưu điện.

Trong trường hợp đơn yêu cầu thi hành án được trả lại theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này thì thời hạn ba năm được tính từ ngày trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

Bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn ba năm tính từ ngày việc thi hành án bị ngừng.

2- Trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu cơ quan, tổ chức được thi hành án không yêu cầu thi hành thì Toà án nộp tài sản thu được do thi hành án vào ngân sách Nhà nước.

3- Trong trường hợp người được thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan nên không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời hạn thi hành án được tính từ khi trở ngại đó không còn.

Việc khôi phục thời hiệu thi hành án do Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án xét và quyết định.

Điều 17: Tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án.

1- Sau khi nhận được quyết định thi hành án chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá một tháng để tự nguyện thi hành.

Trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án phân tán hoặc huỷ hoại tài sản thì chấp hành viên quyết định kê biên ngay tài sản.

Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành mà người phải thi hành án không thi hành thì chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Pháp lệnh này.

2- Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về việc cưỡng chế thi hành án.

3- Không được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án phân tán hoặc huỷ hoại tài sản, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Điều 18: Hoãn thi hành án.

1- Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có quyền hoãn thi hành án trong những trường hợp sau đây:

a) Người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định thì người đó có nghĩa vụ phải tự mình thực hiện;

b) Người được thi hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành;

c) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án.

Khi điều kiện hoãn thi hành án đã hết, thì bản án, quyết định được tiếp tục thi hành.

2- Khi cần thiết, Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Chánh án Toà án được yêu cầu phải ra quyết định hoãn thi hành án trong thời hạn không quá ba tháng.

Điều 19: Tạm đình chỉ thi hành án.

1- Người đã kháng nghị bán án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó.

2- Khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 18 của Pháp lệnh này thì Chánh án đã ra quyết định thi hành án có quyền tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi điều kiện tạm đình chỉ đã hết.

Điều 20: Đình chỉ thi hành án.

Chánh án toà án đã ra quyết định thi hành án có quyền đình chỉ việc thi hành trong những trường hợp sau đây:

1- Người phải thi hành án chết mà theo bản án, quyết định thì nghĩa vụ thực hiện không được chuyển cho người thừa kế;

2- Người được thi hành án chết mà quyền và lợi ích theo bản án, quyết định không được thừa kế;

3- Người được thi hành án là cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân tự nguyện yêu cầu không thi hành án nữa;

4- Bản án, quyết định bị Toà án có thẩm quyền huỷ bỏ;

5- Thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.

Trong trường hợp quy định tại điểm 3 Điều này, người được thi hành án sau đó không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại.

Điều 21: Trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản trích lục bản án hoặc quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp có quyết định đình chỉ việc thi hành án hoặc có căn cứ xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án đã có điều kiện thi hành thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh này.

Điều 22: Gửi các quyết định về thi hành án.

Các quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, khôi phục thời hiệu thi hành án, phạt tiền, trả lại đơn yêu cầu thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án.

Chương 4:

CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHỄ THI HÀNH ÁN

Điều 23: Kê biên tài sản.

1- Chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản của người phải thi hành án. Tài sản thuộc sở hữu riêng được kê biên trước, sau đó kê biên phần tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác. Nếu có tranh chấp về tài sản giữa người phải thi hành án với người khác thì Toà án đã ra quyết định thi hành án xác định tài sản của người phải thi hành án theo thủ tục tố tụng dân sự.

2- Khi kê biên tài sản phải có mặt người phải thi hành án hoặc người đã thành niên trong gia đình, đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến. Người được thi hành án được thông báo về thời gian, địa điểm kê biên tài sản và có quyền có mặt khi kê biên tài sản. Nếu người được thi hành án vắng mặt hoặc người phải thi hành án hay người đã thành niên trong gia đình cố tình vắng mặt thì chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên.

3- Chấp hành viên chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với mức đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án.

Chấp hành viên phải chấp nhận đề nghị của người phải thi hành án về việc kê biên tài sản nào trước, nếu xét thấy đề nghị đó không trở ngại cho việc thi hành án.

Việc kê biên nhà ở chỉ được tiến hành khi những tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án.

Điều 24: Tài sản không được kê biên.

Không được kê biên những tài sản sau đây:

1- Lương thực, thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình;

2- Công cụ lao động, quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình;

3- Đồ dùng thờ cúng thông thường.

Điều 25: Định giá tài sản đã kê biên.

1- Tài sản đã kê biện được định giá tại chỗ theo sự thoả thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành án.

2- Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn thì sau khi kê biên, chấp hành viên mời Hội đồng định giá gồm đại diện cơ quan tài chính, vật giá và do chấp hành viên chủ trì để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Người được thi hành án, người phải thi hành án được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá.

Điều 26: Giao bảo quản tài sản đã kê biên.

1- Nếu người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản đã kê biên để thi hành án thì chấp hành viên giao tài sản đã kê biên cho người phải thi hành án, thân nhân của họ hoặc người đang sử dụng tài sản đó bảo quản.

Đối với tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ thì việc giao nhận phải theo đúng thủ tục do ngân hàng Nhà nước, Toà án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp quy định.

2- Chấp hành viên phải giải thích cho người được giao bảo quản tài sản đã kê biên về trách nhiệm của họ trong việc bảo quản tài sản.

3- Người được giao bảo quản tài sản được hưởng thù lao và được trả mọi chi phí cần thiết về bảo quản tài sản, trừ trường hợp họ là người phải thi hành án hoặc là người đang sử dụng tài sản.

Điều 27: Biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản.

Chấp hành viên lập biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản. Trong biên bản phải ghi ngày, giờ kê biên, họ và tên chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi hành án và người chứng kiến, mô tả tình trạng từng tài sản và những yêu cầu của đương sự hoặc ý kiến của người chứng kiến việc kê biên.

