Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993
Số hiệu: 13-L/CTN Loại văn bản: Pháp lệnh
Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Người ký: Lê Đức Anh
Ngày ban hành: 17/04/1993 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 30/06/1993 Số công báo: Số 12
Lĩnh vực: Thi hành án, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 13-L/CTN

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 1993

 

PHÁP LỆNH

SỐ 13-L/CTN NGÀY 17/04/1993 CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

CHỦ TỊCHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội;

NAY CÔNG BỐ:

Pháp lệnh thi hành án dân sự đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá IX) thông qua ngày 17 tháng 4 năm 1993.

PHÁP LỆNH

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của Toà án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân;
Căn cứ vào Điều 91 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Pháp lệnh này quy định việc thi hành các bản án, quyết định dân sự của Toà án.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Những bản án, quyết định dân sự của Toà án.

Những bản án, quyết định dân sự của Toà án nói trong Pháp lệnh này bao gồm bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.

Điều 2

Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án.

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn trọng.

Điều 3

Những bản án, quyết định được thi hành.

Những bản án, quyết định được thi hành theo Pháp lệnh này bao gồm:

1- Những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật:

a) Bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm;

b) Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

c) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

d) Quyết định của Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;

đ) Bản án, quyết định của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận.

2- Những bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay:

a) Bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả công lao động, nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của công dân, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị;

b) Quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án.

Điều 4

Thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

1- Thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án hoặc uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản liên quan đến việc thi hành án ra quyết định thi hành.

Đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm.

Đối với bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm.

Đối với bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó, Toà án nhân dân tối cao chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật cho cơ quan thi hành án nơi mở phiên toà xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm.

2- Đối với bản án, quyết định được thi hành theo yêu cầu của người được thi hành án, thì Toà án không chuyển giao bản sao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án mà cấp các bản sao đó cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dân sự.

3- Việc uỷ thác thi hành án dân sự do Chính phủ quy định.

Điều 5

Căn cứ để thi hành án.

Căn cứ để thi hành án bao gồm:

1- Những bản án, quyết định được thi hành quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này;

2- Quyết định thi hành án trong trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành hoặc quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án.

Điều 6

Biện pháp thi hành án.

Khi bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành thì người phải thi hành án có nghĩa vụ tự nguyện thi hành; nếu không tự nguyện thi hành, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành.

Điều 7

Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành án.

1- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương mình.

2- Lực lượng cảnh sát nhân dân có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan thi hành án hoặc của chấp hành viên.

3- Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hữu quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và công dân có trách nhiệm giúp đỡ, thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc thi hành án.

Điều 8

Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án.

Người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 9

Kiểm sát việc thi hành án.

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên, cơ quan Nhà nước khác, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án, nhằm bảo đảm việc thi hành án đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời theo quy định tại các Điều 19, 20 và 21 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Điều 10

Quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự.

1- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong cả nước.

Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự.

Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bộ Tư pháp có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Giúp Chính phủ chuẩn bị các dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về công tác thi hành án dân sự;

b) Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện công tác thi hành án dân sự; trực tiếp quản lý hệ thống cơ quan thi hành án dân sự; quyết định việc thành lập, giải thể các cơ quan thi hành án dân sự;

c) Thực hiện thanh tra Nhà nước về công tác thi hành án dân sự;

d) Quản lý công tác đào tạo cán bộ và thực hiện chế độ, chính sách đối với chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án dân sự;

đ) Quản lý cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh phí, phương tiện cần thiết cho công tác thi hành án dân sự.

2- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của Chính phủ.

Cơ quan tư pháp địa phương giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự.

Điều 11

Quản lý Nhà nước về công tác thi hành và tổ chức việc thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về công tác thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự và tổ chức các cơ quan thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự.

Chương 2:

CHẤP HÀNH VIÊN, CƠ QUAN THI HÀNH ÁN

Điều 12

Chấp hành viên.

Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này và được pháp luật bảo vệ.

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình chấp hành viên phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án được giao.

Điều 13

Nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên.

Chấp hành viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1- Triệu tập đương sự, người có liên quan đến trụ sở cơ quan thi hành án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án;

2- Định cho người phải thi hành án thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày có quyết định thi hành án để tự nguyện thi hành trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành;

3- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại chương IV của Pháp lệnh này;

4- Yêu cầu chính quyền địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp xử lý tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc thi hành án;

5- Đề nghị Thủ Trưởng Cơ quan thi hành án nơi chấp hành viên công tác ra quyết định hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án, phạt tiền hoặc trực tiếp phạt tiền người cố tình không thi hành án theo quyết định tại Điều 47 của Pháp lệnh này;

6- Yêu cầu Toà án đã ra bản án hoặc quyết định giải thích những điểm chưa rõ để thi hành;

7- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.

Điều 14

Trách nhiệm của chấp hành viên.

Chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật; vi phạm phẩm chất đạo đức của người chấp hành viên, thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Điều 15

Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên, Chấp hành viên trưởng.

Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có kiến thức pháp lý cần thiết và nắm vững nghiệp vụ thi hành án, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng làm nhiệm vụ thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Điều 16

Chế độ đối với chấp hành viên.

Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu, thẻ chấp hành viên để sử dụng khi làm nhiệm vụ và được hưởng thang bậc lương riêng theo quy định của Chính phủ.

Điều 17

Cơ quan quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự và tổ chức việc thi hành án dân sự.

1- Các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự gồm có cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng và các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự địa phương.

2- Các cơ quan thi hành án dân sự gồm có cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và cơ quan thi hành án trong quân đội.

Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự do Chính phủ quy định.

Chương 3:

THỦ TỤC THI HÀNH ÁN

Điều 18

Cấp bản sao bản án, quyết định.

Khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành thì Toà án đã tuyên bản án hoặc quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản sao bản án hoặc quyết định có ghi:"để thi hành".

Khi cấp bản sao bản án, quyết định, Toà án giải thích cho người được thi hành án biết quyền làm đơn yêu cầu thi hành án.

Điều 19

Quyền yêu cầu thi hành án.

Người được thi hành án căn cứ vào bản sao bản án, quyết định có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành.

Nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến cơ quan thi hành án có thẩm quyền để yêu cầu thi hành án. Đơn yêu cầu thi hành án phải được gửi kèm theo bản sao bản án, quyết định của Toà án.

Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu cơ quan thi hành án phải ra quyết định thi hành án.

Điều 20

Thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án.

Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án, quyết định chuyển giao của Toà án, thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành bản án, quyết định về trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản và án phí; các quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án.

Điều 21

Thời hiệu thi hành án.

1- Trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án là cá nhân có quyền gửi đơn đến cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành án. Hết thời hạn đó, nếu người được thi hành án không yêu cầu thi hành, thì bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành.

Thời hạn được tính theo ngày nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến cơ quan thi hành án; hoặc tính theo ngày gửi được ghi trên dấu bưu điện, nếu đơn gửi qua bưu điện.

Trong trường hợp đơn yêu cầu thi hành án được trả lại cho người có đơn yêu cầu thi hành án do người phải thi hành án không có tài sản để thi hành theo quy định tại Điều 27 của Pháp lệnh này, thì thời hạn ba năm được tính từ ngày người phải thi hành án có điều kiện thi hành.

Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ, thì thời hạn ba năm được tính từ ngày việc thi hành bị ngừng.

2- Trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, cơ quan, tổ chức được thi hành án có quyền gửi đơn đến cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành án. Hết thời hạn đó, nếu cơ quan, tổ chức được thi hành án không yêu cầu thi hành, thì bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành.

Thời hạn được tính theo ngày nhận đơn, nếu đơn được trực tiếp đưa đến cơ quan thi hành án; hoặc tính theo ngày gửi được ghi trên dấu bưu điện, nếu đơn gửi qua bưu điện.

3- Trong trường hợp người được thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan nên không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn, thì thời hạn thi hành án được tính từ khi trở ngại đó không còn.

Việc khôi phục thời hiệu thi hành án do thủ trưởng cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án xét và quyết định.

Điều 22

Tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án.

1- Sau khi nhận được quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá ba mươi ngày để tự nguyện thi hành.

Nếu hết thời hạn tự nguyện thi hành mà người phải thi hành án không thi hành, thì chấp hành viên ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại chương IV của Pháp lệnh này.

2- Trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán hoặc huỷ hoại tài sản, thì chấp hành viên quyết định kê biên ngay tài sản.

3- Không được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán hoặc huỷ hoại tài sản, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

Điều 23

Chi phí cưỡng chế thi hành án.

1- Người phải thi hành án chịu mọi chi phí về việc cưỡng chế thi hành án.

2- Cơ quan thi hành án có thể xét miễn hoặc giảm chi phí cưỡng chế thi hành án.

Chi phí cưỡng chế thi hành án, việc miễn hoặc giảm chi phí cưỡng chế thi hành án do Chính phủ quy định.

Điều 24

Hoãn thi hành án.

1- Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án có quyền hoãn thi hành án trong những trường hợp sau đây:

a) Người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án quyết định thì người đó có nghĩa vụ phải tự mình thực hiện;

b) Người được thi hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành.

Khi điều kiện hoãn thi hành án không còn, thì bản án, quyết định được tiếp tục thi hành.

2- Khi cần thiết, người có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án được quyền yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cơ quan thi hành án được yêu cầu phải ra quyết định hoãn thi hành án. Thời hạn hoãn thi hành án không quá ba tháng, kể từ ngày ra quyết định hoãn thi hành án. Hết thời hạn đó mà không có kháng nghị thì cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án.

