Nghị quyết 20/2006/NQ-HĐND về đẩy mạnh phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020 của thành phố Hải Phòng
Số hiệu: 20/2006/NQ-HĐND Loại văn bản: Nghị quyết
Nơi ban hành: Thành phố Hải Phòng Người ký: Nguyễn Văn Thuận
Ngày ban hành: 15/12/2006 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Văn hóa , thể thao, du lịch, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 20/2006/NQ-HĐND

Hải Phòng, ngày 15 tháng 12 năm 2006

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
KHÓA XIII KỲ HỌP THỨ 8

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004;

Căn cứ Luật Du lịch và các văn bản pháp luật khác có liên quan;

Sau khi xem xét Đề án và Tờ trình số 54/TTr-UBND ngày 05/12/2006 của Ủy ban nhân dân thành phố về đẩy mạnh phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020; Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế và Ngân sách Hội đồng nhân dân thành phố, Hội đồng nhân dân thành phố thảo luận,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Về tình hình phát triển du lịch giai đoạn 1996 - 2005

Hội đồng nhân dân thành phố cơ bản tán thành nội dung đánh giá tình hình phát triển du lịch thành phố giai đoạn 1996 - 2005 tại Đề án của Ủy ban nhân dân thành phố; đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề sau:

Những năm qua, du lịch thành phố đã có bước phát triển khá toàn diện, đã tích cực khai thác và phát huy các lợi thế, tiềm năng du lịch của thành phố. Công tác quản lý nhà nước về du lịch đã đi vào nền nếp, có tiến bộ trong việc quy hoạch phát triển, tuyên truyền, quảng bá - xúc tiến, đào tạo nhân lực du lịch, cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch được quan tâm cải tạo, nâng cấp, thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư kinh doanh, làm tăng sức hấp dẫn cho hoạt động du lịch thành phố. Số lượng khách và doanh thu du lịch ngày càng tăng. Tổ chức tốt các lễ hội truyền thống, các hoạt động du lịch lớn, tạo nên nét mới, điểm nhấn trong hoạt động du lịch thành phố.

Tuy nhiên sự phát triển du lịch Hải Phòng còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của thành phố. Quy hoạch chi tiết phát triển du lịch, xác định loại hình, quy mô, trọng điểm chưa rõ, tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế thành phố và du lịch cả nước thấp, còn thất thu ngân sách; chất lượng các dịch vụ du lịch, đầu tư phát triển du lịch còn nhiều hạn chế, chưa quan tâm đầy đủ đến bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên. Sản phẩm du lịch chưa đa dạng, chất lượng thấp; lao động du lịch thiếu tính chuyên nghiệp. Xã hội hóa hoạt động du lịch, sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch còn yếu.

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ quan là chính: Nhận thức về phát triển du lịch của các cấp, các ngành chưa thật đầy đủ; thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển và giải pháp mang tính đột phá cho phát triển du lịch; tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương hạn chế; chưa làm tốt công tác phối hợp phát huy sức mạnh của các ngành, các cấp, các thành phần kinh tế và các địa phương trong phát triển du lịch.

Điều 2. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020

1. Quan điểm phát triển du lịch: Khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của thành phố, nhất là về cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, đảm bảo môi trường sinh thái, đa dạng các loại hình và sản phẩm du lịch, thu hút đầu tư, tăng nhanh tỷ trọng du lịch trong tổng GDP của thành phố; tạo việc làm, nâng cao dân trí; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành và toàn dân phát triển du lịch, góp phần thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

2. Mục tiêu: Từng bước xây dựng Hải Phòng trở thành một trong những cửa ngõ đón khách quốc tế, trung tâm du lịch của vùng Duyên hải Bắc Bộ; đảo Cát Bà, Đồ Sơn cùng với Hạ Long trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế. Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Trước mắt, tập trung xây dựng Cát Bà, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Thủy Nguyên thành trung tâm du lịch cấp quốc gia.

3. Chỉ tiêu cơ bản đến năm 2010: Đón và phục vụ trên 5,6 triệu lượt khách, tăng bình quân trên 18,5%/năm, trong đó khách du lịch quốc tế trên 1,3 triệu lượt, chiếm 24%, tăng bình quân 20,5%/năm; tỷ trọng GDP du lịch đạt 4,5% trong tổng GDP của thành phố; tốc độ tăng về doanh thu du lịch bình quân 19%/năm.

Điều 3. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, định hướng đến năm 2020

1. Nhiệm vụ:

1.1. Tập trung chỉ đạo hoàn thành rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố, phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia về du lịch. Năm 2007 - 2008, hoàn thành Quy hoạch chi tiết phát triển du lịch Cát Bà, Đồ Sơn - lưu vực sông Đa Độ, công viên rừng Thiên Văn - Núi Voi, hồ Sông Giá, di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Dương kinh nhà Mạc, tháp Tường Long, triển khai quy hoạch phát triển du lịch nội thành. Quy hoạch chi tiết các khu, điểm dịch vụ, hệ thống cửa hàng mua sắm, phục vụ du khách; mời các tổ chức tư vấn trong, ngoài nước có năng lực xây dựng quy hoạch, thiết kế các khu du lịch.

1.2. Chuẩn bị tốt các dự án, đề xuất với Trung ương đầu tư một số cơ sở hạ tầng du lịch quy mô lớn; bố trí vốn hỗ trợ đầu tư hạ tầng có mục tiêu của Trung ương theo đúng quy hoạch của ngành Du lịch đã phê duyệt; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư; hàng năm thành phố ưu tiên bố trí vốn ngân sách để lập quy hoạch chi tiết và chuẩn bị đầu tư cho các dự án du lịch, kết hợp đầu tư, tôn tạo phục dựng các di tích lịch sử, công trình văn hóa, đầu tư đồng bộ về đường, điện, cấp thoát nước, thoát và xử lý nước thải trong các khu du lịch; dành quỹ đất hợp lý cho khuôn viên cây xanh, đường nội bộ, bãi đỗ xe, vệ sinh công cộng ở các trọng điểm du lịch. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa để tăng nguồn lực đầu tư cho phát triển du lịch.

Triển khai đề án xây dựng cảng du lịch nội địa và quốc tế; xây dựng cầu cảng du lịch tại đảo Dáu; phối hợp tốt với các Bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ đầu tư nâng cấp sân bay Cát Bi theo tiêu chuẩn quốc tế; đưa vào sử dụng dự án Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng và Trung tâm Hỗ trợ giới thiệu sản phẩm làng nghề - quảng bá và xúc tiến du lịch.

1.3. Phát triển thị trường khách du lịch trong nước và quốc tế, nhất là Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, mở rộng thị trường du lịch Đông Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và phấn đấu vươn tới thị trường Nga, Đông Âu, Bắc Âu, Úc, Niu-di-lân...

1.4. Lựa chọn loại hình du lịch chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và những lợi thế của thành phố như:

- Du lịch sinh thái biển kết hợp nghỉ dưỡng, thể thao, hội thảo - hội nghị - hội chợ và du lịch mạo hiểm.

- Du lịch lễ hội, thăm các di tích lịch sử, văn hóa, khảo cứu văn hóa truyền thống, đặc thù địa phương.

- Du lịch điền dã, khảo cứu văn hóa làng xã, thưởng ngoạn miệt vườn ven sông.

- Du lịch văn hóa ẩm thực, mua sắm.

- Du lịch tâm linh.

Hình thành tua, tuyến du lịch phù hợp, hấp dẫn, chất lượng cao; các điểm vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, thể thao; các loại hình dịch vụ đặc sắc tại các trọng điểm du lịch; nghiên cứu, sản xuất hàng lưu niệm đặc trưng của Hải Phòng; tổ chức tốt việc giới thiệu, dịch vụ hàng lưu niệm cho khách. Phát huy và tổ chức tốt Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn trở thành loại hình dịch vụ du lịch đặc sắc.