Chấp hành viên, đương sự, người chứng kiến và người được giao bảo quản tài sản ký tên vào biên bản. Trong trường hợp có người từ chối ký thì việc đó phải ghi vào biên bản và ghi rõ lý do.

Biên bản được giao cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người được giao bảo quản tài sản.

Điều 28: Bán đầu giá tài sản đã kê biên.

1- Tài sản đã kê biên để thi hành án được bán đấu giá. Việc định giá được tiến hành theo thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 25 của Pháp lệnh này.

Danh mục tài sản và thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở Toà án và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.

2- Tài sản đã kê biên được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì tài sản được bán cho người mua theo giá mà Hội đồng định giá đã định.

Tài sản không bán được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.

3- Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người được thi hành án không nhận thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khác.

Điều 29: Xử lý tài sản đã tịch thu.

Tài sản đã tịch thu là vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá được giao cho cơ quan có chức năng quản lý loại tài sản đó theo quy định của pháp luật.

Đối với tài sản khác sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ của người bị tịch thu tài sản, chấp hành viên giao cho cơ quan tài chính xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 30: Bán đến giá nhà.

Người muốn mua nhà phải nộp đơn và nộp trước 1% trị giá nhà tại Toà án. Số tiền này được hoàn lại ngay, nếu họ không mua được nhà.

Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày bán đấu giá, người mua được nhà phải trả đủ tiền tại Toà án. Nếu họ không trả đủ tiền trong thời hạn đó thì số tiền nộp trước không được trả lại và được nộp vào ngân sách Nhà nước.

Điều 31: Thứ tự thanh toán tiền bán tài sản.

Số tiền bán tài sản, sau khi trừ các chi phí về thi hành án, được thanh toán cho người được thi hành án theo thứ tự sau đây:

1- Tiền cấp dưỡng;

2- Tiền bồi thường thiện hại về tính mạng, sức khoẻ;

3- Tiền công lao động;

4- Các khoản phải trả Nhà nước;

5- Các khoản phải trả khác.

Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

Điều 32: Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

1- Thu nhập của người phải thi hành án bao gồm: Tiền lương, trợ cấp hưu trí hoặc mất sức, thu nhập của xã viên hợp tác xã và các thu nhập hợp pháp khác.

2- Việc trừ vào thu nhập được áp dụng khi thi hành án về cấp dưỡng hoặc khi đã kê biên tài sản khác của người phải thi hành án, nhưng tài sản đó không đủ để thi hành án.

3- Mức cao nhất được trừ vào lương, trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp mất sức là 50%. Đối với những khoản thu nhập khác, thì mức trừ căn cứ vào thu nhập thực tế, nhưng phải bảo đảm điều kiện sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án.

Điều 33: Thực hiện quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

1- quyết định của chấp hành viên về trừ vào thu nhập được gửi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người phải thi hành án làm việc hoặc nhận thu nhập.

Cơ quan, tổ chức, đơn vị nói trên có nghĩa vụ chuyển cho người được thi hành án số tiền được trừ vào thu nhập của người phải thi hành án và báo cho chấp hành viên đã ra quyết định đó biết.

2- Khi người phải thi hành án chuyển đến ở nơi khác thì nơi trả thu nhập cho người đó phải chuyển quyết định của chấp hành viên đến nơi mới và báo cho chấp hành viên đã ra quyết định biết. Nơi trả thu nhập mới của người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành quyết định về việc trừ vào thu nhập của người đó.

Điều 34: Trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ.

1- Đối với tài sản của người phải thi hành án đang gửi ở ngân hàng, chấp hành viên yêu cầu ngân hàng khấu trừ và chuyển cho người được thi hành án số tiền hoặc tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người đó.

2- Đối với tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác vay, mượn, thuê hoặc gửi giữ, gửi sửa chữa, chấp hành viên yêu cầu người vay, mượn, thuê hoặc giữ chuyển cho người được thi hành án số tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người đó hoặc kê biên và bán tài sản đó để thi hành án theo quy định tại Chương IV của Pháp lệnh này.

3- Nếu có tranh chấp về tài sản quy định tại khoản 2 Điều này thì Toà án đã ra quyết định thi hành án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Điều 35: Cưỡng chế giao đồ vật.

Trong trường hợp người phải thi hành án bị cưỡng chế giao đồ vật cho người được thi hành án thì chấp hành viên giao đồ vật đó cho người được thi hành án.

Điều 36

Cưỡng chế trả nhà.

Trong trường hợp cưỡng chế trả nhà cho người được thi hành án thì chấp hành viên cho chuyển đồ đạc của người phải thi hành án ra khỏi nhà và giao nhà cho người được thi hành án.

Điều 37: Cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật.

Khi người phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt hành vi trái pháp luật thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế chấm dứt hành vi đó.

Chương 5:

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT CỦA CHẤP HÀNH VIÊN VÀ KHÁNG CÁO QUYẾT ĐỊNH CỦA CHÁNH ÁN

Điều 38: Khiếu nại, tố cáo hành vi trái pháp luật của chấp hành viên.

Người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án có quyền khiếu nại, tố cáo với Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án về hành vi trái pháp luật của chấp hành viên.

Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, tố cáo, Chánh án toà án đã ra quyết định thi hành án phải trả lời người khiếu nại, tố cáo và ra quyết định sửa chữa hành vi trái pháp luật của chấp hành viên. Nếu không đồng ý với cách giải quyết của Chánh án, người khiếu nại, tố cáo có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, tố cáo, Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.

Điều 39: Kháng cáo quyết định của Chánh án Toà án về thi hành án.

Người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án có quyền kháng cáo các quyết định thi hành án, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, khôi phục thời hiệu thi hành án, phạt tiền và trả lại đơn yêu cầu thi hành án của Chánh án Toà án.

Thời hạn kháng cáo là bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Đơn kháng cáo được gửi đến Toà án đã ra quyết định thi hành án và Toà án cấp trên trực tiếp.

Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được kháng cáo, Chánh án toà án đã ra quyết định thi hành án phải gửi hồ sơ thi hành án lên Toà án cấp trên trực tiếp.

Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết kháng cáo trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.

Chương 6:

XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 40: Phạt tiền người phải thi hành án.

Khi người phải thi hành án đã được giải thích mà không tự nguyện thi hành quyết định của Toà án buộc bản thân họ thực hiện hành vi nhất định trừ việc giao nộp tài sản, thì theo đề nghị của chấp hành viên, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có quyền phạt người phải thi hành án từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng.

Điều 41: Các hình thức xử lý khác.

Người nào cố ý không thi hành bản án, quyết định của Toà án, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc chấp hành viên thi hành án trái pháp luật một cách nghiêm trọng; phá huỷ niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại tài sản bị kê biên trong giai đoạn thi hành án thì tuỳ theo mức độ vi phạm nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Chương 7:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 42

Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1-1-1990.

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 43

Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 1989

 

 

Võ Chí Công

(Đã ký)

 

- Điều này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:

I. THẨM QUYỀN RA QUYẾT ĐỊNH THI HÀNH ÁN (Điều 4 Pháp lệnh)

1. Theo Điều 4 Pháp lệnh thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Chánh án Toà án đã xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời là chung thẩm để yêu cầu thi hành án. Theo Điều 4 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm vụ án hoặc Chánh án Toà án đã được uỷ thác việc thi hành án ra quyết định thi hành án. Chánh án Toà án cấp tỉnh cũng có thể ra quyết định thi hành án khi được Chánh án Toà án tối cao ra quyết định giao cho việc thi hành bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Do đó, khi thực hiện Điều 4 Pháp lệnh cần chú ý một số điểm sau đây:

a. Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án trong trường hợp Toà án này trực tiếp thi hành án. Nếu Toà án đã xử sơ thẩm không có điều kiện trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án này uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến thi hành án để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.

b. Khi được Chánh án Toà án nhân dân tối cao giao cho việc thi hành bản án hoặc quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nếu Toà án cấp tỉnh trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành. Nếu Toà án cấp tỉnh không có điều kiện trực tiếp thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án và giao cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.

c. Sau khi đã ra quyết định thi hành án mà thấy không có điều kiện thi hành thì Chánh án của Toà án đã ra quyết định thi hành án rút quyết định đó và uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi có điều kiện thi hành để Chánh án Toà án nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành án cho chấp hành viên của Toà án mình thi hành.

d. Nếu trong quá trình thi hành án người phải thi hành án chuyển đến cư trú, làm việc ở địa hạt của Toà án khác hoặc tài sản có thể khấu trừ ở nơi đang thi hành án không còn, thì chấp hành viên đề nghị Chánh án Toà án ra quyết định uỷ thác việc thi hành án cho Chánh án Toà án nơi thi hành án mới để Chánh án Toà án nơi nhận được uỷ thác ra quyết định thi hành phần bản án quyết định còn lại.

2. Các Toà án cấp tỉnh có thể uỷ thác việc thi hành án thẳng cho Toà án cấp huyện của tỉnh khác. Toà án cấp huyện của tỉnh này có thể uỷ thác việc thi hành án cho Toà án cấp tỉnh hoặc Toà án cấp huyện của tỉnh khác. Sau khi nhận được uỷ thác, nếu thấy việc thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án khác, Toà án nhận được uỷ thác có nhiệm vụ chuyển tiếp cho Toà án có thẩm quyền và báo cho Toà án đã uỷ thác biết và nếu không biết Toà án nào có thẩm quyền thì trả lại cho Toà án đã uỷ thác.

Chấp hành viên phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác thi hành án đến nơi thi hành án mới.

3. Nếu có tranh chấp về thẩm quyền thi hành án thì Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp giữa các Toà án thuộc cùng một tỉnh; các Chánh án Toà án cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án cấp quân khu phối hợp giải quyết tranh chấp giữa hai Toà án khác tỉnh hoặc giữa Toà án nhân dân và Toà án quân sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch 07-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 17/09/1993)

Để thực hiện khoản 5 Điều 227 Bộ Luật tố tụng hình sự, Điều 6 Pháp lệnh thi hành án dân sự và Điều 7 Pháp lệnh lực lượng cảnh sát nhân dân.
...
Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ hướng dẫn một số vấn đề về cưỡng chế thi hành án như sau:
...
I. BẢO VỆ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

1. Nếu thấy cần phải có sự hỗ trợ, bảo vệ trật tự khi tiến hành biện pháp cưỡng chế thi hành án như kê biên tài sản, định giá tài sản, bán đấu giá tài sản, cưỡng chế giao đồ vật... thì Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan công an cấp huyện và công an xã, phường, thị trấn nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án biết thời gian, địa điểm tiến hành, đối tượng sẽ bị cưỡng chế, biện pháp cưỡng chế, tình huống có thể xảy ra và yêu cầu số lượng cảnh sát bảo vệ. Thông báo về việc cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tiến hành cưỡng chế thi hành án để tham gia chứng kiến hoặc phối hợp, giúp đỡ khi cần thiết. Nếu chấp hành viên thấy có khả năng là đối tượng bị cưỡng chế sẽ chống đối quyết liệt thì cần đề nghị Chánh án Tòa án họp với Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an cùng cấp và đại diện Uỷ ban nhân dân địa phương để thống nhất phương án bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án.

Thông báo cưỡng chế thi hành án hoặc buổi họp bàn về bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án cần được tiến hành trước ngày cưỡng chế thi hành án ít nhất là ba ngày. Nếu chấp hành viên thấy cần phải kê biên tài sản ngay thì không nhất thiết phải thông báo trước ba ngày.