Điều 25

Tạm đình chỉ thi hành án.

1- Người đã ra kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đó.

2- Khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 24 của Pháp lệnh này, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án có quyền tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi điều kiện tạm đình chỉ không còn.

Điều 26

Đình chỉ thi hành án.

Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án có quyền đình chỉ việc thi hành trong những trường hợp sau đây:

1- Người phải thi hành án chết mà theo bản án, quyết định thì nghĩa vụ thực hiện không được chuyển cho người thừa kế;

2- Người được thi hành án chết mà quyền và lợi ích theo bản án, quyết định không được thừa kế;

3- Người được thi hành án là cá nhân, tổ chức kinh tế tư nhân tự nguyện yêu cầu không thi hành án nữa;

4- Bản án, quyết định bị Toà án có thẩm quyền huỷ bỏ;

5- Thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.

Trong trường hợp quy định tại điểm 3 Điều này, người được thi hành án sau đó không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại.

Điều 27

Trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản sao bản án, quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp có quyết định đình chỉ việc thi hành án hoặc có căn cứ xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành, thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 21 của Pháp lệnh này.

Điều 28

Gửi các quyết định về thi hành án.

Các quyết định thi hành án, cưỡng chế thi hành án, hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, khôi phục thời hiệu thi hành án, phạt tiền, trả lại đơn yêu cầu thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, Toà án đã chuyển giao bản sao bản án, quyết định, đương sự, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án.

Chương 4:

CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

Điều 29

Kê biên tài sản.

1- Chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản của người phải thi hành án. Tài sản thuộc sở hữu riêng được kê biên trước, sau đó kê biên phần tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác. Nếu có tranh chấp về tài sản giữa người phải thi hành án với người khác thì cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án vẫn tiến hành kê biên và giao cho người đang giữ hoặc đang sử dụng tài sản đó bảo quản; người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản tranh chấp có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.

2- Khi kê biên tài sản phải có mặt người phải thi hành án hoặc người đã thành niên trong gia đình, đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến. Người được thi hành án được thông báo về thời gian, địa điểm kê biên tài sản và có quyền có mặt khi kê biên tài sản. Nếu người được thi hành án vắng mặt hoặc người phải thi hành án hay người đã thành niên trong gia đình cố tình vắng mặt, thì chấp hành viên vẫn quyết định tiến hành kê biên.

3- Chấp hành viên chỉ kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với mức đủ để thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án.

Chấp hành viên phải chấp nhận đề nghị của người phải thi hành án về việc kê biên tài sản nào trước, nếu xét thấy đề nghị đó không trở ngại cho việc thi hành án.

Việc kê biên nhà ở chỉ được tiến hành khi những tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án.

Điều 30

Tài sản không được kê biên.

Không được kê biên những tài sản sau đây:

1- Lương thực, thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình;

2- Công cụ lao động, quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình;

3- Đồ dùng thờ cúng thông thường.

Điều 31

Định giá tài sản đã kê biên.

1- Tài sản đã kê biên được định giá tại chỗ theo sự thoả thuận giữa người được thi hành án và người phải thi hành án.

2- Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, thì sau khi kê biên, chấp hành viên mời Hội đồng định giá gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan và do chấp hành viên chủ trì để đánh giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Người được thi hành án, người phải thi hành án được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá.

Điều 32

Giao bảo quản tài sản kê biên.

1- Nếu người được thi hành không đồng ý nhận tài sản đã kê biên để thi hành án, thì chấp hành viên giao tài sản đã kê biên cho người phải thi hành án, thân nhân của họ hoặc người đang sử dụng tài sản đó bảo quản.

Đối với tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ thì việc giao nhận phải theo thủ tục do Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tư pháp quy định.

2- Chấp hành viên phải giải thích cho người được giao bảo quản tài sản đã kê biên về trách nhiệm của họ trong việc bảo quản tài sản.

3- Người được giao bảo quản tài sản được hưởng thù lao và được trả mọi chi phí cần thiết để về bảo quản tài sản, trừ trường hợp họ là người phải thi hành án hoặc là người đang sử dụng tài sản.

Điều 33

Biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản.

Chấp hành viên lập biên bản kê biên, giao bảo quản tài sản. Trong biên bản phải ghi ngày, giờ kê biên, họ và tên chấp hành viên, người được thi hành án, người phải thi hành án và người chứng kiến, mô tả tình trạng từng tài sản, giá đã định, họ và tên người được giao bảo quản tài sản và những yêu cầu của đương sự hoặc ý kiến của người chứng kiến việc kê biên.

Chấp hành viên, đương sự, người chứng kiến và người được giao bảo quản tài sản ký tên vào biên bản. Trong trường hợp có người từ chối ký, thì việc đó phải ghi vào biên bản và ghi rõ lý do.

Biên bản được giao cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người được giao bảo quản tài sản, mỗi người một bản.

Điều 34

Bán đấu giá tài sản đã kê biên.

1- Tài sản đã kê biên để thi hành án được bán đấu giá. Việc định giá được tiến hành theo thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 31 của Pháp lệnh này.

Danh mục tài sản và thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan thi hành án và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự, chậm nhất là bảy ngày, trước ngày bán đấu giá.

2- Tài sản đã kê biên được bán cho người trả giá cao nhất, nếu không có ai trả giá cao hơn giá đã định, thì tài sản được bán cho người mua theo giá mà Hội đồng định giá đã định.

Tài sản không bán được thì được định giá lại để tiếp tục bán đấu giá.

Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người được thi hành án không nhận thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khác.

3- Tài sản đã kê biên nhưng còn tranh chấp quy định tại khoản 1 Điều 29 và khoản 3 Điều 40 của Pháp lệnh này chỉ được bán đấu giá, sau khi có quyết định của Toà án xác định tài sản đó là của người phải thi hành án.

Điều 35

Xử lý tài sản đã tịch thu.

Tài sản đã tịch thu là vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá được giao cho cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý loại tài sản đó theo quy định của pháp luật.

Đối với tài sản khác sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ của người bị tịch thu tài sản, chấp hành viên giao cho cơ quan tài chính xử lý theo quy định của pháp luật.

Điều 36

Bán đấu giá nhà.

Người muốn mua nhà phải nộp đơn và nộp trước một phần trăm (1%) trị giá nhà tại cơ quan thi hành án. Số tiền này được hoàn lại ngay, nếu họ không mua được nhà.

Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày bán đấu giá nhà, người mua được nhà phải trả đủ tiền tại cơ quan thi hành án; nếu họ không trả đủ tiền trong thời hạn đó thì số tiền nộp trước không được trả lại và được nộp vào ngân sách Nhà nước.

Điều 37

Thứ tự thanh toán tiền bán tài sản.

Số tiền bán tài sản, sau khi trừ vào các chi phí về thi hành án, được thanh toán cho người được thi hành án theo thứ tự sau đây:

1- Tiền cấp dưỡng;

2- Tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ;

3- Tiền công lao động;

4- Các khoản phải trả Nhà nước;

5- Các khoản phải trả khác.

Số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

Điều 38

Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

1- Thu nhập cùa người phải thi hành án bao gồm: tiền lương, trợ cấp hưu trí hoặc mất sức, thu nhập của xã viên hợp tác xã và các thu nhập hợp pháp khác.

2- Việc trừ vào thu nhập được áp dụng khi thi hành án về cấp dưỡng hoặc khi đã kê biên tài sản khác của người phải thi hành án, nhưng tài sản đó không đủ để thi hành án.

3- Mức cao nhất được trừ vào lương, trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp mất sức là năm mươi phần trăm (50%). Đối với những khoản thu nhập khác, thì mức trừ căn cứ vào thu nhập thực tế, nhưng phải bảo đảm điều kiện sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án.

Điều 39

Thực hiện quyết định trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

1- Quyết định của chấp hành viên về trừ vào thu nhập được gửi cho người được thi hành án, người phải thi hành án, thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người phải thi hành án làm việc hoặc nhận thu nhập.

Cơ quan, tổ chức, đơn vị nói trên có nghĩa vụ chuyển cho người được thi hành án số tiền được trừ vào thu nhập của người phải thi hành án và báo cho chấp hành viên đã ra quyết định đó biết.

2- Khi người phải thi hành án chuyển đến ở nơi khác, thì nơi trả thu nhập cho người đó phải chuyển quyết định của chấp hành viên đến nơi mới và báo cho chấp hành viên ra quyết định biết. Nơi trả thu nhập mới của người phải thi hành án có nghĩa vụ thi hành quyết định về việc trừ vào thu nhập của người đó.

Điều 40

Trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ.

1- Đối với tài sản của người phải thi hành án đang gửi ở ngân hàng, chấp hành viên yêu cầu Ngân hàng khấu trừ và chuyển cho người được thi hành án số tiền hoặc tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người đó.

2- Đối với tài sản của người phải thi hành án đang cho người khác vay, mượn, thuê hoặc gửi giữ, gửi sửa chữa, chấp hành viên yêu cầu người vay, mượn, thuê hoặc giữ chuyển cho người được thi hành án số tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người đó hoặc kê biên và bán tài sản đó để thi hành án theo quy định tại chương IV của Pháp lệnh này.

3- Nếu có tranh chấp về tài sản quy định tại khoản 2 Điều này, thì cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án vẫn tiến hành kê biên và giao cho người vay, mượn, thuê, giữ hoặc sửa chữa bảo quản tài sản đó; Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản tranh chấp có quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.