1.5. Đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch, chú trọng lao động quản lý hoạt động kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2010 số lượng lao động du lịch và dịch vụ du lịch đạt 32.000 người, trong đó 50% qua đào tạo.

1.6. Xây dựng thương hiệu du lịch Hải Phòng đủ sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Tăng cường quản lý, bảo tồn, quảng bá, phát huy Khu Dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà; các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao và khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế, có nhiều loại hình dịch vụ tiện lợi và hấp dẫn du khách. Hoàn thành Đề án thành lập các Khu du lịch quốc gia của thành phố trong năm 2007 - 2008. Phấn đấu mỗi ngành, địa phương đều có sản phẩm, dịch vụ du lịch chất lượng cao; chú trọng các sản phẩm du lịch đặc sắc của Hải Phòng.

2. Giải pháp chủ yếu:

2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân về phát triển du lịch, về vị trí, vai trò của kinh tế du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

2.2. Xây dựng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phát triển du lịch đồng bộ, toàn diện, phù hợp với chính sách và cam kết của Nhà nước về du lịch với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), về đào tạo lại, đào tạo mới nhân lực du lịch, đầu tư hạ tầng. Có cơ chế ưu tiên đối với các dự án vui chơi giải trí, dự án có quy mô lớn, đầu tư phát triển phương tiện vận chuyển khách du lịch, đặc biệt là đội tàu du lịch ở Cát Bà; chế tác và sản xuất các sản phẩm, hàng lưu niệm mang đặc trưng Hải Phòng; cơ chế thu hút nhân tài phục vụ du lịch địa phương. Năm 2007, hoàn thành xây dựng tiêu chuẩn cơ sở dịch vụ du lịch và Quy chế thẩm định, công nhận cơ sở đủ tiêu chuẩn dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố; xây dựng quy chế đảm bảo an toàn cho du khách; nghiên cứu sớm có cảnh sát du lịch. Trước mắt, báo cáo Trung ương cho phép triển khai thực hiện thí điểm tại các trọng điểm du lịch: Cát Bà, Đồ Sơn và nội thành.

2.3. Tổ chức đào tạo nhân lực du lịch theo chuẩn quốc gia ở các hệ: Dạy nghề, trung cấp, tiến tới đào tạo cao đẳng, tương đương đại học và đại học. Tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, áp dụng công nghệ tiên tiến trong đào tạo. Trước mắt tập trung đào tạo để có đủ hướng dẫn viên, thuyết minh viên thạo nghề, được trang bị kiến thức, hiểu biết toàn diện và có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế.

Thường xuyên mở lớp tập huấn về Luật Du lịch và các văn bản có liên quan, quán triệt các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước cho Giám đốc doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch.

2.4. Tổ chức xúc tiến - quảng bá du lịch: Nâng cao chất lượng các tuyến du lịch hiện có, mở thêm tuyến du lịch sinh thái biển Hải Phòng - Bạch Long Vỹ. Phối hợp với các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước, thực hiện nối tuyến du lịch địa phương với tuyến du lịch quốc gia và quốc tế: Chú trọng tuyến đường bộ Hải Phòng - Côn Minh, Hải Phòng - Nam Ninh (Trung Quốc); Hải Phòng - Nghệ An - Lào - Thái Lan. Mở tuyến đường thủy Hải Phòng đi các cảng biển quốc tế trong khu vực.

Đầu tư kinh phí, xúc tiến mở các tuyến bay quốc tế mới từ Hải Phòng đến các sân bay quốc tế trong khu vực: Nam Ninh, Hải Nam (Trung Quốc); Băng Cốc, Pattaya (Thái Lan); Busan (Hàn Quốc); tăng cường xúc tiến thị trường khách trong nước tạo nguồn khách đối ứng, nâng cao hiệu quả tuyến bay Hồng Kông/Ma Cao - Hải Phòng. Lập Đề án hình thành chợ đêm tại khu vực ven hồ Cung Văn hóa thể thao thanh niên.

Thành phố tăng chi ngân sách cho quảng bá - xúc tiến du lịch, thành lập các trung tâm thông tin du lịch, thực hiện quảng bá với quy mô lớn, chất lượng cao, tổ chức lễ hội quảng bá hàng năm, lễ hội du lịch quốc gia, quốc tế giới thiệu hình ảnh Hải Phòng với du khách trong và ngoài nước. Gắn du lịch với văn hóa, tạo sức hấp dẫn của các điểm du lịch, tua, tuyến du lịch bằng các sản phẩm du lịch đặc sắc của Hải Phòng; xây dựng nếp sống văn minh, tạo phong cách, vẻ đẹp của người Hải Phòng và môi trường du lịch văn minh, hấp dẫn của thành phố. Kiên quyết xóa bỏ tình trạng chèo kéo khách, chạy theo khách bán hàng, xin ăn ở các trọng điểm du lịch.

2.5. Các ngành, các cấp có biện pháp hữu hiệu quản lý xây dựng và kinh doanh, bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, chú trọng xử lý nước thải và chất thải ở các điểm du lịch, khu du lịch. Đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện cam kết bảo vệ môi trường.

Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp, tuyên truyền giáo dục, khuyến khích cộng đồng dân cư và khách du lịch tham gia bảo vệ tài nguyên môi trường, từng bước đưa nội dung bảo vệ tài nguyên môi trường vào chương trình giáo dục trong các trường học góp phần giữ gìn thành phố ‘xanh, sạch, đẹp’.

Mở rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch; thực hành nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng nâng cao chất lượng môi trường du lịch.

2.6. Tăng cường quản lý nhà nước về du lịch:

Nâng cao chất lượng cán bộ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch của thành phố, nhất là các địa phương trọng điểm du lịch, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển du lịch trong tình hình mới. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, các hoạt động dịch vụ du lịch; gắn phát triển du lịch với đảm bảo quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Phát huy vai trò của Hiệp hội Du lịch và các tổ chức xã hội góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh du lịch.

Điều 4. Tổ chức thực hiện

Giao cho Ủy ban nhân dân thành phố tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu, các Ban của Hội đồng nhân dân thành phố xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể và chỉ đạo các ngành, các cấp tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết, định kỳ sơ kết, tổng kết và báo cáo tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân thành phố.

Giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, các Ban của Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện Nghị quyết.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân thành phố Hải Phòng, khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15/12/2006./.

 

 

CHỦ TỊCH HĐND THÀNH PHỐ




Nguyễn Văn Thuận

 

PHẦN MỞ ĐẦU

Hải Phòng là thành phố công nghiệp, một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc. Vị trí địa lý cùng hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ, đường sắt, sân bay, cảng, cửa chính ra biển của miền Bắc và cả nước, khẳng định vai trò đầu mối giao thông quan trọng của thành phố, đây là những thuận lợi để phát triển kinh tế và giao thương với nước ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển cùng với điều kiện tự nhiên đa dạng: Núi, rừng, biển, đảo kết hợp bản sắc văn hóa độc đáo của cư dân miền biển, con người cởi mở... là những điều kiện thuận lợi thu hút du khách và các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực du lịch tại Hải Phòng.

Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, du lịch giữ vai trò quan trọng trong thu nhập kinh tế quốc dân. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), trong thời gian tới, viễn cảnh của ngành du lịch toàn cầu rất khả quan. Dự báo đến năm 2010, lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới sẽ đạt tới 1 tỷ lượt, thu nhập xã hội từ du lịch đạt 900 tỷ USD và tạo việc làm cho 150 triệu người. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chiếm tỷ trọng lớn của thế giới, riêng Đông Nam Á (ASEAN) chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% doanh thu du lịch của khu vực.

