Nghị quyết 26/NQ-CP năm 2010 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5
Số hiệu: | 26/NQ-CP | Loại văn bản: | Nghị quyết |
Nơi ban hành: | Chính phủ | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 04/06/2010 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | 19/06/2010 | Số công báo: | Từ số 361 đến số 362 |
Lĩnh vực: | Tổ chức bộ máy nhà nước, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
CHÍNH PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 26/NQ-CP |
Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2010 |
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 5 NĂM 2010
Ngày 01 tháng 6 năm 2010, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 5 năm 2010, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau:
1. Chính phủ đã thảo luận các báo cáo: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2010, dự báo tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam; tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau 03 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới; kết quả triển khai đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội các năm 2007 – 2009 và kế hoạch năm 2010; tình hình thực hiện Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 và Chương trình công tác tháng 5 năm 2010; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tháng 5 năm 2010; tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính tháng 5 năm 2010 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ trình.
a) Chính phủ thống nhất nhận định, với việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chỉ đạo, điều hành từ đầu năm của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, nhất là sau khi thực hiện Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng tiếp tục có chuyển biến tích cực. Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Thu ngân sách đạt cao so với cùng kỳ năm trước; giải ngân các nguồn vốn đầu tư có nhiều tiến bộ; xuất khẩu tiếp tục tăng lên; lạm phát được kiềm chế theo hướng tích cực. Tính chung 5 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp ước tăng 13,6%, gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước; sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định; thị trường trong nước tiếp tục được mở rộng, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tăng nhanh; hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi với lượng khách du lịch trong nước và quốc tế tăng mạnh. An sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các lĩnh vực y tế, văn hóa, xã hội được quan tâm và đạt nhiều kết quả.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn một số khó khăn cần được quan tâm xử lý như: mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 năm 2010 tăng thấp (tăng 0,27% so với tháng 4 năm 2010), nhưng tính chung 5 tháng vẫn ở mức khá cao (tăng 4,55% so với tháng 12 năm 2009); giá cả nhiều loại nguyên liệu đầu vào và nhập khẩu vẫn tăng mạnh, nhập siêu tuy có giảm nhưng vẫn còn cao; tình trạng thiếu điện ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân; lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng còn cao; thị trường bất động sản có những biểu hiện bất thường; thiên tai, dịch bệnh, cháy rừng ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp, làm cho đời sống của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn …
Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiếp tục bám sát mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu đã được Quốc hội thông qua, tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp nêu trong Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010, Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ, trong đó cần tập trung vào một số trọng tâm sau:
- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến tình hình kinh tế thế giới, thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nước, trước hết là các mặt hàng thiết yếu để chủ động có các chính sách, giải pháp ứng phó phù hợp, can thiệp kịp thời nhằm bình ổn thị trường, giá cả.
- Các bộ, ngành, địa phương tăng cường chỉ đạo, khẩn trương đề xuất và ban hành các cơ chế, chính sách, tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thuận lợi thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, đầu tư; tập trung chỉ đạo triển khai mạnh mẽ các chương trình, đề án khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, địa phương; tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng giao ban hàng tháng về sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu tư, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để huy động và đẩy nhanh tiến độ giải ngân và nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đối với các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư phát triển; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách và giải pháp đã đề ra về phát triển khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, môi trường; tập trung chỉ đạo quyết liệt thực hiện chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo.
- Tiếp tục triển khai các biện pháp tăng cường quản lý thị trường, giá cả, giám sát việc thực hiện các quy định về lưu thông hàng hóa, đăng ký giá, kê khai, niêm yết và bán theo giá niêm yết; kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình tăng giá đất và nhà ở, nhất là ở khu vực Hà Nội và một số thành phố lớn, có giải pháp kiểm soát tình trạng tăng giá đất và nhà ở bất hợp lý trong thời gian qua; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, vi phạm các quy định về quản lý giá, các trường hợp thao túng và tung tin nhằm đẩy giá đất và nhà ở lên cao; kiểm soát, ngăn chặn và xử lý nghiêm các trường hợp sản xuất, lưu thông hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng theo nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế để bảo đảm tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh toán hợp lý, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng và yêu cầu kiềm chế lạm phát, bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế; tiếp tục chỉ đạo triển khai việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả theo Nghị quyết của Quốc hội; áp dụng linh hoạt các biện pháp kinh tế, trước hết là các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, thị trường mở, thị trường liên ngân hàng … để giảm dần mặt bằng lãi suất; kiểm soát ổn định tỷ giá; tăng dự trữ ngoại tệ.
- Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất và thực hiện các giải pháp khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường, khai thác tốt các thị trường hiện có để tăng kim ngạch xuất khẩu; phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu; chỉ đạo các Tập đoàn Điện lực, Dầu khí, Than và Khoáng sản bằng mọi giải pháp sử dụng tối đa công suất của các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất, kinh doanh và đời sống. Thực hiện nghiêm ngặt, triệt để các biện pháp tiết kiệm sử dụng điện trong sản xuất và tiêu dùng, nhất là trong các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội...
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất giải pháp quản lý chặt chẽ các nguồn thu ngân sách, phấn đấu tăng thu để bảo đảm các nhu cầu chi tiêu cần thiết và giảm bội chi ngân sách nhà nước; tăng cường quản lý, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi ngân sách; rà soát, đơn giản hóa thủ tục hải quan để rút ngắn thời gian thông quan và giảm chi phí đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu; sử dụng linh hoạt các công cụ thuế, phí, lệ phí và phi thuế để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan xây dựng Chiến lược vay nợ và trả nợ quốc gia giai đoạn 2010 – 2020 và tầm nhìn giai đoạn 2030 – 2050 trên cơ sở tính toán tổng thể nhu cầu nguồn lực phục vụ các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế trong giai đoạn mới, trình Chính phủ trong phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2010.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các địa phương chủ động theo dõi diễn biến thời tiết và dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi để kịp thời ứng phó và áp dụng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả, nhằm giảm tối đa thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; có biện pháp hiệu quả để ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng trái phép.
- Bộ Y tế kịp thời hướng dẫn việc tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh trong mùa hè, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, đưa thông tin chính xác và kịp thời về các chủ trương, chính sách, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và giá cả, để hướng dẫn dư luận; xử lý nghiêm theo pháp luật đối với các hành vi thông tin sai lệch làm ảnh hưởng tiêu cực, không đáng có đến ổn định vĩ mô nền kinh tế, gây tổn hại đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Các cơ quan nhà nước chủ động cung cấp kịp thời các thông tin chính xác, đầy đủ và có trách nhiệm cho các cơ quan thông tin đại chúng.
- Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục chỉ đạo triển khai quyết liệt việc đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính đã được thông qua theo Đề án 30; triển khai tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và xây dựng Chiến lược cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020; tăng cường kiểm tra trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xem xét xử lý kịp thời, hiệu quả những bức xúc của người dân, doanh nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, triệt để thực hành tiết kiệm, trước hết là trong sử dụng năng lượng, nước, tài nguyên, khoáng sản, tiền vốn và tài sản của nhà nước, doanh nghiệp và của người dân.
- Các bộ, cơ quan tập trung rà soát, chỉ đạo quyết liệt việc soạn thảo và hoàn chỉnh dự thảo các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực, khẩn trương trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành. Các thành viên Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị tích cực và đầy đủ nội dung các vấn đề mà Đại biểu Quốc hội, cử tri quan tâm để giải trình và trả lời chất vấn trong Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII.
b) Chính phủ thống nhất nhận định, thời gian 03 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới chưa đủ để đánh giá toàn diện tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam, tuy nhiên qua đó đã chứng minh tính đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4, khóa X về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới” (Nghị quyết số 08-NQ/TW) và Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương. Về cơ bản, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã đem lại những kết quả tích cực, mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức trên con đường phát triển và đem lại nhiều bài học trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện của nước ta.
Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ, hoàn thiện Báo cáo và Tờ trình Bộ Chính trị về tình hình sau 03 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và đề xuất các kiến nghị nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2011 – 2020. Báo cáo cần kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4, khóa X về “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới” và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết trên. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và trình Chính phủ Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến 2020. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ phương án kiện toàn Ủy ban để phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban này trong việc giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế.
c) Công tác đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội được triển khai trong 03 năm qua đã góp phần tạo chuyển biến quan trọng trong nhận thức từ nhà trường đến doanh nghiệp và xã hội về việc cần thiết phải chuyển từ đào tạo lao động theo khả năng sang đào tạo theo nhu cầu, gắn cung với cầu về lao động qua đào tạo, huy động thêm nhiều nguồn lực cho đào tạo và bước đầu hình thành cơ chế hợp tác trong đào tạo giữa nhà trường – doanh nghiệp – cơ quan quản lý nhà nước, dần dần tạo nên thị trường lao động qua đào tạo. Tuy nhiên, việc triển khai còn trong giai đoạn đầu, sự tham gia của các doanh nghiệp, cơ quan sử dụng lao động vào quá trình đào tạo còn nhiều hạn chế; việc đổi mới quản lý giáo dục đại học mới được triển khai, chưa tạo được chuyển biến về chất lượng lao động qua đào tạo trên diện rộng.
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn thiện báo cáo đánh giá kết quả triển khai đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội 03 năm 2007 – 2009 và thực hiện kế hoạch năm 2010; tổ chức Hội nghị tổng kết, đánh giá kết quả 03 năm triển khai thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội. Các bộ, ngành, địa phương cần khẩn trương thực hiện quy hoạch nguồn nhân lực cho phát triển ngành, địa phương mình giai đoạn 2011 – 2015. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng đề án quốc gia phát triển nguồn nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội trong 5 năm tới; dự thảo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, phát triển nguồn nhân lực thành lợi thế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2011 – 2015, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý 4 năm 2010.
2. Chính phủ cho ý kiến về các dự án Luật Kiểm toán độc lập, Luật Đo lường do Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trình.
- Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Kiểm toán độc lập; Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án Luật này.
- Giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Đo lường; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội dự án Luật này.
Nơi nhận: |
TM. CHÍNH PHỦ |
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2021 về dừng thực hiện thành lập Tổ Công tác liên ngành Ban hành: 10/02/2021 | Cập nhật: 10/02/2021
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2020 sửa đổi Nghị quyết 97/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước Ban hành: 26/02/2020 | Cập nhật: 28/02/2020
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2019 thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số Ban hành: 13/03/2019 | Cập nhật: 18/03/2019
Nghị quyết 18/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2018 Ban hành: 08/03/2018 | Cập nhật: 12/03/2018
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2016 ký Nghị định thư 2 về Chỉ định cửa khẩu biên giới thuộc Hiệp định khung ASEAN về Tạo thuận lợi cho hàng hóa quá cảnh Ban hành: 26/02/2016 | Cập nhật: 01/03/2016
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2015 phê duyệt Hiệp định về hợp tác và trợ giúp lẫn nhau trong các vấn đề về hải quan giữa Việt Nam - Ấn Độ Ban hành: 21/01/2015 | Cập nhật: 23/01/2015
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2014 về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 - 2015) của tỉnh Tiền Giang Ban hành: 06/01/2014 | Cập nhật: 08/01/2014
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2013 phê duyệt Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực thú y và kiểm dịch động vật giữa Việt Nam và I-xra-en Ban hành: 07/02/2013 | Cập nhật: 23/02/2013
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2013 phê duyệt "Hiệp định về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao hoặc công vụ" giữa Việt Nam và Cô-oét Ban hành: 07/01/2013 | Cập nhật: 19/01/2013
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2012 ký kết Hiệp định về hợp tác du lịch Việt Nam và Ma-rốc Ban hành: 12/06/2012 | Cập nhật: 14/06/2012
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2012 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01 Ban hành: 08/02/2012 | Cập nhật: 09/02/2012
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2011 điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam Ban hành: 10/01/2011 | Cập nhật: 12/01/2011
Nghị quyết 18/NQ-CP năm 2010 về giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% Ban hành: 06/04/2010 | Cập nhật: 07/04/2010
Nghị quyết 03/NQ-CP năm 2010 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 Ban hành: 15/01/2010 | Cập nhật: 20/01/2010
Nghị quyết số 18/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị Ban hành: 20/04/2009 | Cập nhật: 28/04/2009
Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP về việc Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới Ban hành: 27/02/2007 | Cập nhật: 10/03/2007
Nghị quyết số 18/NQ-CP về việc phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2010 Ban hành: 11/03/1994 | Cập nhật: 07/09/2011