Điều 41

Cưỡng chế giao đồ vật.

Trong trường hợp người phải thi hành án bị cưỡng chế giao đồ vật cho người được thi hành án, thì chấp hành viên giao đồ vật đó cho người được thi hành án.

Điều 42

Cưỡng chế trả nhà.

Trong trường hợp cưỡng chế trả nhà cho người được thi hành án, thì chấp hành viên cho chuyển đồ đạc của người phải thi hành án ra khỏi nhà và giao nhà cho người được thi hành án.

Điều 43

Cưỡng chế chấm dứt hành vi trái pháp luật.

Khi người phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt hành vi trái pháp luật thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế chấm dứt hành vi đó.

Chương 5:

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN THI HÀNH ÁN, CHẤP HÀNH VIÊN VÀ KHÁNG NGHỊ QUYẾT ĐỊNH VỀ THI HÀNH ÁN

Điều 44

Khiếu nại, tố cáo hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên.

1- Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án có quyền khiếu nại về hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên.

2- Đối với khiếu nại hành vi trái pháp luật của chấp hành viên thì thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi chấp hành viên công tác giải quyết và trả lời cho người khiếu nại trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Nếu đương sự còn khiếu nại về quyết định của thủ trưởng cơ quan thi hành án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết và trả lời cho đương sự trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có hiệu lực thi hành.

Nếu đương sự còn khiếu nại quyết định của thủ trưởng cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc giải quyết khiếu nại đối với chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án cấp mình, thì thủ trưởng cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Tư pháp giải quyết và trả lời cho đương sự trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.

3- Đối với khiếu nại hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp trên trực tiếp giải quyết và trả lời cho người khiếu nại trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu đương sự còn khiếu nại, thì thủ trưởng cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Tư pháp giải quyết và trả lời cho đương sự trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.

Đối với khiếu nại hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì thủ trưởng cơ quan quản lý công tác thi hành án thuộc Bộ Tư pháp giải quyết và trả lời cho người khiếu nại trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu đương sự còn khiếu nại, thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.

4- Việc giải quyết khiếu nại hành vi trái pháp luật của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án trong quân đội do Chính phủ quy định.

5- Việc tố cáo hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên được giải quyết theo Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân.

Điều 45

Kháng nghị quyết định thi hành án của thủ trưởng cơ quan thi hành án và quyết định của chấp hành viên.

1- Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị với cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới; với chấp hành viên trong việc thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 20 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

2- Cơ quan thi hành án, chấp hành viên có trách nhiệm trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị, theo quy định tại Điều 21 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Chương 6:

KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 46

Khen thưởng.

Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc thi hành án dân sự, thì được khen thưởng theo chế độ hiện hành của Nhà nước.

Điều 47

Xử lý vi phạm.

1- Khi người phải thi hành án đã được giải thích mà không tự nguyện thi hành quyết định của cơ quan thi hành án buộc bản thân họ thực hiện hành vi nhất định, trừ việc giao nộp tài sản, thì chấp hành viên có quyền phạt tiền người đó từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng.

2- Khi cơ quan, tổ chức phải thi hành án không thi hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên thì thủ trưởng cơ quan thi hành án có quyền phạt từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.

3- Người nào cố ý không thi hành bản án, quyết định của Toà án, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết; lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc chấp hành viên thi hành án trái pháp luật; phá huỷ niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại tài sản bị kê biên trong khi thi hành án, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Chương 7:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 48

Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 1993 và thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 1 tháng 1 năm 1990.

Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

Điều 49

Các quy định của Pháp lệnh này cũng được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, nếu điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia không có quy định khác.

Điều 50

Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh này.

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 1993

 

Lê Đức Anh

(Đã ký)

 

- Một số vướng mắc về thi hành án dân sự được hướng dẫn bởi Công văn 44/THA

Trả lời công văn số 48 của Phòng THA Minh Hải, Cục quản lý thi hànhán dân sự có ý kiến như sau:

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH

1. Xử lý hồ sơ khi người phải thi hành án không còn ở địa phương nữa

a. Trường hợp chủ động thi hành: nếu xác minh được địa chỉ mới thì cơ quan thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án và uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi có địa chỉ mới của người phải thi hành án ra quyết định thi hành. Nếu không xác minh được thì cơ quan thi hành án phải lập sổ riêng theo dõi, khi có điều kiện phải đôn đốc thi hành.

b. Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu: Nếu xác minh được địa chỉ mới thì tiến hành uỷ thác theo thủ tục quy định. Nếu không xác minh được thì cơ quan thi hành án áp dụng tượng tự điều 27 pháp lệnh thi hành án dân sự để trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

2. Các bản án, quyết định đã ra quyết định thi hành theo pháp lệnh cũ thì nay vẫn áp dụng các quy định của pháp lệnh mới ngày 21 tháng 4 năm 1993.

3. Các khoản tiền khi thu của đương sự, bao nhiêu lần họ không nhận thì thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01 ngày 10 tháng 12 năm 1987 của Toà án nhân dân tối cao. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao mục b khoản 1: Đối với các khoản tiền một bên đương sự đã nộp, Toà án đã thu gửi ở quỹ cơ quan hoặc gửi ở ngân hàng thì không đặt vấn đề truy thu thêm ở bên đã nộp tiền mà cần giải thích, thuyết phục bên kia nhận tiền. Nếu họ không nhận thì Toà án (thi hành án) lập biên bản rồi giữ số tiền đó ở Ngân hàng và thông báo cho người được nhận biết. Và theo Thông tư 981 thì khi bản án đã hết hiệu lực thi hành, cơ quan thi hành án làm thủ tục nộp số tiền đó vào Ngân sách Nhà nước.

4. Đối với loại tài sản là đất thổ cư, ruộng, đất nuôi trồng thuỷ sản thì trong khi chưa có văn bản hướng dẫn, chấp hành viên không kê biên, nhưng có thể kê biên cây cối hoa màu, thuỷ sản nuôi trồng trên đất đó. Các tài sản khác như xe đò, máy cày, ghe đánh cá ... nếu không phải là công cụ lao động duy nhất, thiết yếu của người phải thi hành án thì chấp hành viên tiến hành kê biên theo thủ tục đã quy định. Nếu số tiền chưa đủ để thi hành án thì chấp hành viên kê biên thêm tài sản khác.

5. Trong trường hợp người phải thi hành án là cơ quan Nhà nước, nay đã sát nhập, phân chia thì pháp nhân nào tiếp tục nhiệm vụ của pháp nhân cũ hoặc tiếp thu tài sản thì đồng thời tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đó. Trong trường hợp tổ chức phải thi hành án đã bị giải thể, thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc giải thể tổ chức đó có trách nhiệm thi hành.

6. Tài sản sau khi được định giá lại mà người mua trả giá thấp hơn, chủ tài sản không đồng ý, người được thi hành án không nhận để khấu trừ, chấp hành viên không có quyền bán theo giá người mua trả mà phải định giá lại và bán đấu giá theo thủ tục quy định hoặc kê biên tài sản khác để thi hành án.

7. Trường hợp đương sự không đồng tình với bản án, làm đơn yêu cầu xem xét giám đốc thẩm, về nguyên tắc cơ quan thi hành án trì hoãn thi hành khi có yêu cầu hoãn của người có quyền kháng nghị. Thời hạn hoãn là 3 tháng. Sau khi có kháng nghị nếu hết 6 tháng mà không có kết quả xét xử thì cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành án.

8. Trường hợp người phải thi hành cố tình vắng mặt mặc dù đã được tống đạt giấy tờ hợp lệ, mà họ có tài sản thì cơ quan thi hành án có quyền tiến hành kê biên tài sản theo các quy định cuả pháp luật với đủ các thành phần tham gia, chứng kiến.

9. Tại điều 10 Nghị định 69/CP quy định: Người phải thi hành án chịu mọi chi phí cưỡng chế bao gồm: chi phí kê biên tài sản (tiền thuê giữ bảo quản, tiền giám định). Chi phí định giá (thù lao cho Hội đồng định giá, tiền thuê địa điểm, phương tiện để tổ chức bán đấu giá, chi phí định giá lại) tiền thuê chuyên chở đồ vật, (thù lao cho những người tham gia cưỡng chế). Các chi phí khác như họp bàn cưỡng chế, xác minh ... do Ngân sách Nhà nước đài thọ.

10. Sau khi nhận được văn bản yêu cầu giải thích của cơ quan thi hành án, thì trong thời hạn 15 ngày, Toà án đã ra bản án trách nhiệm giải thích những điểm chưa rõ. Nếu Toà án không trả lời thì cơ quan thi hành án có thể trả lại bản sao bản án đó cho Toà án đã tuyên.

Trên đây là một số ý kiến của Cục QLTHADS để các đồng chí nghiên cứu tham khảo.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục I, II, III Thông tư liên ngành 981/TTLN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 12/02/2007)

Để thi hành thống nhất một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:

I- VIỆC CẤP, CHUYỂN GIAO BẢN SAO BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH

1. Đối với bản án, quyết định tuy chưa có hiệu lực nhưng được thi hành theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh thì Toà án có trách nhiệm chuyển giao bản sao bản án, quyết định trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm, mà không phân biệt bản án, quyết định đó có bị kháng cáo, kháng nghị hay không.

Khi người được thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án yêu cầu, thì Toà án cấp cho họ bản sao bản án, quyết định đó.