2. Theo thông báo cưỡng chế thi hành án đã nhận được, thủ trưởng cơ quan công an có trách nhiệm cử ít nhất 2 cán bộ, chiến sĩ cảnh sát làm nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ trật tự khi chấp hành viên tiến hành cưỡng chế thi hành án.

Đối với những trường hợp phức tạp mà Tòa án đã họp bàn với cơ quan công an thì cơ quan công an có trách nhiệm bố trí đủ lực lượng và phương tiện để đảm bảo cho việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án đạt kết quả tốt.

Cán bộ, chiến sĩ cảnh sát được phân công hỗ trợ chấp hành viên trong việc cưỡng chế thi hành án phải có mặt đúng thời gian địa điểm để làm nhiệm vụ và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của chấp hành viên trong quá trình cưỡng chế thi hành án.

Chấp hành viên có trách nhiệm phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ cảnh sát thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

II. XỬ LÝ NHỮNG HÀNH VI CẢN TRỞ, CHỐNG ĐỐI VIỆC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

Trong quá trình cưỡng chế thi hành án, nếu có những hành vi cản trở, chống đối thì lực lượng cảnh sát nhân dân có trách nhiệm tự mình hoặc theo yêu cầu của chấp hành viên, áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để ngăn chặn ngay những hành vi đó. Nếu là phạm tội quả tang thì cảnh sát nhân dân phải bắt ngay người đang thực hiện tội phạm trong khi cưỡng chế thi hành án, hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt; và lập biên bản, giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với những trường hợp khác, thì tuỳ theo mức độ vi phạm, chấp hành viên có thể lập biên bản và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý theo pháp luật.

Tòa án nhân dân và cơ quan công an các cấp ở địa phương cần tổ chức cho các chấp hành viên và đơn vị hữu quan nghiên cứu Thông tư này. Tòa án nhân dân các cấp thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Tòa án nhân dân cấp huyện thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn biết để phối hợp thực hiện.

Xem nội dung VB
- Chấp hành viên và việc khen thưởng, kỷ luật chấp hành viên được hướng dẫn bởi Chương 1 và Chương 4 Quy chế ban hành kèm theo Nghị định 68-HĐBT (VB hết hiệu lực: 02/06/1993)

Căn cứ Pháp lệnh thi hành án dân sự do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 28 tháng 8 năm 1989;
...
QUY CHẾ CHẤP HÀNH VIÊN
...
Chương 1: CHẤP HÀNH VIÊN

Điều 1.

Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự.

Tại các Toà án tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh); các Toà án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện) có chấp hành viên.

Điều 2. Biên chế chấp hành viên của mỗi Toà án do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định, căn cứ vào khối lượng công việc thực tế của Toà án đó. Nơi nào có từ 2 chấp hành viên trở lên thì được bổ nhiệm một chấp hành viên trưởng.

Điều 3. Chấp hành viên trưởng và chấp hành viên chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án Toà án nhân dân nơi chấp hành viên cộng tác; chịu sự quản lý, kiểm tra tổ chức và hoạt động của cơ quan Tư pháp cấp trên và thực hiện các quyết định của Chánh án Toà án cấp trên theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự.

Điều 4.

Người được bổ nhiệm làm chấp hành viên phải có phẩm chất chính trị, trung thực, khách quan, có kiến thức pháp lý cần thiết và nắm vững nghiệp vụ thi hành án, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Người được bổ nhiệm làm chấp hành viên trưởng phải có tiêu chuẩn như chấp hành viên, đã làm chấp hành viên hoặc thẩm phán cùng cấp từ 2 năm trở lên; ngoài ra còn phải có năng lực quản lý, điều hành công việc của bộ phận thi hành án.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định cụ thể các tiêu chuẩn của chấp hành viên và chấp hành viên trưởng.

Điều 5. Lương và chế độ phụ cấp theo lương của chấp hành viên và chấp hành viên trưởng thực hiện theo thang bậc lương của thẩm phán cùng cấp; Bộ trưởng các Bộ Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tài chính hướng dẫn cụ thể việc thực hiện.
...
Chương 4: KHEN THƯỞNG VÀ KỶ LUẬT

Điều 17.

Chấp hành viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước.

Điều 18.

Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án vi phạm phẩm chất đạo đức thì bị xử lý kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, miễn nhiệm, buộc thôi việc, chịu trách nhiệm về vật chất) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Cấp nào quyết định bổ nhiệm thì do cấp đó quyết định hình thức kỷ luật theo đề nghị của Chánh án Toà án nơi chấp hành viên công tác.

Xem nội dung VB
- Trang phục, phù hiệu, thẻ chấp hành viên được hướng dẫn bởi Chương 2, 3 Quy chế ban hành kèm theo Nghị định 68-HĐBT (VB hết hiệu lực: 02/06/1993)

Căn cứ Pháp lệnh thi hành án dân sự do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 28 tháng 8 năm 1989;
...
QUY CHẾ CHẤP HÀNH VIÊN
...
Chương 2: PHÙ HIỆU, CHẾ ĐỘ TRANG PHỤC THẺ CHẤP HÀNH VIÊN

Điều 6. Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu thống nhất sau đây:
...
Điều 7.
...
Điều 8.
...
Điều 9. Thẻ chấp hành viên mầu hồng tươi, bề ngang 75 mm, bề dài 100 mm gồm 2 mặt:
...
Chương 3: CHẾ ĐỘ CẤP PHÁT VÀ SỬ DỤNG

Điều 10. Các trang phục cấp và sử dụng lâu dài: Phù hiệu gắn trên mũ và ve áo.

Điều 11.
...
Điều 12. Nguyên tắc cấp phát và sử dụng trang phục chấp hành viên.
...
Điều 13. Chấp hành viên thuộc các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở ra phía Bắc và Tây Nguyên được cấp phát quần áo thu đông và xuân hè, các tỉnh từ Quảng Ngãi trở vào phía Nam cấp 2 bộ xuân hè (không cấp quân áo thu đông).