Trong 10 năm qua (1996 - 2005), du lịch Hải Phòng đã có những chuyển biến tích cực: Tổng đầu tư hạ tầng du lịch bằng vốn ngân sách đạt 297,31 tỷ đồng, thu hút 3.803,22 tỷ đồng vốn ngoài ngân sách và 50,52 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài; tổng lượt khách du lịch tăng bình quân 18,9%/năm, trong đó khách quốc tế tăng bình quân 25,05%/năm; doanh thu tăng bình quân 25,25%. Năm 2005, tổng lượt khách đạt 2,429 triệu lượt, trong đó khách quốc tế là 512.000 lượt, doanh thu đạt 552 tỷ đồng. Đạt được những kết quả trên là do sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố trong công tác quản lý nhà nước, đầu tư, xúc tiến và tổ chức các sự kiện du lịch, cùng với sự cố gắng của các doanh nghiệp du lịch, trong thời gian qua ngành Du lịch đã có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân trên 15%/năm. Tuy nhiên, những kết quả trên chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố. Những yêu cầu phát triển du lịch chưa được đầu tư đúng mức, kịp thời như: Quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng du lịch; cơ sở hoạt động dịch vụ du lịch quy mô nhỏ, manh mún; sản phẩm chưa đa dạng, chất lượng chưa cao; công tác quảng bá - xúc tiến, mở rộng thị trường mới ở quy mô trong nước; đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; việc hợp tác liên doanh, liên kết trong và ngoài nước còn yếu; chưa xây dựng được thương hiệu mạnh về du lịch, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch yếu và chưa thực hiện được xã hội hóa về dịch vụ du lịch.

Phần I

KẾT QUẢ 10 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 20 NQ/TU VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 1996 - 2005

I. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ SO SÁNH VỚI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG VÙNG KINH TẾ ĐỘNG LỰC KHU VỰC PHÍA BẮC

1. Tiềm năng phát triển du lịch:

Hải Phòng là thành phố cảng, công nghiệp phát triển, là đô thị loại 1 cấp quốc gia, với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.519 km2, dân số trên 1,7 triệu người, có 14 quận, huyện, thị xã, trong đó có 02 huyện đảo. Hải Phòng là vùng đất có vị trí địa lý, kinh tế, quân sự hết sức quan trọng, một cực tăng trưởng của vùng kinh tế động lực phía Bắc.

Với ưu thế cảng biển trung tâm vùng Duyên hải Bắc bộ, cửa chính ra biển của miền Bắc, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước, các quốc gia trong khu vực và thế giới. Cùng với cảng biển, các lợi thế về hệ thống giao thông đa dạng về đường biển, đường sông, đường bộ, đường sắt, đường hàng không nối liền Hải Phòng với các địa phương trong nước và quốc tế. Các tuyến giao thông đa dạng hỗ trợ các hoạt động của cảng, thương mại, vận tải, thông tin liên lạc... tạo thêm lợi thế cho phát triển du lịch.

Ngoài ưu thế về vị trí địa lý, Hải Phòng còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú, đa dạng: Tài nguyên đất, tài nguyên sinh vật, các loại thủy, hải sản, khoáng sản... Nguồn lợi từ biển đặc sắc, phong phú và đa dạng là thế mạnh để phát triển du lịch và các ngành dịch vụ khác. Bán đảo Đồ Sơn và quần đảo Cát Bà rất thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái theo hướng rừng - biển - đảo. Rừng quốc gia Cát Bà nhiều loại động thực vật đặc hữu (12/2004 được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới), đây là điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.

Lịch sử phát triển của Hải Phòng trải qua những trang sử dựng nước và giữ nước hào hùng, đã để lại nhiều di tích lịch sử, văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Nhiều lễ hội lớn như: Lễ hội chọi trâu (Đồ Sơn), lễ hội làng cá Cát Bà (Cát Hải), lễ hội hát đúm (Thủy Nguyên), lễ hội kỷ niệm ngày mất của Danh nhân văn hóa Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Vĩnh Bảo), lễ hội Minh Thề (Kiến Thụy) và nhiều làng nghề truyền thống được phục dựng, duy trì và phát triển.

Những tiềm năng, lợi thế trên là những tiền đề phát triển du lịch của thành phố Hải Phòng.

2. So sánh với 2 địa phương trong tam giác tăng trưởng của vùng kinh tế động lực khu vực phía Bắc:

Hải Phòng, một thành phố công nghiệp nằm trên dải đất miền Duyên hải Bắc bộ, có nhiều nét tương đồng với các tỉnh và thành phố lân cận. Song, để tìm ra thế mạnh và phát huy những lợi thế cho phát triển du lịch Hải Phòng, trước hết cần nhận biết tiềm năng, lợi thế và sự phát triển du lịch của Hà Nội và Quảng Ninh, 2 địa phương mang nét tương đồng 2 đặc thù về kinh tế, văn hóa, xã hội và sinh thái biển của Hải Phòng.

Hà Nội: Một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, là thủ đô của đất nước, có dấu tích hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, in đậm dấu ấn hào hùng với kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến. Với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, Hà Nội phong phú và đa dạng về tài nguyên du lịch văn hóa vật thể và phi vật thể, đây là lợi thế nổi trội với Hải Phòng. Từ đó, du lịch Hải Phòng xác định Hà Nội là thị trường khách nội chủ yếu, đồng thời là điểm đến quan trọng của du khách trong và ngoài nước đối với hoạt động lữ hành của các doanh nghiệp du lịch Hải Phòng.

Quảng Ninh: Một tỉnh đặc biệt giầu tiềm năng phát triển du lịch sinh thái biển, đảo và giao thương biên mậu, như: Vịnh Bái Tử Long, di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, trung tâm phật giáo Yên Tử... có kinh tế đường biên với Trung Quốc rất phát triển, nhất là các năm gần đây, một động lực quan trọng làm tăng lợi thế phát triển du lịch. Quảng Ninh là tỉnh thực sự sớm có cơ chế và giải pháp hỗ trợ du lịch phát triển thành khâu đột phá về kinh tế. Ngay từ những năm 1990, Tỉnh đã quan tâm triển khai các dự án bảo tồn và phát triển du lịch như: Xây dựng Đề án Khu Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long (năm 1994) và được UNESCO công nhận; thành lập Ban Quản lý Vịnh (năm 1995); xây dựng 03 cảng du lịch địa phương (01 cảng tại Hòn Gai đủ tiêu chuẩn đón tàu du lịch quốc tế, 01 cảng tại Vân Đồn và 01 cảng tại Móng Cái), hiện nay mỗi tuần đón từ 2 - 3 chuyến tàu khách du lịch quốc tế; thực hiện cơ chế đổi đất lấy hạ tầng trên quy mô lớn tại Tuần Châu, Vân Đồn, Móng Cái... để hỗ trợ phát triển các dự án du lịch; trong 3 năm (2001 - 2003) thực hiện đầu tư lớn 06 dự án vào lĩnh vực vui chơi giải trí, đạt hiệu quả cao; chuyển đổi và nâng cấp Trường Văn hóa - Nghệ thuật tỉnh thành Trường Trung cấp Văn hóa - Du lịch để đào tạo lao động cho ngành du lịch; sớm thành lập quỹ quảng bá xúc tiến du lịch với kinh phí ổn định hàng năm từ ngân sách địa phương (2 tỷ đồng năm 2000 và lên đến 8 tỷ đồng năm 2005, chưa kể phần đóng góp của các doanh nghiệp kinh doanh địa ốc và du lịch).