2. Trong các bản án, quyết định của Toà án đều có phần quyết định về án phí. Do đó, Toà án phải chuyển giao đầy đủ bản sao bản án, quyết định được thi hành cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật, (nếu có) cho cơ quan thi hành án. Trong trường hợp Toà án chưa chuyển giao đầy đủ các loại giấy tờ và tang vật nói trên, thì cơ quan thi hành án yêu cầu Toà án chuyển giao đủ. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án phải thực hiện yêu cầu đó.

3. Trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản, mỗi loại hai bản, kèm theo tang vật (nếu có) cho Toà án đã xét xử sơ thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định phúc thẩm, một bản sao bản án, quyết định sơ thẩm cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho cơ quan thi hành án.

4. Trong trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án đã xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chuyển giao bản sao bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, mỗi loại hai bản, cho Toà án đã xét xử sơ thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho cơ quan thi hành án.

5. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định, Toà hình sự hoặc Toà dân sự của Toà án nhân dân tối cao đã xét xử vụ án chuyển giao bản sao bản án, quyết định đó cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi mở phiên toà sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.

Đối với bản án hình sự sở thẩm đồng thời là chung thẩm của Toà án quân sự Trung ương có phần quyết định về tài sản thì Toà án quân sự Trung ương chuyển giao bản sao bản án đó cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành án quân khu và tương đương nơi mở phiên toà sở thẩm đồng thời là chung thẩm.

6. Sau khi nhận được bản sao bản án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận bản án, quyết định và phân loại để xử lý như sau:

a) Đối với phần quyết định của bản án, quyết định thuộc trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành hoặc uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành;

b) Đối với phần quyết định của bản án, quyết định được thi hành theo đơn yêu cầu, thì cơ quan thi hành án vào sổ theo dõi; khi có đơn yêu cầu thi hành án thì ra quyết định thi hành hoặc uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành.

7. Khi cấp bản sao bản án, quyết định cho các đương sự, Toà án không được thu lệ phí giấy tờ đối với bản sao đầu tiên; từ bản sao thứ hai, Toà án được thu lệ phí giấy tờ theo mức quy định của Chính phủ.
II- VIỆC THI HÀNH VỀ ÁN PHÍ

1. Đối với khoản án phí mà đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì cơ quan thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án được thi hành có liên quan đến số tiền đó để thi hành án.

2. Đối với khoản án phí và đương sự chưa nộp tiền tạm ứng án phí, thì cơ quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp để thu án phí.

3. Đối với khoản án phí chưa thể thu được thì cơ quan thi hành án lập sổ theo dõi riêng, ghi rõ lý do từng trường hợp; khi có điều kiện thi hành án thì phải thu ngay án phí.

III- VIỆC NHẬN TIỀN, TÀI SẢN ĐƯỢC NỘP TRƯỚC KHI TOÀ ÁN THỤ LÝ, XÉT XỬ VỤ ÁN

Việc nhận tiền, tài sản do đương sự, bị cáo hoặc người khác nộp trước khi Toà án thụ lý, xét xử vụ án được thực hiện như sau:

1. Trong trường hợp pháp luật quy định các đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án dự tính, ghi số tiền phải nộp và hướng dẫn họ đến nộp cho cơ quan thi hành án cùng cấp. Cơ quan thi hành án nhận tiền và cấp hai biên lại nhận tiền để họ giữ một biên lai và nộp cho Toà án một biên lại đưa vào hồ sơ.

2. Trong trường hợp trước khi xét xử, đương sự, bị cáo hoặc người khác nộp tiền bồi thường thiệt hai, tiền thu lợi bất chính... thì Toà án hướng dẫn họ đến nộp cho cơ quan thi hành án cùng cấp. Cơ quan thi hành án nhận tiền và cấp hai biên lai nhận tiền để họ giữ một biên lai và nộp cho Toà án một biên lại đưa vào hồ sơ.

Trong trường hợp nhận tài sản không phải là tiền, thì cơ quan thi hành án lập biên bản ghi tình trạng, chất lượng tài sản và cấp hai bản sao biên bản đó để họ giữ một bản sao và nộp cho Toà án một bản sao đưa vào hồ sơ.

3. Cơ quan thi hành án phải lập sổ riêng theo dõi việc nhận tiền, tài sản do đương sự, bị cáo hoặc người khác nộp trước khi Toà án thụ lý, xét xử. Việc gửi, quản lý tiền, tài sản đó phải thực hiện theo quy định của Nhà nước.

4. Khi bản án, quyết định của Toà án được thi hành. Việc xét xử số tiền, tài sản đã nộp trước khi Toà án thụ lý, xét xử vụ án được thực hiện theo phần quyết định của bản án, quyết định có liên quan đến số tiền, tài sản đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 1 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 1.

1. Trưởng Phòng thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh), ra quyết định thi hành các bản án, quyết định được thi hành sau đây:

a) Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

b) Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của Đội thi hành án quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nhưng do tính chất phức tạp của việc thi hành án mà Phòng thi hành án cấp tỉnh thấy cần thiết lấy lên để thi hành;

c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho Phòng thi hành án cấp tỉnh;

d) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.

2. Trưởng Phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương (sau đây gọi tắt là Trưởng Phòng thi hành án quân khu), ra quyết định thi hành các quyết định về tài sản trong bản án hình sự được thi hành sau đây:

a) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toá án quân sự quân khu và tương đương;

b) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự khu vực trên địa bàn của Toà án quân khu và tương đương;

c) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự Trung ương chuyển giao cho Phòng thi hành án quân khu;

d) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự do Phòng thi hành án quân khu khác uỷ thác;

e) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác.

3. Đội trưởng Đội thi hành án ra quyết định thi hành các bản án, quyết định được thi hành sau đây:

a) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

b) Bản án, quyết định phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

c) Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc của Toà án nhân dân tối cao do Phòng thi hành án cấp tỉnh uỷ thác cho Đội thi hành án;

d) Bản án, quyết định do Phòng thi hành án, Đội thi hành án nơi khác uỷ thác;

e) Quyết định về tài sản trong bản án hình sự do Phòng thi hành án quân khu uỷ thác.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn từ Điều 2 đến Điều 5 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 2.

1. Chỉ được uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc có tài sản. Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án, nhưng xét thấy cần uỷ thác thì phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án và uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành.

2. Việc uỷ thác thi hành án được thực hiện trực tiếp giữa các cơ quan thi hành án cùng cấp không phân biệt địa bàn hoạt động, cơ quan thi hành án dân sự hay cơ quan thi hành án trong quân đội.

3. Phòng thi hành án cấp tỉnh uỷ thác trực tiếp cho Đội thi hành án thuộc địa phương mình hoặc cho Đội thi hành án cấp tỉnh của địa phương mình.

4. Cơ quan thi hành án nhận uỷ thác, nếu không có điều kiện thực hiện uỷ thác thì giải quyết như sau:

a) Trong trường hợp cơ quan thi hành án đã uỷ thác chủ động ra quyết định thi hành thì cơ quan nhận uỷ thác phải uỷ thác tiếp cho cơ quan thi hành án nơi có điều kiện thi hành;

b) Trong trường hợp cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án thì cơ quan nhận uỷ thác trả lại đơn yêu cầu cho đương sự và hướng dẫn việc gửi đơn yêu cầu đến cơ quan nơi có điều kiện thi hành.

Điều 3. Trong trường hợp thi hành bản án, quyết định mà có liên quan đến nhiều người phải thi hành án ở các địa phương khác nhau hoặc tài sản, thu nhập của họ ở những địa phương khác nhau, thì được uỷ thác từng phần cho cơ quan thi hành án ở các địa phương đó.

Điều 4.

1. Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh, Đội trưởng Đội thi hành án, Trưởng Phòng thi hành án quân khu có quyền ra các quyết định uỷ thác.

2. Phòng thi hành án cấp tỉnh trực tiếp tổ chức thi hành hoặc uỷ thác cho Phòng thi hành án cấp tỉnh nơi khác ra quyết định thi hành trong những trường hợp sau đây:

a) Thi hành bản án, quyết định về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan Nhà nước cấp tỉnh trở lên;

b) Thi hành bản án, quyết định có nhân tố nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

3. Trưởng Phòng thi hành án có thể uỷ thác cho Đội trưởng Đội thi hành án ra quyết định thi hành một phần bản án, quyết định trong những trường hợp sau đây:

a) Phần bản án, quyết định liên quan đến tài sản kê biên, tạm giữ và tang vật được Toà án chuyển giao thì Phòng thi hành án cấp tỉnh trực tiếp thi hành. Phần bản án, quyết định còn lại nếu Phòng thi hành án cấp tỉnh không có điều kiện trực tiếp thi hành thì phải uỷ thác cho Đội thi hành án ra quyết định thi hành;

b) Việc thi hành bản án, quyết định có liên quan đến nhiều quận, huyện trong tỉnh, thành phố hoặc ở các tỉnh, thành phố khác nhau.

4. Trưởng Phòng thi hành án quân khu có thể uỷ thác cho Trưởng Phòng thi hành án cấp tỉnh hoặc Đội trưởng Đội thi hành án và ngược lại.

Điều 5.

1. Quyết định uỷ thác phải ghi rõ nội dung uỷ thác, khoản đã thi hành xong, khoản đang thi hành dở dang, khoản cần tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện uỷ thác.

Quyết định uỷ thác phải kèm theo bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản.