Điều 14.
...
Điều 15.
...
Điều 16. Người nào giả mạo hoặc lợi dụng trang phục, thẻ chấp hành viên để thực hiện hành vi trái pháp luật sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
II. THỜI HIỆU THI HÀNH ÁN (Điều 16 Pháp lệnh)

1. Pháp lệnh quyết định thời hiệu thi hành án là thời hạn bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực thi hành, hết thời hạn đó, nếu không có những căn cứ theo quy định của Pháp lệnh thì bản án hoặc quyết định hết hiệu lực thi hành. Điều đó có nghĩa là:

a. Đối với trường hợp người được thi hành án là công dân: nếu trong thời hạn ba năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án thi hành án thì sau đó họ không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi hành án thi hành nữa.

b. Đối với trường hợp người được thi hành án là cơ quan, tổ chức: nếu trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật mà họ không yêu cầu Toà án thi hành án, thì sau đó họ cũng không có quyền yêu cầu Toà án và người phải thi hành án thi hành nữa. Theo quy định tại khoản 2, Điều 15 Pháp lệnh thì Chánh án Toà án phải chủ động ra quyết định thi hành án đối với các bản án hoặc quyết định của Toà án về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí. Do đó, nếu cơ quan, tổ chức được trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại không yêu cầu Toà án thi hành án trong thời hạn nói trên, nhưng Toà án đã chủ động thi hành thì Toà án nộp tài sản thi hành được vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó (bỏ quên, thất lạc hoặc cố ý không đưa bản án ra thi hành...) mà cơ quan, tổ chức được thi hành án không yêu cầu thi hành án và Toà án cũng không chủ động đưa ra bản án, quyết định của Toà án ra thi hành, thì sau thời hạn một năm Toà án cũng không được đưa ra bản án, quyết định ra thi hành nữa. Đối với người có lỗi làm việc không đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trong thời hạn nói trên gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, buộc bồi thường thiệt hại theo chế độ trách nhiệm vật chất, trách nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

2. Đối với trường hợp trong bản án hoặc quyết định của Toà án có quy định việc thi hành theo định kỳ, mà người phải thi hành án đã thi hành được một phần, nhưng sau đó ngừng thi hành, thì người được thi hành án là công dân có quyền yêu cầu Toà án thi hành án trong thời hạn 3 năm; đối với cơ quan, tổ chức thì thời hạn là 1 năm kể từ ngày người phải thi hành án ngừng thi hành.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
VII. CÁC CHI PHÍ VỀ VIỆC CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Pháp lệnh thì người phải thi hành án phải chịu các chi phí về cưỡng chế thi hành án. Các chi phí này bao gồm: tiền công chuyên chở, bảo quản tài sản, tiền giám định tài sản bị kê biên để gửi giữ, định giá, tiền thuê địa điểm, phương tiện để tổ chức bán đấu giá... mức chi phí dựa trên cơ sở thực tế, hợp lý và do chấp hành viên ấn định.

Các chi phí vào việc tổ chức các cuộc họp với các cơ quan, tổ chức hữu quan để hỗ trợ Toà án cưỡng chế thi hành án, chi phí hoạt động của Hội đồng thi hành án và việc bồi dưỡng cho những người tham gia cưỡng chế thi hành án do ngân sách cấp theo chế độ chung, nên chấp hành viên không được tính vào các chi phí buộc người phải thi hành án thanh toán.

Chấp hành viên không được yêu cầu hoặc gợi ý người được thi hành án chịu các chi phí về cưỡng chế thi hành án thay cho người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án thực sự có khó khăn và người được thi hành án tự nguyện tạo các điều kiện giúp cho việc thi hành án được tiến hành thuận lợi (như cung cấp nhân lực, phương tiện vận chuyển...) thì chấp hành viên có thể chấp nhận, nhưng không được chấp nhận các khoản bồi dưỡng cho những người tham gia cưỡng chế thi hành án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 1 Mục III Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
III. HOÃN THI HÀNH ÁN, TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH ÁN (Các Điều 18, 19 Pháp lệnh)

1. Theo khoản 2 Điều 18 Pháp lệnh thì khi cần thiết, Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền yêu cầu Toà án nơi thi hành án hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. khi thực hiện quy định này cần chú ý là chỉ trong những trường hợp qua báo cáo của Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới hoặc qua các nguồn thông tin khác mà Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên thấy bản án, quyết định của Toà án có vi phạm hoặc có khả năng là có vi phạm pháp luật, cho nên cần phải hoãn ngay việc thi hành để tránh những hậu quả không thể khắc phục được hoặc khó khắc phục như buộc phải dỡ nhà, trả nhà..., thì mới yêu cầu hoãn thi hành án. Văn bản yêu cầu hoãn thi hành án do Chánh án Toà án hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát ký hoặc do Phó Chánh án Toà án, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát ký thay. Người có thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án không được uỷ quyền cho người khác yêu cầu hoãn thi hành án.

Yêu cầu hoãn thi hành án có thể được thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản, nhưng nếu thông báo trực tiếp quan điện thoại, điện tín. .., thì sau đó cũng phải có văn bản gửi cho Toà án nơi thi hành án. Khi chưa có văn bản mà cần thông báo ngay thì phải do Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp thông báo. Nếu đã có văn bản mà cần thông báo ngay bằng điện thoại, điện tín thì người được giao nhiệm vụ thông báo phải nói rõ họ, tên và chức vụ của mình, số của văn bản, ngày ra văn bản, nội dung chủ yếu của văn bản, người đã ký văn bản. Người nhận thông báo cũng phải cho người thông báo biết họ, tên và chức vụ của mình để xác định trách nhiệm khi cần thiết.

Người yêu cầu cần hoãn thi hành án phải nêu rõ thời gian hoãn thi hành án. Dù yêu cầu hoãn một lần hoặc nhiều lần thì tổng số hoãn thi hành án cũng không được vượt quá ba tháng.