Hải Phòng: Lợi thế về phát triển du lịch là cảng, sân bay, đầu mối nhiều đường giao thông thủy, bộ, sinh thái biển, đảo, động thực vật phong phú, đa dạng sinh học... Nhưng, cảng du lịch đến nay vẫn chưa xác định được địa điểm xây dựng, tàu khách quốc tế không vào Hải Phòng vì chưa có bến đảm bảo tiêu chuẩn; sân bay Cát Bi đang ở giai đoạn trình duyệt nâng cấp; Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà được công nhận chậm 10 năm sau Quảng Ninh; cấp nước sạch trên đảo đến nay mới có dự án đang thi công; quá chậm về quy hoạch phát triển du lịch đảo Cát Bà, dẫn đến cơ sở lưu trú du lịch phát triển tự phát, xây dựng theo hình ống... phá vỡ cảnh quan môi trường sinh thái du lịch đảo biển. Chưa có cơ chế khuyến khích phát triển du lịch, nhất là đối với các loại hình đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài (khu vui chơi giải trí...). Chưa thành lập Quỹ quảng bá xúc tiến du lịch, hạn chế tính chủ động của ngành du lịch trong lĩnh vực này. Trước khi mở tuyến hàng không Macao - Hải Phòng, thành phố chưa có nguồn khách quốc tế trực tiếp. Sự phối kết hợp giữa Hải Phòng với Hà Nội và Quảng Ninh chưa được quan tâm, chưa tạo được thế mạnh của tam giác tăng trưởng trong vùng kinh tế động lực phía Bắc để hỗ trợ du lịch phát triển. Đây là những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến việc du lịch Hải Phòng phát triển không tương xứng với tiềm năng và lợi thế của thành phố, một thực tế đang cần thành phố, các ban, ngành liên quan, nhất là ngành Du lịch phải nhìn thẳng vào sự thật để có giải pháp đưa du lịch phát triển trong những năm tới.

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 1996 - 2005

1. Về khách du lịch:

Trong những năm gần đây, các chỉ tiêu cơ bản của du lịch luôn đạt tốc độ tăng khá cao, năm sau cao hơn năm trước. Giai đoạn 1996 - 2005, tổng lượt khách tăng bình quân 18,9%/năm, khách quốc tế tăng 25,05%/năm, doanh thu tăng bình quân 25,25%/năm. Phân kỳ 5 năm cuối (2001 - 2005) tổng lượt khách tăng bình quân 18,15%/năm, khách quốc tế tăng 18,75%/năm, doanh thu tăng bình quân 17,15%/năm (tốc độ tăng trưởng kế hoạch đề ra là 15%). Tốc độ tăng có chậm hơn bình quân 10 năm nhưng mức tăng lớn hơn. Riêng năm 2005, tổng lượt khách đạt 2,429 triệu lượt (Nghị quyết Đại hội XII Đảng bộ thành phố đề ra: Năm 2005 là 2 triệu lượt khách, có 30% là khách du lịch quốc tế).

- Khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng bằng nhiều đường khác nhau nhưng chủ yếu là theo đường bộ từ Hà Nội, Quảng Ninh (từ Quảng Ninh chủ yếu là khách Trung Quốc) và từ các thành phố lớn ở phía Nam như: Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng. Cơ cấu khách quốc tế đến Hải Phòng: Khách Trung Quốc chiếm 70%; khách Đài Loan chiếm 7,5%, khách Nhật Bản chiếm 2,5%, khách Pháp chiếm 5%, khách Mỹ chiếm 2,5%, các đối tượng khác là 12,5%. Trung Quốc là thị trường khách lớn vì Việt Nam và Trung Quốc ngoài việc có chung biên giới còn có sự tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán Á Đông. Giai đoạn 1996 - 2005, khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng tăng cao (trên 25%), do thành phố tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, hoàn thiện các công trình dịch vụ, các điểm du lịch văn hóa, sinh thái, chú trọng bảo tồn cảnh quan môi trường, phát triển đa dạng sản phẩm làng nghề, khôi phục các lễ hội văn hóa truyền thống đặc thù... tạo ấn tượng hấp dẫn, thu hút du khách quốc tế.

- Khách du lịch nội địa chiếm 80% tổng lượng khách đến Hải Phòng. Các điểm du lịch hấp dẫn như: Cát Bà, Đồ Sơn... đã tạo cho Hải Phòng thực sự là điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch nội địa, đặc biệt là vào các dịp hè, lễ hội...

Khách đến từ Hà Nội và các tỉnh lân cận là chủ yếu, hàng năm lượng khách tăng lên rõ rệt (từ 442.551 lượt năm 1996, tăng lên 1.917.000 lượt năm 2005). Ngoài ra, phần lớn người dân Hải Phòng cũng tham gia vào dòng khách du lịch cuối tuần, du lịch tuần trăng mật... Nhưng ngày lưu trú bình quân của khách có xu hướng giảm, phần do đường giao thông đến các điểm tham quan du lịch đã được đầu tư, nâng cấp, thuận tiện đi và về trong ngày; phần do các dịch vụ bổ trợ, các điểm vui chơi giải trí còn nghèo nàn, thiếu đồng bộ chưa thu hút du khách tham quan, nghỉ dưỡng dài ngày. Đây là những điểm yếu của du lịch Hải Phòng.

2. Kết quả quản lý nhà nước về du lịch

Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch đã có nhiều cố gắng, chủ động đề xuất và tham gia tổ chức thực hiện việc đầu tư hạ tầng du lịch; thành lập Khu Dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà; tổ chức tốt các lễ khai trương du lịch hàng năm; thành lập Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng; vận động mở tuyến bay quốc tế và nâng cấp sân bay Cát Bi thành sân bay quốc tế...

Xây dựng các tiêu chuẩn về quy hoạch, đầu tư, quản lý tài nguyên - môi trường và các lĩnh vực liên quan đến du lịch. Tăng cường công tác giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa xã hội, đặc biệt cho người dân ở các trọng điểm du lịch như: Cát Bà, Đồ Sơn...

Hoàn thành nhiệm vụ cổ phần hóa các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc trong năm 2005. Hỗ trợ doanh nghiệp lữ hành nâng cao năng lực, chủ động vươn ra thị trường quốc tế. Tham mưu cho các cấp có thẩm quyền mở đường bay Macao - Hải Phòng (4/2006), khởi sắc cho việc mở rộng thị trường quốc tế.

Triển khai thành lập Hiệp hội Du lịch Hải Phòng nhằm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch điều tiết các hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố, tạo sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh.

Du lịch phát triển tác động tích cực đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; tạo điều kiện nâng cao hiệu quả khai thác các loại tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất. Từ năm 1995 - 2006, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại trung tâm du lịch Đồ Sơn và Cát Bà đã tăng trên 10 lần do có đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch.

3. Thực hiện quy hoạch và đầu tư:

3.1. Về quy hoạch:

Hải Phòng đã có quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1996 - 2010 (Quyết định số 1151/QĐ-UB ngày 11/7/1997 của Ủy ban nhân dân thành phố), hiện nay đang tiến hành rà soát, điều chỉnh và bổ sung quy hoạch tổng thể cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển du lịch. Tuy nhiên, thành phố vẫn chưa có quy hoạch cụ thể các cụm trọng điểm phát triển du lịch tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố. Việc triển khai quy hoạch đã duyệt vẫn còn chậm. Thành phố đã có quy hoạch chi tiết thị xã Đồ Sơn (Quyết định số 706/QĐ-UB ngày 03/4/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố); Quy hoạch chi tiết thị trấn Cát Bà (Quyết định số 704/QĐ-UB ngày 03/4/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố) và quy hoạch chi tiết từng dự án đầu tư nhưng trong thực tiễn việc quản lý quy hoạch và đầu tư theo quy hoạch chưa tốt.

3.2. Về đầu tư:

Đầu tư hạ tầng du lịch: Trong thời gian qua, được sự hỗ trợ từ ngân sách địa phương và nguồn vốn của Trung ương đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, là vốn ‘mồi’ thu hút các nhà đầu tư trong nước và quốc tế đến với thành phố.

Từ năm 1996, nhiều dự án đầu tư hạ tầng phát triển du lịch đã được triển khai với tổng mức vốn đầu tư là 297,308 tỷ đồng. Dự án đường du lịch Cát Bà, dự án cải tạo và nạo vét vịnh Tùng Dinh đã đưa vào sử dụng; dự án cấp nước sạch thị trấn Cát Bà đang thi công; dự án xây dựng Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng và dự án Trung tâm Hỗ trợ sản phẩm làng nghề và quảng bá du lịch đang thực hiện các bước đền bù và giải phóng mặt bằng. Ngoài ra còn một số dự án đầu tư hỗ trợ du lịch như: Đường giao thông 353 (Hải Phòng - Đồ Sơn), xây dựng kết cấu hạ tầng khu du lịch Đồ Sơn, hạ tầng khu đền Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Vĩnh Bảo)...