2. Cơ quan thi hành án đã uỷ thác có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao bản án, quyết định, Viện Kiểm sát cùng cấp và người được thi hành án biết việc uỷ thác.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VII Thông tư liên ngành 981/TTLN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 12/02/2007)

Để thi hành thống nhất một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:
...
VII. KIỂM SÁT VIỆC THI HÀNH ÁN

1. Trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiến hành kiểm sát công tác thi hành án, cụ thể là:

a) Kiểm sát hoạt động của Toà án trong việc chấp hành các quy định của pháp luật thi hành án dân sự về:

- Thời hạn và thủ tục chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản, tang vật chuyển giao tài sản tang vật.

- Việc cấp bản sao bản án, quyết định cho các đương sự.

b) Kiểm sát việc các cơ quan thi hành án, chấp hành viên tuân theo các quy định của pháp luật thi hành án dân sự về:

- Việc ra các quyết định về thi hành án và quyết định uỷ thác thi hành án;

- Thủ tục thi hành án, thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án; - Việc giải quyết khiếu nại hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, của chấp hành viên.

c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của lực lượng cảnh sát nhân dân trong việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.

2. Khi tiến hành kiểm sát việc thi hành án, Viện kiểm sát có quyền:

a) Yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân nói trên tự kiểm tra và thông báo cho Viện kiểm sát biết kết quả tự kiểm tra; yêu cầu cung cấp tài liệu, vật chứng liên quan đến việc thi hành án. Văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát phải xác định rõ đối tượng, nội dung tự kiểm tra hoặc cung cấp tài liệu, thời hạn trả lời kết quả tự kiểm tra hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng. Các yêu cầu của Viện kiểm sát phải được thực hiện trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

b) Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Khi thực hiện quyền này, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phải ra quyết định xác định rõ đối tượng, nội dung, phạm vi các vấn đề kiểm sát, thời điểm và thời gian tiến hành, kết thúc việc kiểm sát; phân công kiểm sát viên, cán bộ thực hiện và lập văn bản kết luận cuộc kiểm sát trực tiếp;

c) Kháng nghị với Toà án cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm thi hành án, nếu có vi phạm pháp luật; kháng nghị các quyết định thi hành án trái pháp luật.

Khi nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nói trên có trách nhiệm trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị;

d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính người vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố về hình sự; khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan cấp trên nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát đối với cấp dưới của mình thì thời hạn trả lời là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị.

Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân hữu quan không nhất trí với nội dung kháng nghị, thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó có quyền đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét lại kháng nghị hoặc quyết định đó. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét và trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ thi hành án. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Chương 2 và Chương 3 Nghị định 30-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 03/05/2005)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 2: CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Điều 7. - Các cơ quan Thi hành án dân sự nói tại khoản 2, Điều 17 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự bao gồm:
...
Điều 8. - Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 9. - Phòng Thi hành án quân khu và cấp tương đương có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
Điều 10. - Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 11. - Khiếu nại hành vi trái pháp luật của chấp hành viên thi hành án trong quân đội do Trưởng phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu đương sự còn khiếu nại quyết định của Trưởng phòng Thi hành án Quân khu và cấp tương đương, thì trưởng Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng giải quyết và trả lời cho đương sự trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của trưởng phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng có hiệu lực thi hành.

Điều 12. - Tổng biên chế, kinh phí của các cơ quan thi hành án dân sự do Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng, Trưởng ban Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định và phân bổ biên chế, kinh phí cho các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
...
Chương 3: CHẤP HÀNH VIÊN

Điều 13.
...
Điều 14. - Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng Phòng Thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ trưởng bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Cục trưởng cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
...
Điều 15. - Chấp hành viên được cấp thẻ chấp hành viên để sử dụng trong khi thi hành nhiệm vụ.
...
Điều 16.
...
Điều 17. - Các trang phục được cấp gồm có:
...
Điều 18.

Xem nội dung VB
- Khoản này được hướng dẫn bởi Khoản 10 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH
...
10. Sau khi nhận được văn bản yêu cầu giải thích của cơ quan thi hành án, thì trong thời hạn 15 ngày, Toà án đã ra bản án trách nhiệm giải thích những điểm chưa rõ. Nếu Toà án không trả lời thì cơ quan thi hành án có thể trả lại bản sao bản án đó cho Toà án đã tuyên.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 13 và Điều 14 Nghị định 30-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 03/05/2005)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 13.

1. Công dân Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên, chấp hành viên trưởng:

a) Trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, khách quan, có phẩm chất đạo đức tốt;

b) Có kiến thức pháp lý cần thiết;

c) Nắm vững nghiệp vụ thi hành án;

d) Có sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

2. Chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có các tiêu chuẩn chung quy định tại khoản 1 Điều này và có các tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

a) Có trình độ đại học pháp lý hoặc tương đương;

b) Đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án.

3. Chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải có các tiêu chuẩn chung quy định tại khoản 1 Điều này và có các tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

a) Có trình độ đại học pháp lý hoặc tương;

b) Đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án;

c) Có thâm niên công tác luật từ ba năm trở lên, hoặc đã làm chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ít nhất là hai năm.

4. Chấp hành viên trưởng, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có đủ tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

a) Đã làm chấp hành viên quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ít nhất hai năm;

b) Có năng lực quản lý, điều hành công việc thi hành án.

5. Chấp hành viên Trưởng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải có đủ các tiêu chuẩn cụ thể sau đây:

a) Đã làm chấp hành viên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ ba năm trở lên hoặc đã làm chấp hành viên trưởng quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh từ hai năm trở lên;

b) Có năng lực quản lý, điều hành công việc thi hành án.

6. Chấp hành viên, chấp hành viên trưởng thi hành án trong quân đội phải có các tiêu chuẩn chung quy định tại khoản 1 Điều này và có các tiêu chuẩn cụ thể do Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Điều 14. - Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng Phòng Thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ trưởng bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Cục trưởng cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên trưởng Đội thi hành án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chấp hành viên, chấp hành viên trưởng làm nhiệm vụ thi hành quyết định về tài sản trong bản án hình sự của toà án quân sự do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ quốc phòng theo đề nghị của trưởng phòng Quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn từ Điều 15 đến Điều 17 Nghị định 30-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 03/05/2005)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 15. - Chấp hành viên được cấp thẻ chấp hành viên để sử dụng trong khi thi hành nhiệm vụ.
...
Điều 16.
...
Điều 17. - Các trang phục được cấp gồm có:

Xem nội dung VB
- Cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự được hướng dẫn bởi Chương 1 Nghị định 30-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 03/05/2005)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 1: CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Điều 1. - Các cơ quan quản lý công tác Thi hành án dân sự nói tại Khoản 1 Điều 17 của Pháp lệnh thi hánh án dân sự bao gồm:
...
Điều 2. - Cục Quản lý Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 3. - Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 4. - Các cơ quan Tư pháp địa phương giúp Uỷ ban Nhân dân cùng cấp và cơ quan tư pháp cấp trên trong việc quản lý Nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cơ quan Tư pháp cấp trên về tình hình quản lý công tác thi hành án và tổ chức việc Thi hành án dân sự.

Điều 5. - Sở Tư pháp giúp Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc Thi hành án ở địa phương theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự; Giúp Bộ Tư pháp tổ chức kiểm tra, thanh tra công tác Thi hành án của Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; bồi dưỡng nghiệp vụ cho chấp hành viên và cán bộ làm công tác Thi hành án.

Điều 6. - Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp và Sở Tư pháp chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong việc Thi hành án ở địa phương theo quy định tại khoản 1, Điều 7 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự.

Xem nội dung VB
- Cơ quan thi hành án dân sự được hướng dẫn bởi Chương 2 Nghị định 30-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 03/05/2005)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 2: CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Điều 7. - Các cơ quan Thi hành án dân sự nói tại khoản 2, Điều 17 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự bao gồm:
...
Điều 8. - Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 9. - Phòng Thi hành án quân khu và cấp tương đương có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
Điều 10. - Đội thi hành án thuộc Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
...
Điều 11. - Khiếu nại hành vi trái pháp luật của chấp hành viên thi hành án trong quân đội do Trưởng phòng thi hành án quân khu và cấp tương đương giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu đương sự còn khiếu nại quyết định của Trưởng phòng Thi hành án Quân khu và cấp tương đương, thì trưởng Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng giải quyết và trả lời cho đương sự trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của trưởng phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ quốc phòng có hiệu lực thi hành.

Điều 12. - Tổng biên chế, kinh phí của các cơ quan thi hành án dân sự do Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng, Trưởng ban Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định và phân bổ biên chế, kinh phí cho các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

Xem nội dung VB
- Xử lý hồ sơ khi người phải thi hành án không còn ở địa phương được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH

1. Xử lý hồ sơ khi người phải thi hành án không còn ở địa phương nữa

a. Trường hợp chủ động thi hành: nếu xác minh được địa chỉ mới thì cơ quan thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án và uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi có địa chỉ mới của người phải thi hành án ra quyết định thi hành. Nếu không xác minh được thì cơ quan thi hành án phải lập sổ riêng theo dõi, khi có điều kiện phải đôn đốc thi hành.

b. Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu: Nếu xác minh được địa chỉ mới thì tiến hành uỷ thác theo thủ tục quy định. Nếu không xác minh được thì cơ quan thi hành án áp dụng tượng tự điều 27 pháp lệnh thi hành án dân sự để trả lại đơn yêu cầu thi hành án.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Chương 2 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 2: THỦ TỤC THI HÀNH ÁN

Điều 8.
...
Điều 9.
...
Điều 10.
...
Điều 11.
...
Điều 12.
...
Điều 13. Trong trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án có trách nhiệm theo dõi, xác minh tài sản, thu nhập của người phải thi hành án để bảo đảm việc thi hành án.