Khi nhận được thông báo trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu hoãn thi hành án, Chánh án Toà án nơi thi hành án phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án theo thời hạn do người có thẩm quyền yêu cầu hoãn thi hành án ấn định và tổng số thời gian hoãn thi hành án trong trường hợp này không được vượt quá ba tháng. Hết thời hạn đó, nếu không có các căn cứ để hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án hoặc đình chỉ thi hành án, theo quy định của Pháp lệnh, thì Chánh án Toà án nơi thi hành án phải đưa ngay bản án ra thi hành.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Mục III Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
III. HOÃN THI HÀNH ÁN, TẠM ĐÌNH CHỈ THI HÀNH ÁN (Các Điều 18, 19 Pháp lệnh)
...
2. Theo khoản 1 Điều 19 Pháp lệnh thì người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định của Toà án có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án hoặc quyết định đó. Do đó, chỉ có thể quyết định việc tạm đình chỉ thi hành án trong bản kháng nghị hoặc sau khi đã kháng nghị, không được quyết định tạm đình chỉ thi hành án trước khi kháng nghị.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 1 Mục IV Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
IV. VIỆC TRẢ LẠI ĐƠN YÊU CẦU THI HÀNH ÁN VÀ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN (Các Điều 21, 32 Pháp lệnh)

1. Theo tinh thần của Điều 21 Pháp lệnh thì khi có căn cứ xác định là người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án, Chánh án Toà án nơi thi hành án quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án. Khi áp dụng điều này cần chú ý là Chánh án Toà án nơi thi hành án chỉ ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án khi có căn cứ xác định là người phải thi hành án thật sự không có tài sản có thể kê biên hoặc thu nhập có thể khấu trừ để thi hành án.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Thông tư liên bộ 05-89/TTLN năm 1989

Thi hành các điều 25, 28 Pháp lệnh thi hành án dân sự về Hội đồng định giá và việc định giá tài sản kê biên khi thi hành án;

Sau khi thống nhất ý kiến với Viện kiển sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp;

Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Uỷ ban vật giá Nhà nước hướng dẫn các Tòa án nhân dân, các cơ quan tài chính, vật giá địa phương áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:

1. Đối tượng tài sản định giá là những tài sản đã kê biên để thi hành mà các đương sự không thoả thuận được về giá cả hoặc việc định giá có khó khăn.

2. Thành phần Hội đồng định giá bao gồm:

- Chấp hành viên - chủ trì Hội đồng;

- Đại diện của cơ quan tài chính - thành viên;

- Đại diện của cơ quan vật giá - thành viên.

Ở những địa phương đã sáp nhập cơ quan tài chính vật giá thì cơ quan tài chính vật giá cử hai thành viên (một phụ trách tài chính, một phụ trách giá) tham gia Hội đồng định giá.

3. Nguyên tắc định giá:

Việc định giá phải căn cứ vào mức giá phổ biến trên thị trường địa phương tại thời gian và địa điểm định giá. Đối với những tài sản không có giá thị trường thì căn cứ vào giá thị trường của sản phẩm cùng loại hoặc chi phí để tạo ra loại tài sản đó để định giá.

Đối với những tài sản có tính năng phức tạp, thì chấp hành viên chủ động hoặc theo yêu cầu của Hội đồng định giá trưng cầu giám định chuyên môn.

4. Tổ chức thực hiện:

- Khi cần định giá tài sản, chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản trước ngày định giá ít nhất là ba ngày cho thủ trưởng các cơ quan tài chính, vật giá cùng cấp về thời gian, địa điểm, các loại tài sản cần định giá; yêu cầu thông tin về giá cả trên thị trường (nếu xét thấy cần thiết cho việc định giá) và yêu cầu cử cán bộ chuyên môn tham gia.

- Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, người thi hành án, người phải thi hành án được thông báo về thời gian, địa điểm định giá và được tham gia ý kiến (mang tính chất tham khảo) vào việc định giá của Hội đồng định giá.

- Chấp hành viên chủ trì phiên họp Hội đồng định giá, Hội đồng định giá thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

- Chấp hành viên phải lập biên bản về việc định giá có ghi rõ giá của từng tài sản do Hội đồng định giá quyết định. Biên bản phải có chữ ký của các thành viên Hội đồng định giá và của các đương sự có mặt. Nếu có đương sự từ chối không ký thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.

- Các đương sự có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án nhân dân nơi chấp hành viên công tác về việc định giá. Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án phải phối hợp với thủ trưởng các cơ quan là thành viên Hội đồng định giá để xem xét, quyết định và trả lời cho các đương sự. Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân là căn cứ để các bên đương sự thi hành.

Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc, đề nghị các đơn vị báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Uỷ ban vật giá Nhà nước để hướng dẫn giải quyết.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Mục V Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
V. VIỆC ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN BỊ KÊ BIÊN (Điều 25 Pháp lệnh)

Theo khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh thì khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, chấp hành viên mời Hội đồng định giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Quy định này nhằm giúp Chấp hành viên ước lượng số tài sản cần kê biên tương ứng với mức đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án; đồng thời, nhằm xác định trách nhiệm của người được giao bảo quản tài sản đã kê biên. Do đó, khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá thì chấp hành viên cần dựa vào ý kiến của đại diện chính quyền địa phương, người chứng kiến và các bên đương sự để sơ bộ định giá các tài sản bị kê biên. Chấp hành viên chỉ mời Hội đồng định giá tài sản trong những trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản kê biên để thi hành án theo giá do hội đồng định giá quyết định hoặc do tính chất đặc biệt của tài sản mà chấp hành viên không thể ước giá được. Đối với những trường hợp này, Hội đồng định giá cần định giá chính thức tất cả các tài sản đã kê biên của người phải thi hành án để khi bán đấu giá không phải định giá lại, trừ trường hợp có biến động đáng kể về giá.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
VI. BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÃ KÊ BIÊN (Các Điều 28, 30 Pháp lệnh)

1. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày Hội đồng định giá quyết định giá, chấp hành viên phải tổ chức bán đấu giá. Việc bán đấu giá nhà được tiến hành tại nơi có nhà. Đối với các tài sản khác chấp hành viên có thể tiến hành bán đấu giá tại nơi có tài sản hoặc tại một địa điểm thuận lợi khác. Nếu bán đấu giá tại trụ sở Toà án thì không để ảnh hưởng đến sự hoạt động của cơ quan.