Dự án đầu tư không thuộc vốn ngân sách: Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Chính phủ đã dành một phần vốn ngân sách để đầu tư phát triển hạ tầng du lịch. Từ năm 1996, thành phố đã phê duyệt 28 dự án không thuộc vốn ngân sách, với tổng số vốn đầu tư lên tới 3.803,221 tỉ đồng, chủ yếu là xây dựng các khách sạn cao cấp, theo tiêu chuẩn quốc tế, các khu vui chơi giải trí hiện đại (Công viên Rồng biển; Khu dịch vụ ăn uống Thái Hòa Viên; Khu du lịch sinh thái Vân Tra; Khu Công viên nước Cát Bà; Khu du lịch Sunrise Resort Cát Cò III; Khách sạn Holiday View...), phần nào đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, tham quan, nghỉ dưỡng của khách du lịch và nhân dân địa phương.

Tiếp theo một số dự án: Khu du lịch sinh thái Gia Luận; Thủy cung tại Áng Bù Nâu; Khu Du lịch dịch vụ tổng hợp Cát Tiên 2 (Cát Bà), Khu Du lịch quốc tế đảo Dáu, Sân golf (Đồ Sơn)... sẽ làm thay đổi diện mạo về du lịch của thành phố.

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài:

Từ năm 1996 đã thu hút 06 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực du lịch với tổng số vốn đầu tư là 50,52 triệu USD. Trong đó năm 1996 có dự án xây dựng Làng quốc tế Hướng Dương; năm 1997 có 02 dự án: Kinh doanh vận chuyển hành khách của Công ty trách nhiệm hữu hạn BIC Việt Nam và Xây dựng kinh doanh chợ cao cấp của Công ty Liên doanh Trường Thành; năm 2001 có 02 dự án: Công ty Liên doanh Hồng Hạc đầu tư vào lĩnh vực du lịch sinh thái và Công ty Liên doanh tàu cao tốc Tân Hải đầu tư vào phương tiện vận chuyển khách bằng tàu cao tốc. Năm 2003 có 01 dự án của Công ty Thể thao giải trí Top Ten đầu tư khu thể thao và vui chơi giải trí; xây dựng Khách sạn Đồ Sơn đạt tiêu chuẩn 4 sao. Nguyên nhân cơ bản về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hạn chế là do một số khu vực không được thu hút đầu tư nước ngoài để đảm bảo yêu cầu an ninh, quốc phòng, công tác quảng bá - xúc tiến đầu tư còn thiếu kinh phí, thực hiện quy hoạch đất và giải phóng mặt bằng, đền bù đất dành cho đầu tư còn chậm, làm nản lòng doanh nghiệp.

4. Kết quả hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch:

4.1. Xác định loại hình và xây dựng sản phẩm du lịch:

Loại hình du lịch Hải Phòng: Căn cứ vào tiềm năng phát triển du lịch, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, lợi thế về địa hình, vị trí địa lý và các hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật... loại hình du lịch cơ bản của Hải Phòng được lựa chọn đầu tư, xây dựng và phát triển là:

- Du lịch sinh thái biển, nghỉ dưỡng;

- Du lịch văn hóa;

- Du lịch hội thảo, hội nghị, hội chợ;

- Du lịch thăm thân;

- Du lịch thể thao;

- Du lịch điền dã nông thôn.

Các tuyến, điểm du lịch: Trên cơ sở quy hoạch tổng thể du lịch Hải Phòng đến năm 2010, căn cứ vào nguồn tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, nội thành Hải Phòng được xác định là tâm điểm xuất phát của các tuyến du lịch ra ngoại thành, trong đó Đồ Sơn và Cát Bà là 2 trọng điểm du lịch lớn của thành phố. Các tuyến, điểm du lịch được xác định:

a. Các tuyến du lịch:

- Tuyến du lịch nội thành gồm các quận: Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và Hải An.

- Tuyến du lịch phía Nam thành phố gồm quận Kiến An và các huyện: An Lão, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng.

- Tuyến du lịch phía Đông Nam gồm quận Kiến An và huyện Tiên Lãng.

- Tuyến du lịch phía Đông gồm nội thành, huyện Kiến Thuỵ và thị xã Đồ Sơn.

- Tuyến du lịch phía Đông Bắc gồm nội thành, thị trấn Cát Bà, vịnh Lan Hạ, vịnh Hạ Long.

- Tuyến du lịch phía Bắc gồm nội thành và huyện Thủy Nguyên.

b. Các điểm du lịch:

Hai trọng điểm du lịch Đồ Sơn, Cát Bà có loại hình chủ yếu là du lịch sinh thái biển kết hợp với du lịch nghỉ dưỡng, thể thao, lặn biển, hội thảo, hội nghị, văn hóa, lễ hội... Các điểm du lịch ven thành phố như du lịch sinh thái núi Voi; điểm du lịch sinh thái rừng - đồi chim núi Đấu (quận Kiến An); Khu du lịch sinh thái núi đá vôi Sông Giá (ví như Hạ Long cạn trên đất huyện Thủy Nguyên); Khu phố cũ nội thành Hải Phòng (các khu nhà xây dựng theo phong cách kiến trúc Pháp), Nhà hát lớn, Bảo tàng thành phố... Di tích văn hóa, lịch sử: Chùa Dư Hàng, Chùa Đỏ, Đình Kênh, Đền Nghè, Đình Nhân Mục, Đình Quán Khái, Miếu Bảo Hà, Đình Kiến Bái, chùa Mỹ Cụ, chùa Lâm Động... Các cụm di tích lịch sử: Cụm di tích lịch sử sông Bạch Đằng, đền Trần Quốc Bảo, đền Trạng nguyên Lê Ích Mộc; Dương kinh nhà Mạc, đình Kim Sơn - Tân Trào kháng Nhật; Khu di tích lịch sử văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm... Các làng nghề thủ công truyền thống: Con giống Nhân Mục, tạc tượng Đồng Minh (huyện Vĩnh Bảo), đúc đồng Mỹ Đồng, Mây tre đan Chính Mỹ (huyện Thủy Nguyên), làng hoa Hạ Lũng (quận Hải An)...

c. Các sự kiện văn hóa - lễ hội:

Lễ hội du lịch Hải Phòng (được tổ chức hàng năm vào 2 ngày 30/4 và 01/5 tại thị xã Đồ Sơn); Lễ hội Nghề cá Cát Bà (01/4); Lễ hội kỷ niệm ngày mất của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (27 - 29/11 âm lịch); Lễ hội Núi Voi (15 - 17/01 âm lịch); Lễ hội Vật cầu, Minh thề, rước lợn ông Bồ (huyện Kiến Thụy) tổ chức từ 05 - 15/01 âm lịch; Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn (09/8 âm lịch); Lễ hội đền Dáu (08 - 10/02 âm lịch); Hội đền Dư Hàng (18/02 âm lịch); Hội đền An Lư (11/11 âm lịch); Hội đền Phò Mã; Hội đu xuân, phiên chợ Cầu may, hát đúm ở huyện Thủy Nguyên; Lễ hội xuống biển; Hội Chùa Vẽ; Đền thờ Trần Hưng Đạo - nơi ông cùng nghĩa quân quan sát và vẽ bản đồ bằng cách rắc vừng trên bánh đa chuẩn bị cho trận đánh lịch sử chống quân Nguyên trên sông Bạch Đằng.

d. Ẩm thực Hải Phòng:

Là thành phố cửa biển, Hải Phòng có nhiều loại hải sản và các món ẩm thực đậm nét phong vị biển. Từ bát bánh đa cua đến các món ăn đặc sản như tu hài, tôm hùm, cá giò... đã mang đến cho du khách những ấn tượng khó quên về đặc trưng ẩm thực của người Hải Phòng đó là sự bình dị, mộc mạc và cao cấp. Hải sản ở Hải Phòng đa dạng về chủng loại như: tu hài, hải sâm, ốc biển, tôm, cua, cá thu, cá ngừ, cá giò, nước mắm Cát Hải... Do đó, du khách có thể tùy thích thưởng thức và mua làm quà sau mỗi chuyến tham quan.

e. Đồ mỹ nghệ, hàng lưu niệm của các làng nghề truyền thống:

Cùng với lịch sử hình thành và phát triển lâu đời của dải đất Hải Phòng, các làng nghề truyền thống của Hải Phòng cũng được hình thành và phát triển như: Nghề tạc tượng và múa rối cạn Đồng Minh, làm con giống và múa rối nước Nhân Hòa (huyện Vĩnh Bảo), nghề đúc đồng Mỹ Đồng, mây tre đan Chính Mỹ, gốm sứ Minh Tân (huyện Thủy Nguyên), nghề dệt thảm len Hàng Kênh, làng hoa, cây cảnh Hạ Lũng (quận Hải An)... các làng nghề của Hải Phòng mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân địa phương và một số nhà máy sản xuất trên địa bàn thành phố. Mẫu mã và chất lượng sản phẩm chưa cao, không đa dạng và đặc thù do vậy không thu hút được khách du lịch đến thăm và mua làm quà lưu niệm.

4.2. Hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch:

Hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch luôn đi trước 1 bước đối với sự phát triển du lịch, đang cần được Nhà nước quan tâm. Thời gian qua ngành Du lịch đã biên soạn nhiều sách (Hướng dẫn du lịch Hải Phòng, Niên giám du lịch Hải Phòng...), các tập gấp, ấn phẩm quảng cáo và đĩa CD giới thiệu về Cát Bà, Đồ Sơn, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo và các điểm du lịch hấp dẫn trên địa bàn thành phố.

Phối hợp với báo, đài Trung ương và địa phương định kỳ đưa tin, bài giới thiệu về du lịch Hải Phòng; phối hợp với UNESCO Việt Nam, chương trình con người và sinh quyển, Trung tâm nghiên cứu, giáo dục và môi trường, Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng bộ phim giới thiệu về ‘Khu Dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà’ được trình chiếu từ tháng 3 - 9/2005 tại triển lãm quốc tế Aichi (Nhật Bản); phối hợp với Trung tâm Hợp tác báo chí truyền thông quốc tế (Bộ Văn hóa Thông tin) xây dựng phóng sự ‘Sinh thái Cát Bà’ phát trên chương trình truyền hình đối ngoại VTV4 (Đài Truyền hình Việt Nam).

Phối hợp với các cơ quan liên quan tuyên truyền, tổ chức các sự kiện du lịch hàng năm như: Lễ hội Du lịch Đồ Sơn, Cát Bà, Lễ kỷ niệm ngày mất của Danh nhân văn hóa Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lễ đón nhận Khu Dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà do UNESCO trao tặng, tổ chức ngày Văn hóa - Du lịch trong chương trình Hội chợ triển lãm Hải Phòng - hội nhập và phát triển lần thứ 2...

Xây dựng Website Du lịch Hải Phòng nằm trong Website thành phần của Ủy ban nhân dân thành phố và chính thức đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005. Đề án xây dựng mạng báo khách du lịch sử dụng lnternet đang được hoàn chỉnh, giúp cho công tác quản lý khách du lịch thuận tiện, chính xác và kịp thời.

Hợp tác phát triển du lịch giữa Hải Phòng và Hà Giang, Hải Phòng và Yên Bái, Hải Phòng và Hà Nội, triển khai kế hoạch quảng bá hình ảnh du lịch Hải Phòng tại Liên hoan du lịch quốc tế Hà Nội (29/4 - 01/5/2005). Đã tổ chức chuyến khảo sát vào tháng 8/2005 tại Yên Bái nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp du lịch tìm kiếm cơ hội đầu tư, liên doanh hợp tác kinh doanh du lịch (theo chương trình ký kết liên doanh hợp tác phát triển du lịch giữa thành phố Hải Phòng với tỉnh Yên Bái ký ngày 23/4/2005). Cùng với 22 Sở quản lý về du lịch trong nước tham gia Chương trình hợp tác phát triển du lịch với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tháng 8/2005, thành phố Hải Phòng đã ký kết với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) thỏa thuận về việc tăng cường hợp tác giao lưu du lịch giữa Khu tự trị dân tộc Choang với Hải Phòng. Ngành Du lịch Hải Phòng đã họp bàn với Đại sứ Vương quốc Thái Lan tại Việt Nam về xúc tiến du lịch giữa 2 thành phố Pattaya và Hải Phòng. Xúc tiến thành công mở đường bay Ma Cao (Trung Quốc) - Hải Phòng.

Nhìn chung, công tác quảng bá - xúc tiến du lịch Hải Phòng thời gian qua đã có nhiều cố gắng, hoạt động xúc tiến đã được triển khai toàn diện hơn. Tuy nhiên, hoạt động vẫn ở trong phạm vi hẹp, công nghệ chưa cao, nhận thức về quảng bá, xúc tiến của các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố còn yếu, các doanh nghiệp chưa phối hợp với nhau, chưa hỗ trợ nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp, thiếu đầu tư chiến lược cho nghiệp vụ này. Vì thế chưa tạo được những sản phẩm du lịch hấp dẫn, có chất lượng để thu hút khách du lịch. Nhiều thị trường du lịch ngoài nước và ngay cả trong nước còn nghèo thông tin và hình ảnh về Hải Phòng.

5. Phát triển cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch:

- Cơ sở lưu trú: 10 năm qua, cùng với sự tăng trưởng của số lượng khách du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch phát triển nhanh, bước đầu đáp ứng nhu cầu ăn nghỉ của khách có mức chi tiêu trung bình. Tuy cơ sở lưu trú nhiều nhưng quy mô còn nhỏ, phần lớn chỉ từ 10 - 45 phòng, ít khách sạn có quy mô trên 100 phòng.

Năm 1996, toàn thành phố mới có 83 khách sạn với 2.508 phòng nghỉ. Năm 2005, có 193 khách sạn với 5.117 phòng nghỉ và 10.907 giường. Trong đó có 78 khách sạn được xếp hạng từ 1 - 4 sao, chiếm 40,4% tổng số khách sạn với tổng số phòng là 2.974 phòng, chiếm 57,5%.

- Cơ sở ăn uống: Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ đều có dịch vụ ăn uống. Hệ thống các nhà hàng, các quán ăn... từ bình dân đến cao cấp rất đa dạng, luôn sẵn sàng phục vụ khách du lịch cũng như nhu cầu ẩm thực của người dân địa phương. Các quán ăn đặc sản chủ yếu tập trung ở khu vực nội thành, trọng điểm du lịch Đồ Sơn và Cát Bà.

- Khu vui chơi giải trí, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách: Các khu vui chơi giải trí cao cấp còn ít, chủ yếu là các điểm vui chơi giải trí nhỏ lẻ, thiếu các khu vui chơi giải trí tổng hợp, các khu thể thao, sân golf, bowling, công viên chuyên đề... Khách du lịch đến chủ yếu là tắm biển, tham quan các di tích lịch sử, đình, đền, chùa và các công trình văn hóa.

Hiện nay, có 07 doanh nghiệp và 02 chi nhánh có chức năng kinh doanh lữ hành quốc tế, 51 doanh nghiệp có chức năng kinh doanh lữ hành nội địa và 06 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch tuyến Hải Phòng - Cát Bà. Các thành phần kinh tế đều tích cực tham gia phát triển du lịch nhưng quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu, chưa tự chủ vươn ra thị trường nước ngoài, thường hoạt động theo giải pháp nối tour, ghép khách của các Công ty Lữ hành Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.