Điều 14. Việc tự nguyện yêu cầu không thi hành án của người được thi hành án phải được thể hiện trong đơn yêu cầu hoặc biên bản ghi rõ yêu cầu và người đó không còn quyền yêu cầu thi hành án trở lại.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Công văn 325/CA 1996

Sau khi Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 17/4/1993, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư liên ngành số 981/TT-LN ngày 21/9/1993 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự. Nhìn chung nhiều Toà án thực hiện tốt việc chuyển giao bản sao bản án; tang vật, tài sản, tài liệu liên quan đến việc thi hành án cho Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.

Tuy nhiên còn một số Toà án chấp hành không nghiêm về thời hạn chuyển giao bản sao bản án, quyết định của Toà án cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp như: chuyển giao chậm, thậm chí có khi vài ba tháng chuyển giao một lần hoặc khi cơ quan thi hành án có yêu cầu mới chuyển, do đó đã gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương, gây phiền hà cho người được thi hành án.

Toà án nhân dân tối cao yêu cầu các Toà án nhân dân các cấp thực hiện đúng thời hạn chuyển giao bản sao bản án, quyết định của Toà án cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp đã được quy định tại các điểm 1, 2, 3, 4, 5 tại Mục I trong Thông tư liên ngành số 981/TT-LN ngày 21/9/1993 Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp.

Các Chánh án Toà án nhân dân các cấp, các Chánh toà các Toà phúc thẩm, Toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tối cao tăng cường kiểm tra, đôn đốc các bộ phận xét xử, đánh máy, văn thư của Toà án nơi mình phụ trách thực hiện nghiêm chỉnh quy định về thời hạn chuyển giao bản sao bản án và quyết định của Toà án cho Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục I Thông tư liên ngành 981/TTLN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 12/02/2007)

Để thi hành thống nhất một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:

I- VIỆC CẤP, CHUYỂN GIAO BẢN SAO BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH

1. Đối với bản án, quyết định tuy chưa có hiệu lực nhưng được thi hành theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh thì Toà án có trách nhiệm chuyển giao bản sao bản án, quyết định trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm, mà không phân biệt bản án, quyết định đó có bị kháng cáo, kháng nghị hay không.

Khi người được thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thi hành án yêu cầu, thì Toà án cấp cho họ bản sao bản án, quyết định đó.

2. Trong các bản án, quyết định của Toà án đều có phần quyết định về án phí. Do đó, Toà án phải chuyển giao đầy đủ bản sao bản án, quyết định được thi hành cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật, (nếu có) cho cơ quan thi hành án. Trong trường hợp Toà án chưa chuyển giao đầy đủ các loại giấy tờ và tang vật nói trên, thì cơ quan thi hành án yêu cầu Toà án chuyển giao đủ. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Toà án phải thực hiện yêu cầu đó.

3. Trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Toà án chuyển giao bản sao bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản, mỗi loại hai bản, kèm theo tang vật (nếu có) cho Toà án đã xét xử sơ thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định phúc thẩm, một bản sao bản án, quyết định sơ thẩm cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho cơ quan thi hành án.

4. Trong trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Toà án đã xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm chuyển giao bản sao bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, mỗi loại hai bản, cho Toà án đã xét xử sơ thẩm. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được các bản sao đó, Toà án đã xét xử sở thẩm có trách nhiệm chuyển giao một bản sao bản án, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm cho cơ quan thi hành án.

5. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định, Toà hình sự hoặc Toà dân sự của Toà án nhân dân tối cao đã xét xử vụ án chuyển giao bản sao bản án, quyết định đó cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi mở phiên toà sơ thẩm đồng thời là chung thẩm.

Đối với bản án hình sự sở thẩm đồng thời là chung thẩm của Toà án quân sự Trung ương có phần quyết định về tài sản thì Toà án quân sự Trung ương chuyển giao bản sao bản án đó cùng với bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản kèm theo tang vật (nếu có) cho Phòng thi hành án quân khu và tương đương nơi mở phiên toà sở thẩm đồng thời là chung thẩm.

6. Sau khi nhận được bản sao bản án, quyết định do Toà án chuyển giao, cơ quan thi hành án phải vào sổ nhận bản án, quyết định và phân loại để xử lý như sau:

a) Đối với phần quyết định của bản án, quyết định thuộc trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành, thì thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành hoặc uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành;

b) Đối với phần quyết định của bản án, quyết định được thi hành theo đơn yêu cầu, thì cơ quan thi hành án vào sổ theo dõi; khi có đơn yêu cầu thi hành án thì ra quyết định thi hành hoặc uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi khác ra quyết định thi hành.

7. Khi cấp bản sao bản án, quyết định cho các đương sự, Toà án không được thu lệ phí giấy tờ đối với bản sao đầu tiên; từ bản sao thứ hai, Toà án được thu lệ phí giấy tờ theo mức quy định của Chính phủ.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch 02-TTLN năm 1993

Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 21-4-1993, Pháp lệnh lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam ngày 28-1-1989, Nghị định số 30-CP ngày 2-6-1993 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên, chỉ thị 266-TTg ngày 2-6-1993 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự đã quy định vấn đề thi hành án dân sự và vấn đề cưỡng chế cũng như bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án dân sự.

Để bảo đảm thực hiện đúng đắn và thống nhất các quy định của pháp luật về bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án, nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trong tình hình mới, sau khi thống nhất ý kiến với Toà án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm cụ thể sau đây:

1. Các phòng thi hành án phải xác định những vụ cưỡng chế thi hành án nào cần có lực lượng cảnh sát bản vệ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan công an cùng cấp biết.

Trong thông báo cần ghi rõ:

- Thời gian địa điểm tiến hành cưỡng chế;

- Biện pháp cưỡng chế;

- Đối tượng bị cưỡng chế;

- Những khả năng xấu có thể xảy ra;

- Nhu cầu về lực lượng bảo vệ và các lực lượng tham gia bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án.

Thông báo cũng phải được gửi cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để thực hiện chức năng kiểm sát và cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi sẽ tiến hành cưỡng chế để Uỷ ban cử người tham gia và phối hợp giúp đỡ khi cần thiết.

Thông báo về việc cưỡng chế thi hành án cần được gửi cho những cơ quan nói trên chậm nhất là 3 ngày trước ngày cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu chấp hành viên thấy cần phải kê biên tài sản ngay thì không nhất thiết phải báo trước 3 ngày.

Người nhận được thông báo có trách nhiệm giữ bí mật về tổ chức cưỡng chế thi hành án.

Đối với những vụ cưỡng chế thi hành án phức tạp, có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương thì các phòng thi hành án, các đội thi hành án phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan Tư pháp để chủ động phối hợp với cơ quan công an và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp họp bàn và thống nhất phương án bảo vệ trật tự an toàn cho việc cưỡng chế thi hành án, đồng thời báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo và phối hợp các lực lượng khác tham gia (ví dụ: lực lượng kiểm soát quân sự, dân quân tự vệ...).

2. Khi nhận được thông báo về cưỡng chế thi hành án, cơ quan công an cần chủ động chuẩn bị phương án bảo vệ, bố trí đủ lực lượng và phương tiện cần thiết để thi hành nhiệm vụ.

Cán bộ chiến sĩ cảnh sát được cử đến bảo vệ trật tự khi cưỡng chế thi hành án có trách nhiệm có mặt từ trước khi bắt đầu đến khi kết thúc việc cưỡng chế thi hành án để làm nhiệm vụ duy trì trật tự và bảo đảm an toàn trong suốt quá trình cưỡng chế thi hành án, tự mình hoặc theo yêu cầu của chấp hành viên áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn kịp thời những người có hành vi gây rối trật tự, cản trở hoặc chống người thi hành công vụ, có lời nói hoặc hành động xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của cán bộ tiến hành cưỡng chế và những người tham gia cưỡng chế thi hành án; khi phát hiện trường hợp phạm tội quả tang thì cán bộ, chiến sĩ cảnh sát phải bắt ngay người phạm tội, lập biên bản và giải ngay đến cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định tại Điều 64 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Cán bộ, chiến sĩ cảnh sát trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu hợp pháp của chấp hành viên và chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với việc bảo đảm trật tự và an toàn trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự.

Các cơ quan thi hành án có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho cảnh sát bảo vệ cưỡng chế thi hành án làm nhiệm vụ.

3. Khi làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự cưỡng chế thi hành án dân sự, cán bộ, chiến sĩ cảnh sát được quyền phạt cảnh cáo, hoặc phạt tiền đối với người gây rối trật tự hoặc xúc phạm những người tiến hành hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Nghị định số 141/HĐBT ngày 25-4-1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn xã hội. Cụ thể là:

- Chiến sĩ cảnh sát được phạt tiền đến 20.000 đồng;

- Trưởng công an phường, đội trưởng, đội phó đội cảnh sát bảo vệ được phạt tiền đến 50.000 đồng;

- Trưởng phòng, phó trưởng phòng cảnh sát bảo vệ đến cấp tỉnh, trưởng, phó công an huyện, quận được phạt tiền đến 200.000 đồng.

Trường hợp mức phạt tiền vượt quá thẩm quyền của cán bộ, chiến sĩ cảnh sát đang làm nhiệm vụ thì chấp hành viên phải lập biên bản về vi phạm và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt theo đúng pháp luật. Mức phạt tiền có thể lên đến 500.000 đồng.

4. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình cưỡng chế thi hành án, kiểm sát các hoạt động của chấp hành viên, cán bộ, chiến sĩ cảnh sát bảo vệ cưỡng chế, đương sự, cơ quan, đơn vị và cá nhân hữu quan theo quy định tại các Điều 19, 20, 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

5. Định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý, cơ quan tư pháp phối hợp với cơ quan công an và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp họp bàn rút kinh nghiệm về việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự; mỗi cơ quan cần thường xuyên chỉ đạo, hưỡng dẫn và kiểm tra cấp dưới thực hiện việc bảo vệ các vụ cưỡng chế thi hành án dân sự, đồng thời báo cáo tình hình và những vướng mắc về việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế thi hành án lên cơ quan cấp trên trực tiếp và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để xin ý kiến chỉ đạo.

Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ để chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc phối hợp thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ở địa phương, có những uốn nắn chấn chỉnh kịp thời bảo đảm cho việc cưỡng chế thi hành án được tiến hành an toàn, có trật tự và đạt kết quả tốt.

Bộ Nội vụ chỉ đạo công an các cấp bố trí lực lượng để thường xuyên bảo đảm thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án về bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự.

6. Cơ quan tư pháp, Công an và Viện kiểm sát nhân dân địa phương tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện Thông tư này, đồng thời báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp và thông báo cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn biết để phối hợp thực hiện.

Thông tư này thay thế thông tư liên ngành số 07-89/TTLN ngày 10 tháng 12 năm 1989 của Toà án nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ hướng dẫn việc bảo vệ cưỡng chế thi hành án dân sự

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Điều 10 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 10.

1. Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án, bao gồm:

a) Chi phí kê biên tài sản: tiền thuê giữ hoặc bảo quản tài sản đã kê biên, tiền giám định tài sản đã kê biên;

b) Chi phí định giá tài sản: tiền thù lao cho các thành viên của Hội đồng định giá, tiền thuê địa điểm, phương tiện để tổ chức bán đấu giá, chi phí tổ chức định giá lại tài sản;

c) Tiền thuê chuyên chở đồ vật, tài sản, chi phí thù lao cho những người tham giá cưỡng chế trong thời gian tổ chức cưỡng chế thi hành án.

2. Mức chi phí cưỡng chế thi hành án phải thực tế, hợp lý do chấp hành viên tính toán và phải được Thủ trưởng cơ quan thi hành án duyệt và thông báo cho người phải thi hành án biết.

3. Chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án nộp hoặc được khấu trừ vào tiền bán đấu giá tài sản đã bị kê biên, hoặc khấu trừ vào tài sản của người phải thi hành án đang do người khác giữ, thuê, vay, mượn, sửa chữa.

4. Nếu người phải thi hành án thực sự có khó khăn về kinh tế, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thể xét miễn một phần hoặc toàn bộ chi phí cưỡng chế thi hành án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 7 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH
...
7. Trường hợp đương sự không đồng tình với bản án, làm đơn yêu cầu xem xét giám đốc thẩm, về nguyên tắc cơ quan thi hành án trì hoãn thi hành khi có yêu cầu hoãn của người có quyền kháng nghị. Thời hạn hoãn là 3 tháng. Sau khi có kháng nghị nếu hết 6 tháng mà không có kết quả xét xử thì cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục thi hành án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 11 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 11.

1. Thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án có quyền hoãn thi hành án trong những trường hợp:

a) Người phải thi hành án ốm nặng mà theo bản án, quyết định thì người đó phải tự mình thực hiện. Việc hoãn thi hành án trong trường hợp này không áp dụng đối với việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản, nếu người phải thi hành án tuy ốm nặng mà vẫn có tài sản để thi hành án;

b) Người được thi hành án yêu cầu hoặc đồng ý cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành. Nếu người được thi hành án yêu cầu hoãn thi hành án, thì phải có đơn hoặc rút lại đơn yêu cầu thi hành án.

Nếu người phải thi hành án yêu cầu hoãn việc thi hành án mà được người được thi hành án đồng ý, thì việc đó phải được lập biên bản, có chữ ký của các đương sự. Đơn yêu cầu hoặc biên bản phải ghi rõ nội dung yêu cầu và thời hạn hoãn thi hành án. Thời hạn hoãn thi hành án được tính vào thời hiệu thi hành án.

Khi điều kiện hoãn thi hành án không còn thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án.

2. Việc hoãn thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều này chỉ được áp dụng trong trường hợp cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án, mà chưa tổ chức việc cưỡng chế thi hành án.

3. Khi cần thiết, người có quyền kháng nghị bản án, quyết dịnh của Toà án được quyền yêu cầu hoãn thi hành án để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án khi phát hiện bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật, cần phải hoãn ngay việc thi hành để tránh hậu quả không thể khắc phục được và chỉ được thực hiện trước khi tiến hành việc cưỡng chế thi hành án.

Việc yêu cầu hoãn thi hành án phải được thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án, ghi rõ thời hạn hoãn thi hành án, nhưng không được quá ba tháng, kể từ ngày ra quyết định hoãn thi hành. Văn bản yêu cầu hoãn thi hành án phải do người có quyền kháng nghị ký. Trong trường hợp đã có văn bản mà cần thông báo ngay bằng điện thoại, điện tín, thì phải thông báo cho cơ quan thi hành án biết số, ngày, nội dung chủ yếu và người ký văn bản yêu cầu hoãn thi hành án.

Khi nhận được yêu cầu hoãn thi hành án, cơ quan thi hành án phải ra ngay quyết định hoãn thi hành án và thông báo cho người đã yêu cầu biết. Hết thời hạn ba tháng mà không có kháng nghị, thì cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án và thông báo cho người đã yêu cầu hoãn thi hành án biết. Trong trường hợp nhận được yêu cầu hoãn thi hành án mà bản án, quyết định đã được thi hành xong, thì cơ quan thi hành án cần thông báo ngay cho người đã yêu cầu hoãn thi hành án biết.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 12 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 12.

1. Người kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền tạm đình chỉ việc thi hành án, quyết định đó; việc ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án chỉ được thực hiện khi đã có kháng nghị. Nếu có kháng nghị mà cần thông báo ngay quyết định tạm đình chỉ thi hành án, thì được thông báo bằng điện thoại, điện tín cho cơ quan thi hành án biết số, ngày, nội dung chủ yếu và người ký kháng nghị.

2. Hết thời hạn sáu tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị mà cơ quan thi hành án vẫn chưa nhận được văn bản thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định tiếp tục việc thi hành án và thông báo cho người đã ra kháng nghị biết.

Trong trường hợp nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có quyền kháng nghị mà bản án, quyết định đã được thi hành xong, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án phải thông báo ngay cho người đó biết.

3. Khi bản án, quyết định của Toà án đã được thi hành một phần mà có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 11 của Nghị định này, thì Thủ trưởng cơ quan đã ra quyết định thi hành án có quyền tạm đình chỉ thi hành án cho đến khi điều kiện tạm đình chỉ không còn.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Chương 3 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

Điều 15.
...
Điều 16. Không được kê biên những tài sản sau đây:
...
Điều 17.
...
Điều 18.
...
Điều 19. Thủ trưởng, kế toán trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, người sử dụng lao động nơi người phải thi hành án làm việc hoặc nhận thu nhập phải thực hiện quyết định của chấp hành viên về việc trừ vào thu nhập của người đó, chuyển số tiền trừ được cho người được thi hành án và thông báo cho chấp hành viên đã ra quyết định biết.

Điều 20.

Xem nội dung VB
- Kê biên đối với đất thổ cư, ruộng, đất nuôi trồng thủy sản được hướng dẫn bởi Khoản 4 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH
...
4. Đối với loại tài sản là đất thổ cư, ruộng, đất nuôi trồng thuỷ sản thì trong khi chưa có văn bản hướng dẫn, chấp hành viên không kê biên, nhưng có thể kê biên cây cối hoa màu, thuỷ sản nuôi trồng trên đất đó. Các tài sản khác như xe đò, máy cày, ghe đánh cá ... nếu không phải là công cụ lao động duy nhất, thiết yếu của người phải thi hành án thì chấp hành viên tiến hành kê biên theo thủ tục đã quy định. Nếu số tiền chưa đủ để thi hành án thì chấp hành viên kê biên thêm tài sản khác.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Mục VI Thông tư liên ngành 981/TTLN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 12/02/2007)

Để thi hành thống nhất một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:
...
VI. VIỆC KÊ BIÊN TÀI SẢN

1. Trong trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn mức phải thi hành án và tài sản đó là một vật thể thống nhất, nếu tách ra từng phần thì mất hoặc giảm một cách đáng kể giá trị sử dụng của tài sản, chấp hành viên phải có quyền kê biên tài sản đó. Sau khi bán đấu giá tài sản và thanh toán các chi phí về thi hành án, số tiền còn lại được trả cho người phải thi hành án.

2. Khi kê biên tài sản, nếu có tranh chấp về tài sản bị kê biên, thì chấp hành viên giải thích cho người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản tranh chấp về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý đơn khới kiện. Toà án phải khẩn trương giải quyết về tài sản để việc thi hành án được tiếp tục, bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.

Hết thời hạn ba tháng, kể từ ngày kê biên tài sản, mà không có người khởi kiện, thì tài sản bị kê biên được xử lý để thi hành án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 15 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 15.

1. Khi kê biên tài sản đang tranh chấp và giao cho người đang giữ hoặc đang sử dụng tài sản đó bảo quản, chấp hành viên phải lập biên bản ghi rõ thực trạng tài sản, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giữ hoặc bảo quản tài sản, người được giao bảo quản tài sản không được chuyển dịch tài sản đó khi Toà án chưa giải quyết xong vụ án.