2. Chậm nhất là 7 ngày trước ngày bán đấu giá, chấp hành viên phải niêm yết công khai tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân nơi có tài sản và thông báo rộng rãi danh mục tài sản, giá đã định, thời gian và địa điểm bán đấu giá. Đồng thời phải báo cho các bên đương sự biết. Trong thông báo có thể nêu rõ những yêu cầu đối với người tham gia đấu giá.

3. Trước khi bán đấu giá, người phải chịu thi hành án có thể nộp tiền thi hành án để lấy lại tài sản bị kê biên và người được thi hành án có thể nhận tài sản đã kê biên để thi hành án theo giá đã định.

4. Khi tổ chức bán đấu giá, chấp hành viên cần phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng cảnh sát nhân dân để bảo vệ tài sản và giữ gìn trật tự. Tài sản bán đấu giá được trưng bày công khai, có ghi rõ số thứ tự và giá đã định. Chấp hành viên khai mạc cuộc bán đấu giá; giới thiệu đại diện chính quyền, đoàn thể được mời tham gia chứng kiến việc bán đấu giá, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (nếu có) và công bố thể thức bán đấu giá.

Chấp hành viên lần lượt bán tài sản của từng người phải thi hành án và công bố giá đã định của từng tài sản để người mua trả giá. Tài sản được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì bán cho người mua theo giá đã định. Khi số tiền bán tài sản đã đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án thì chấp hành viên ngừng bán và số tài sản còn lại sẽ được trả cho người phải thi hành án.

Đối với tài sản không phải là nhà, người mua được tài sản trả tiền ngay tại nơi bán đấu giá; nhưng nếu tài sản trị giá từ một triệu đồng trở lên thì người mua phải trả ít nhất là 10% trị giá của tài sản và trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày bán đấu giá họ phải trả đủ tại Toà án số tiền còn thiếu. Người mua được nhận tài sản ngay sau khi đã trả đủ tiền. Nếu người mua không trả đủ tiền trong thời hạn này, thì số tiền nộp trước không được trả lại mà được nộp vào ngân sách nhà nước, trừ trường hợp có lý do chính đáng được chấp hành viên chấp nhận. Việc bán đấu giá nhà thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh và thủ tục tổ chức bán đấu giá trong Thông tư này.

Đối với những tài sản phải làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu thì chậm nhất là 3 ngày sau khi người mua trả đủ tiền, chấp hành viên phải giao cho người mua các giấy tờ cần thiết để làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu. Chấp hành viên phải lập biên bản về việc bán đấu giá tài sản của từng người phải thi hành án, trong đó cần ghi rõ danh mục tài sản, các giá đã được trả, họ và tên, địa chỉ của người mua được tài sản... trong biên bản phải có chữ ký của chấp hành viên, những người chứng kiến và các bên đương sự tham dự cuộc bán đấu giá (nếu có). Trong những trường hợp không có người mua, người mua trả giá thấp hơn giá đã định hoặc không trả đủ tiền trong thời hạn quy định, chấp hành viên lập biên bản về việc bán đấu giá không thành và thông báo cho các đương sự biết.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Thông tư liên bộ 05-89/TTLN năm 1989

Thi hành các điều 25, 28 Pháp lệnh thi hành án dân sự về Hội đồng định giá và việc định giá tài sản kê biên khi thi hành án;

Sau khi thống nhất ý kiến với Viện kiển sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp;

Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Uỷ ban vật giá Nhà nước hướng dẫn các Tòa án nhân dân, các cơ quan tài chính, vật giá địa phương áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:

1. Đối tượng tài sản định giá là những tài sản đã kê biên để thi hành mà các đương sự không thoả thuận được về giá cả hoặc việc định giá có khó khăn.

2. Thành phần Hội đồng định giá bao gồm:

- Chấp hành viên - chủ trì Hội đồng;

- Đại diện của cơ quan tài chính - thành viên;

- Đại diện của cơ quan vật giá - thành viên.

Ở những địa phương đã sáp nhập cơ quan tài chính vật giá thì cơ quan tài chính vật giá cử hai thành viên (một phụ trách tài chính, một phụ trách giá) tham gia Hội đồng định giá.

3. Nguyên tắc định giá:

Việc định giá phải căn cứ vào mức giá phổ biến trên thị trường địa phương tại thời gian và địa điểm định giá. Đối với những tài sản không có giá thị trường thì căn cứ vào giá thị trường của sản phẩm cùng loại hoặc chi phí để tạo ra loại tài sản đó để định giá.

Đối với những tài sản có tính năng phức tạp, thì chấp hành viên chủ động hoặc theo yêu cầu của Hội đồng định giá trưng cầu giám định chuyên môn.

4. Tổ chức thực hiện:

- Khi cần định giá tài sản, chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản trước ngày định giá ít nhất là ba ngày cho thủ trưởng các cơ quan tài chính, vật giá cùng cấp về thời gian, địa điểm, các loại tài sản cần định giá; yêu cầu thông tin về giá cả trên thị trường (nếu xét thấy cần thiết cho việc định giá) và yêu cầu cử cán bộ chuyên môn tham gia.

- Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, người thi hành án, người phải thi hành án được thông báo về thời gian, địa điểm định giá và được tham gia ý kiến (mang tính chất tham khảo) vào việc định giá của Hội đồng định giá.

- Chấp hành viên chủ trì phiên họp Hội đồng định giá, Hội đồng định giá thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.

- Chấp hành viên phải lập biên bản về việc định giá có ghi rõ giá của từng tài sản do Hội đồng định giá quyết định. Biên bản phải có chữ ký của các thành viên Hội đồng định giá và của các đương sự có mặt. Nếu có đương sự từ chối không ký thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.

- Các đương sự có quyền khiếu nại với Chánh án Tòa án nhân dân nơi chấp hành viên công tác về việc định giá. Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án phải phối hợp với thủ trưởng các cơ quan là thành viên Hội đồng định giá để xem xét, quyết định và trả lời cho các đương sự. Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân là căn cứ để các bên đương sự thi hành.

Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn vướng mắc, đề nghị các đơn vị báo cáo về Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, Uỷ ban vật giá Nhà nước để hướng dẫn giải quyết.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
VI. BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÃ KÊ BIÊN (Các Điều 28, 30 Pháp lệnh)

1. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày Hội đồng định giá quyết định giá, chấp hành viên phải tổ chức bán đấu giá. Việc bán đấu giá nhà được tiến hành tại nơi có nhà. Đối với các tài sản khác chấp hành viên có thể tiến hành bán đấu giá tại nơi có tài sản hoặc tại một địa điểm thuận lợi khác. Nếu bán đấu giá tại trụ sở Toà án thì không để ảnh hưởng đến sự hoạt động của cơ quan.

2. Chậm nhất là 7 ngày trước ngày bán đấu giá, chấp hành viên phải niêm yết công khai tại trụ sở Toà án, Uỷ ban nhân dân nơi có tài sản và thông báo rộng rãi danh mục tài sản, giá đã định, thời gian và địa điểm bán đấu giá. Đồng thời phải báo cho các bên đương sự biết. Trong thông báo có thể nêu rõ những yêu cầu đối với người tham gia đấu giá.

3. Trước khi bán đấu giá, người phải chịu thi hành án có thể nộp tiền thi hành án để lấy lại tài sản bị kê biên và người được thi hành án có thể nhận tài sản đã kê biên để thi hành án theo giá đã định.

4. Khi tổ chức bán đấu giá, chấp hành viên cần phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng cảnh sát nhân dân để bảo vệ tài sản và giữ gìn trật tự. Tài sản bán đấu giá được trưng bày công khai, có ghi rõ số thứ tự và giá đã định. Chấp hành viên khai mạc cuộc bán đấu giá; giới thiệu đại diện chính quyền, đoàn thể được mời tham gia chứng kiến việc bán đấu giá, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (nếu có) và công bố thể thức bán đấu giá.

Chấp hành viên lần lượt bán tài sản của từng người phải thi hành án và công bố giá đã định của từng tài sản để người mua trả giá. Tài sản được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định thì bán cho người mua theo giá đã định. Khi số tiền bán tài sản đã đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án thì chấp hành viên ngừng bán và số tài sản còn lại sẽ được trả cho người phải thi hành án.

Đối với tài sản không phải là nhà, người mua được tài sản trả tiền ngay tại nơi bán đấu giá; nhưng nếu tài sản trị giá từ một triệu đồng trở lên thì người mua phải trả ít nhất là 10% trị giá của tài sản và trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày bán đấu giá họ phải trả đủ tại Toà án số tiền còn thiếu. Người mua được nhận tài sản ngay sau khi đã trả đủ tiền. Nếu người mua không trả đủ tiền trong thời hạn này, thì số tiền nộp trước không được trả lại mà được nộp vào ngân sách nhà nước, trừ trường hợp có lý do chính đáng được chấp hành viên chấp nhận. Việc bán đấu giá nhà thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh và thủ tục tổ chức bán đấu giá trong Thông tư này.

Đối với những tài sản phải làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu thì chậm nhất là 3 ngày sau khi người mua trả đủ tiền, chấp hành viên phải giao cho người mua các giấy tờ cần thiết để làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu. Chấp hành viên phải lập biên bản về việc bán đấu giá tài sản của từng người phải thi hành án, trong đó cần ghi rõ danh mục tài sản, các giá đã được trả, họ và tên, địa chỉ của người mua được tài sản... trong biên bản phải có chữ ký của chấp hành viên, những người chứng kiến và các bên đương sự tham dự cuộc bán đấu giá (nếu có). Trong những trường hợp không có người mua, người mua trả giá thấp hơn giá đã định hoặc không trả đủ tiền trong thời hạn quy định, chấp hành viên lập biên bản về việc bán đấu giá không thành và thông báo cho các đương sự biết.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Mục IV Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
IV. VIỆC TRẢ LẠI ĐƠN YÊU CẦU THI HÀNH ÁN VÀ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN (Các Điều 21, 32 Pháp lệnh)
...
2. Theo khoản 2 Điều 32 Pháp lệnh thì "việc trừ vào thu nhập" được áp dụng khi thi hành án về cấp dưỡng hoặc khi đã kê biên tài sản khác của người phải thi hành án, nhưng tài sản đó không đủ để thi hành án. Tuy nhiên, cần chú ý là nếu người phải thi hành án không có tài sản để kê biên, nhưng có thu nhập, thì Toà án cũng có thể trừ vào thu nhập của họ để thi hành án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VIII Thông tư liên tịch 06-89/TTLN năm 1989 (VB hết hiệu lực: 01/06/1993)

Để thi hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn các Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
...
VIII. VỀ HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA PHÁP LỆNH

Theo quy định tại Điều 42 thì Pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1990. Do đó, kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1990 trở đi, việc tiến hành các thủ tục thi hành án đối với các bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1990 trở đi, cũng như các bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1990, đều phải theo các quy định của Pháp lệnh này.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.