6. Phát triển lực lượng lao động phục vụ du lịch:

Năm 2005 thành phố có 27.000 lao động du lịch (chiếm 2,67% tổng số lao động có việc làm trên toàn thành phố), trong đó có 22.500 lao động trực tiếp. Qua mỗi năm, chất lượng lao động được quan tâm hơn, đến nay tỷ lệ lao động đã qua đào tạo được sử dụng trên 60% tổng số lao động du lịch. Thời gian qua các doanh nghiệp kinh doanh du lịch đã sử dụng lao động có đào tạo để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Ngành Du lịch và Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng (Tổng cục Du lịch) đã mở nhiều lớp đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Học viên ra trường hầu hết đã làm việc đúng với chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo.

7. Bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch:

Những nội dung đã làm được:

- Tại Cát Bà, trong 5 năm qua, Nhà nước đã đầu tư hệ thống giao thông, cấp thoát nước để bảo vệ môi trường đô thị và môi trường biển. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục bảo vệ rừng, hoang thú và sinh vật trên đảo, dưới lòng biển. Ngày 02/12/2004, quần đảo Cát Bà đã được UNESCO công nhận là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới.

- Tại Đồ Sơn, thị xã đã chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, chính quyền địa phương quản lý chặt chẽ việc thu gom rác thải, xử lý nghiêm những đơn vị vi phạm quy định về bảo vệ môi trường; khuyến khích trồng rừng, bảo vệ rừng, đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp.

- Về môi trường xã hội - nhân văn, ngành Du lịch đã kết hợp với chính quyền địa phương các khu du lịch chủ động giáo dục ý thức tự giác phòng ngừa các loại văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy làm tổn hại thuần phong mỹ tục; tập trung đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa; khôi phục các lễ hội truyền thống như: Chọi trâu, đảo Dáu, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, núi Voi, làng cá Cát Bà... tạo nhiều điểm du lịch văn hóa hấp dẫn du khách.

Những bất cập cần khắc phục:

- Quy hoạch không gian đô thị quần đảo Cát Bà còn lộn xộn, các khu dịch vụ ăn, nghỉ, vui chơi giải trí chưa quy hoạch thống nhất. Thiếu quy hoạch các điểm neo đậu tàu, thuyền trên biển (nhất là tàu cá); điểm nuôi cá lồng bè... gây ô nhiễm môi trường, phá hủy hệ sinh thái biển, mất vẻ đẹp cảnh quan tự nhiên, ảnh hưởng văn minh du lịch. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng nhu cầu của du khách.

- Đầu tư hạ tầng cho phát triển du lịch của thị xã Đồ Sơn, đặc biệt là các hệ thống thoát nước, xử lý chất thải chưa được đầu tư đồng bộ. Việc khôi phục các di tích lịch sử như: Tháp Tường Long, đình Ngọc, suối Rồng, đảo Dáu... chưa được quan tâm. Chất lượng dịch vụ du lịch tại đây còn lạc hậu, chậm đổi mới...

- Trong lĩnh vực du lịch, văn hóa chưa có sự phối hợp tốt giữa ngành Văn hóa thông tin với ngành Du lịch. Chưa có sản phẩm văn hóa miền biển đặc trưng nên không hấp dẫn du khách.

III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN:

1. Những hạn chế:

Trong 10 năm qua, Du lịch Hải Phòng đang từng bước phát triển và đã thu được một số kết quả khả quan như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, hoạt động của ngành trong những năm vừa qua vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế như sau:

- Đầu tư trong lĩnh vực du lịch, còn nhiều dự án chưa theo quy hoạch và đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân đầu tư mang tính tự phát. Cơ sở lưu trú quy mô nhỏ, manh mún, không có hoặc ít dịch vụ bổ trợ, thiếu khuôn viên cây xanh và không có hệ thống xử lý chất thải... Quy hoạch đầu tư xây dựng tại 2 trọng điểm du lịch: Đồ Sơn và Cát Bà còn chắp vá, thiếu đặc thù văn hóa du lịch. Có quy hoạch nhưng không xây dựng theo quy hoạch, chính quyền địa phương buông lỏng quản lý.

- Phương tiện vận chuyển khách du lịch lạc hậu, chất lượng thấp, sân bay Cát Bi chưa được nâng cấp thành sân bay quốc tế, chưa có bến tàu du lịch nội địa và quốc tế của địa phương.

- Sản phẩm du lịch đặc thù của Hải Phòng và các dịch vụ vui chơi giải trí nghèo nàn. Nhiều điểm tham quan du lịch xuống cấp, chưa được tu bổ. Cơ sở hạ tầng không đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch.

- Các doanh nghiệp lữ hành của Hải Phòng chưa đủ mạnh, năng lực cạnh tranh yếu, chưa đủ sức để vươn ra các thị trường: Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và các nước ASEAN... Khách có khả năng thanh toán cao chỉ chiếm 25 - 30% trong tổng số khách quốc tế. Hướng dẫn viên thiếu về số lượng, yếu về nghiệp vụ. Thuyết minh viên điểm mới bắt đầu đào tạo, chưa phát huy tác dụng trong thực tế.

- Hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch chưa có hệ thống và sâu rộng. Chất lượng thấp, hình thức quảng bá chưa phong phú...

- Chưa bình đẳng trong kinh doanh du lịch. Nhiều nhà khách, nhà nghỉ (ở Đồ Sơn) của các cơ quan, đoàn thể, bộ, ngành... vẫn đón khách du lịch nhưng không đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp nên có chênh lệch lớn về chi phí đầu vào với các khách sạn.

- Lao động quản lý, lao động nghề tại cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, hướng dẫn viên và nhất là thuyết minh viên điểm chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng đối với phát triển du lịch trong tình hình mới và hội nhập.

- Tại các trọng điểm du lịch còn nhiều quán hàng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường. Tình trạng ăn mày, ăn xin, chèo kéo khách còn khá phổ biến. Việc sử dụng hè phố ngay trong nội thành làm nơi mua bán, ăn sáng rất phổ biến, gây mất vệ sinh, có nguy cơ trở thành tập quán.

- Phương tiện, trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn trên biển chưa đáp ứng nhu cầu. Vệ sinh bãi tắm mới chỉ quan tâm tới rác mà xem nhẹ việc vệ sinh nguồn nước. Chưa xử lý tốt chất thải (nước thải và rác thải) tại các trọng điểm du lịch như: Nội thành, Đồ Sơn, Cát Bà.

2. Những nguyên nhân cơ bản của hạn chế, yếu kém:

Nguyên nhân có nhiều, song nguyên nhân chủ quan là chính: Trước hết là sự chỉ đạo của thành phố chưa thực sự tập trung ưu tiên, khuyến khích đầu tư phát triển du lịch, chưa có giải pháp hỗ trợ thiết thực mang tính đột phá để du lịch phát triển; các cấp, các ngành và phần lớn nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của phát triển du lịch; phần lớn các hộ kinh doanh và người dân ở các trung tâm du lịch chưa ý thức đầy đủ trách nhiệm của mình với môi trường cũng như văn hóa du lịch.

- Công tác quy hoạch chưa lấy yêu cầu phát triển du lịch bền vững làm tiêu chí cho nhiệm vụ quy hoạch tại các trọng điểm du lịch. Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn: Thời gian phê duyệt dự án dài, giải phóng mặt bằng khó khăn và chậm, chưa có hỗ trợ thích đáng cho các loại hình du lịch phục vụ cộng đồng xã hội có hiệu quả thấp như vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng...

- Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chưa được quan tâm. Cơ sở đào tạo manh mún, quy mô nhỏ, chất lượng thấp; năng lực đội ngũ giáo viên còn hạn chế, chưa năng động, sáng tạo. Tư duy về phát triển du lịch trong đa số cán bộ quản lý, kinh doanh và cộng đồng dân cư chưa đầy đủ và phù hợp với yêu cầu phát triển.