Việc kê biên tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước, xí nghiệp liên doanh, công ty cổ phần do Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện.

2. Khi kê biên tài sản của người phải thi hành án, chấp hành viên phải tạm tính trị giá các tài sản định kê biên và các chi phí về thi hành án cần phải thanh toán để kê biên tương ứng với mức đủ để thi hành án.

Nếu các đương sự thoả thuận được giá cả tài sản đã kê biên, thì chấp hành viên lập biên bản ghi rõ thoả thuận, có chữ ký của các đương sự.

Chấp hành viên lập Hội đồng định giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên khi các đương sự không thoả thuận được về giá cả hoặc việc định giá đòi hỏi phải có cán bộ chuyên môn tham gia.

3. Việc kê biên nhà ở chỉ được tiến hành khi những tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án, và số tiền phải thi hành án tương đối lớn đòi hỏi phải kê biên nhà ở. Trong trường hợp trị giá nhà ở lớn hơn mức thi hành án, thì chấp hành viên định thời hạn không quá một tháng cho người thi hành án tìm tài sản khác để thi hành án trước khi kê biên nhà ở. Khi đã kê biên nhà ở, trong thời hạn ba mươi ngày trước khi tổ chức bán đấu giá, người phải thi hành án vẫn có quyền tìm tài sản khác để thi hành án.

Khi định giá nhà ở đã kê biên phải có đại diện cơ quan quản lý nhà đất và cơ quan quản lý xây dựng tham gia Hội đồng định giá.

Đại diện cơ quan chuyên môn trong Hội đồng định giá là đại diện cơ quan có thẩm quyền quản lý về mặt chuyên môn - nghiệp vụ việc sử dụng loại tài sản đã kê biên.

Xem nội dung VB
- Trường hợp người phải thi hành cố tình vắng mặt được hướng dẫn bởi Khoản 8 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH
...
8. Trường hợp người phải thi hành cố tình vắng mặt mặc dù đã được tống đạt giấy tờ hợp lệ, mà họ có tài sản thì cơ quan thi hành án có quyền tiến hành kê biên tài sản theo các quy định cuả pháp luật với đủ các thành phần tham gia, chứng kiến.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 16 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 16. Không được kê biên những tài sản sau đây:

1. Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu hoạch mới; số thuốc men cần dùng cho nhu cầu phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình;

2. Công cụ lao động thông thường cần thiết được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;

3. Số quần áo, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình theo mức tối thiểu ở từng địa phương.

4. Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 17 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 17.

1. Trong thời hạn không quá ba ngày, kể từ ngày các đương sự thoả thuận được về giá cả tài sản đã kê biên, chấp hành viên phải tiến hành bán tài sản theo giá cả đã thoả thuận.

2. Trong thời hạn không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng định giá đã định giá tài sản kê biên, chấp hành viên phải tổ chức bán đấu giá tài sản đó. Danh mục tài sản, thời gian và địa điểm bán đấu giá công khai phải niêm yết tại trụ sở cơ quan thi hành án và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.

3. Việc bán đấu giá chỉ được tổ chức khi có từ hai người trở lên tham dự việc mua tài sản và những người đó không có quan hệ gia đình với nhau và với người tổ chức bán đấu giá.

Những người đã trực tiếp xét xử vụ án có tài sản được đưa ra bán đấu giá, thành viên của Hội đồng định giá, chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án không được tham gia mua tài sản bán đấu giá.

4. Đương sự được nộp tiền lấy lại tài sản đưa ra bán đấu giá trước khi người mua tài sản đấu giá hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu, nhưng phải thanh toán các chi phí cưỡng chế thực tế đã phát sinh và lãi suất cho người mua đấu giá (nếu có). Khi có nhiều tài sản được bán đấu giá mà tài sản bán được đã đủ để thi hành và thanh toán các chi phí phát sinh, thì chấp hành viên kết thúc việc bán đấu giá, trả tài sản còn lại cho người phải thi hành án.

5. Người mua tài sản bán đấu giá (trừ nhà ở) phải nộp ngay 2% giá trị tài sản và sau 15 ngày phải nộp đủ số tiền mua tài sản và được nhận tài sản. Nếu quá hạn đó mà không nộp đủ tiền, thì người mua không được lấy lại số tiền nộp trước, trừ trường hợp có lý do chính đáng.

6. Khi tổ chức bán đấu giá, chấp hành viên có trách nhiệm:

a) Lập biên bản bán đấu giá thành hoặc bán đấu giá không thành;

b) Phải giao ngay cho người đã mua tài sản các giấy tờ cần thiết cho việc làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu tài sản.

7. Đối với tài sản thuộc loại phải làm thủ tục chuyển dịch quyền sở hữu, căn cứ vào quyết định của Toà án, quyết định thi hành án và biên bản bán đấu giá thành, các cơ quan Nhà nước hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho người mua tài sản làm các thủ tục chuyển dịch, đăng ký quyền sở hữu tài sản đó.

8. Đối với tài sản không bán được, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành án nhận; nếu người đó không nhận, thì chấp hành viên trả tài sản cho người phải thi hành án và quyết định áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập hoặc trừ vào tài sản khác của người phải thi hành án đang do người khác giữ, hoặc kê biên tài sản khác nếu có.

Xem nội dung VB
- Nội dung này được hướng dẫn bởi Khoản 6 Mục I Công văn 44/THA

I. CÁC VƯỚNG MẮC CỦA PHÁP LỆNH
...
6. Tài sản sau khi được định giá lại mà người mua trả giá thấp hơn, chủ tài sản không đồng ý, người được thi hành án không nhận để khấu trừ, chấp hành viên không có quyền bán theo giá người mua trả mà phải định giá lại và bán đấu giá theo thủ tục quy định hoặc kê biên tài sản khác để thi hành án.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điều 18 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Điều 18.

1. Số tiền thi hành án thu được, kể cả tiền bán tài sản, phải thanh toán lần lượt theo thứ tự ưu tiên: tiền cấp dưỡng; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; tiền công lao động và các khoản phải trả khác.

2. Nếu trong cùng một hàng ưu tiên có nhiêu người được thi hành án, thì số tiền thi hành án thu được, sau khi trừ các chi phí về thi hành án được thanh toán cho họ theo tỷ lệ số tiền họ được thi hành án.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Mục IV Thông tư liên ngành 981/TTLN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 12/02/2007)

Để thi hành thống nhất một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm sau đây:
...
IV- GIẢI THÍCH NHỮNG ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ VIỆC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CÓ SAI LẦM

1. Khi cấp bản sao bản án, quyết định cho đương sự, Toà án phải giải thích cho người được thi hành án biết quyền làm đơn yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án và các vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án.

2. Khi ra quyết định thi hành án hoặc trong quá trình thi hành án, nếu cơ quan thi hành án thấy trong bản án, quyết định có những điểm chưa rõ, có sai sót về số liệu do tính toán không đúng, thì cơ quan thi hành án gửi văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định đó giải thích những điểm chưa rõ, đính chính sai, sót.

Toà án đã ra bản án, quyết định có trách nhiệm giải thích những điểm chưa rõ, đính chính sai, sót và trả lời bằng văn bản cho cơ quan thi hành án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.

Khi giải thích những điểm chưa rõ, đình chính sai, sót về số liệu, Toà án không được sửa đổi, bổ sung bản án, quyết định.

3. Khi ra quyết định thi hành án hoặc trong quá trình thi hành án, nếu cơ quan thi hành án phát hiện thấy bản án, quyết định được thi hành có sai lầm, thì có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng xét xử lại bản án, quyết định đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Chương 4 Nghị định 69-CP năm 1993 (VB hết hiệu lực: 21/10/2004)

Căn cứ Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21 tháng 4 năm 1993;
...
Chương 4: XỬ PHẠT VI PHẠM

Điều 21.

1. Chấp hành viên có quyền phạt tiền từ 20.000 đồng đến 50.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:

a) Cố tình không đến nơi thi hành án để thực hiện việc thi hành án, mặc dù đã được triệu tập đến lần thứ hai;

b) Trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án.

2. Chấp hành viên có quyền phạt tiền từ trên 50.000 đồng đến 100.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:

a) Đã bị phạt tiền mà còn tái phạm;

b) Cản trở hoặc có hành vi thô bạo, lăng nhục người thi hành công vụ trong khi tiến hành việc thi hành án;

c) Cố tình không thực hiện các quyết định khẩn cấp tạm thời hoặc bản án, quyết định phải thi hành ngay;

d) Tẩu tán tài sản để tránh việc kê biên; phá huỷ niêm phong hoặc có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, huỷ hoại tài sản đã kê biên.

3. Thủ trưởng cơ quan thi hành án có quyền phạt tiền ở mức 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với các hành vi sau đây của người phải thi hành án:

a) Đã bị chấp hành viên phạt tiền theo quy định của khoản 2 Điều này, mà còn tái phạm;

b) Chống đối việc cưỡng chế thi hành án;

c) Cơ quan, tổ chức phải thi hành án không thi hành các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của chấp hành viên.

4. Người bị phạt tiền có quyền khiếu nại quyết định xử phạt theo quy định của pháp luật.

Điều 22. Người nào tẩu tán, huỷ hoại, chuyển dịch, đánh tráo tài sản đã kê biên mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Điều 23. Thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của Toà án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, vi phạm các quy định về thủ tục thi hành án, thì bị xử lý kỷ luật: cảnh cáo, cách chức, buộc thôi việc hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.