- Kỷ cương trong quản lý kinh doanh lỏng lẻo. Tính tự giác, ý thức chấp hành pháp luật của nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch còn yếu kém. Công tác hậu kiểm của cơ quan cấp đăng ký kinh doanh chưa thực hiện được. Sự phối kết hợp giữa địa phương có trọng điểm du lịch và các ngành hữu quan chưa tốt, chưa có được sự hỗ trợ chung của xã hội.

Phần II

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020

I. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN:

Khai thác tối đa tiềm năng phát triển du lịch về tài nguyên thiên nhiên, văn hóa và xã hội, phát huy lợi thế về vị trí địa lý của thành phố, đảm bảo môi trường sinh thái, đa dạng hóa các loại hình và sản phẩm du lịch, thu hút đầu tư... góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng GDP du lịch trong tổng GDP của thành phố; tạo thêm việc làm, nâng cao dân trí; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương, tôn tạo, bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa; bảo vệ môi trường, tăng cường an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

II. MỤC TIÊU:

Từng bước xây dựng Hải Phòng thành trung tâm đón nhận và phân phối khách quốc tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch. Phấn đấu đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, du lịch Hải Phòng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, là động lực đẩy nhanh tiến trình xây dựng Hải Phòng trở thành trung tâm du lịch của vùng Duyên hải Bắc Bộ; đảo Cát Bà cùng với Đồ Sơn, Hạ Long trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế của cả nước.

III. CHỈ TIÊU CƠ BẢN NĂM 2010:

Chỉ tiêu kế hoạch năm 2010, du lịch Hải Phòng sẽ đón và phục vụ trên 5,6 triệu lượt khách, tăng bình quân trên 18,5%/năm, trong đó khách du lịch quốc tế là 1,3 triệu lượt, chiếm 24%, tăng bình quân 20,5%/năm; tỷ trọng GDP du lịch đạt 4,5% trong tổng GDP của thành phố; tốc độ tăng về doanh thu du lịch bình quân 19%/năm, mức doanh thu chiếm 10% tổng doanh thu du lịch của cả nước.

IV. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH:

1. Nhiệm vụ chủ yếu:

1.1. Về quy hoạch:

Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố Hải Phòng thời kỳ 1996 - 2010, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch khu vực và hội nhập, phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010; hoàn thành Quy hoạch phát triển du lịch Cát Bà, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Vĩnh Bảo; triển khai quy hoạch phát triển du lịch nội thành. Đồng thời khảo sát một số khu vực, điểm có tiềm năng phát triển du lịch để quy hoạch tiếp theo (lưu vực sông Đa Độ, quận Kiến An, khu núi Voi, sông Lạch Tray, sông Giá, rừng ngập mặn Vinh Quang, làng hoa Đằng Hải...).

a. Định hướng của Trung ương:

Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, nội dung phát triển du lịch nêu rõ: ‘Du lịch Việt Nam phải thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở huy động các nguồn lực của toàn xã hội để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa - lịch sử của đất nước, phấn đấu thu hút 6 triệu lượt khách quốc tế và trên 25 triệu khách du lịch trong nước vào năm 2010’.

‘Vốn ngân sách Nhà nước tiếp tục tập trung vào việc hỗ trợ đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng du lịch, trước hết là các trọng điểm du lịch quốc gia và các vùng có tiềm năng phát triển du lịch, đặc biệt là các khu du lịch gắn với các di tích văn hóa - lịch sử đã được quy hoạch và có chiến lược phát triển đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ‘.

‘Tiếp tục hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho việc thực hiện chương trình hành động quốc gia về du lịch’.

Để thực hiện chủ trương trên, thành phố cần chuẩn bị tốt để Trung ương có thể dành vốn đầu tư thỏa đáng cho các nhu cầu xây dựng Hải Phòng từng bước trở thành trung tâm du lịch của khu vực, cả nước và quốc tế. Trước mắt cần xây dựng Đồ Sơn, Cát Bà thành Trung tâm du lịch sinh thái biển, nghỉ dưỡng. Phát triển nhiều loại hình dịch vụ bổ trợ nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng văn hóa của địa phương để phát triển du lịch và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.

b. Chủ trương của địa phương:

Để phát triển du lịch Hải Phòng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Bộ Chính trị đã giao Đảng bộ và nhân dân thành phố thực hiện nhiệm vụ: ‘Phát triển du lịch Hải Phòng thành trung tâm du lịch của vùng Duyên hải Bắc Bộ, trong đó xây dựng đảo Cát Bà cùng với Đồ Sơn, Hạ Long trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế của cả nước’ (Nghị quyết số 32/NQ-TW ngày 05/8/2003). Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 của Tổng cục Du lịch đã xây dựng Khu du lịch tổng hợp biển, đảo Hạ Long - Cát Bà (Quảng Ninh - Hải Phòng) gắn với địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Do vậy, quy hoạch khu du lịch Đồ Sơn và Cát Bà phải được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Phòng thời kỳ 1996 - 2010 và điều kiện tự nhiên, tình hình thực tế của thành phố, cần quy hoạch thêm 2 khu vực Kiến Thụy và Vĩnh Bảo nhằm tạo đà thúc đẩy phát triển du lịch của thành phố.

1.2. Về đầu tư:

Thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư để khai thác vốn Trung ương đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch; ưu tiên bố trí vốn địa phương đầu tư đồng bộ về đường, điện, cấp nước sạch, thoát và xử lý nước thải; dành quỹ đất cho khuôn viên cây xanh, đường nội bộ, bãi đỗ xe ở các trọng điểm du lịch và phối hợp đầu tư hỗ trợ các dự án lớn của doanh nghiệp kinh doanh du lịch.

Hàng năm, thành phố bố trí vốn ngân sách địa phương chuẩn bị đầu tư và tranh thủ các nguồn vốn Trung ương để đầu tư hạ tầng du lịch tại các vùng trọng điểm như: Cát Bà, Đồ Sơn, Kiến Thụy; giao Sở Du lịch lập Đề án quy hoạch và dự án đầu tư hạ tầng du lịch lưu vực sông Đa Độ kết hợp khai thác tốt tài nguyên biển Đồ Sơn với tài nguyên sông Đa Độ, khai thác nguồn vốn Trung ương để xây dựng khu du lịch quốc gia tổng hợp Đồ Sơn - Kiến Thụy, tạo thêm trọng điểm du lịch có quy mô đủ lớn nhằm phát triển du lịch Hải Phòng trong giai đoạn mới; sớm triển khai đề án xây dựng cảng du lịch nội địa và quốc tế của địa phương; xây dựng cầu cảng du lịch tại đảo Dáu (nối tuyến du lịch nội thành - Đồ Sơn - Cát Bà - Hạ Long, Đồ Sơn - rừng ngập mặn - suối khoáng nóng Tiên Lãng - đền Trạng Vĩnh Bảo); phối hợp tốt với các Bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh tiến độ đầu tư, nâng cấp sân bay Cát Bi theo tiêu chuẩn sân bay quốc tế để sớm đưa vào khai thác, đảm bảo an toàn cho máy bay cỡ lớn hoạt động; đưa dự án Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng và Trạm dừng chân - quảng bá và xúc tiến du lịch vào danh mục các dự án trọng điểm của thành phố.

1.3. Loại hình và sản phẩm du lịch:

a. Loại hình du lịch cơ bản:

Loại hình du lịch cơ bản của thành phố được lựa chọn dựa trên tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và những lợi thế của thành phố về phát triển du lịch, đó là:

- Du lịch sinh thái biển kết hợp du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, du lịch mạo hiểm (leo núi, lặn biển), du lịch hội thảo - hội chợ - hội nghị;

- Du lịch lễ hội kết hợp khảo cứu văn hóa truyền thống, đặc thù địa phương;

- Du lịch điền dã (đi bằng xe đạp, thuyền, xuồng máy trên sông) kết hợp khảo cứu văn hóa làng xã (du lịch cộng đồng), thưởng ngoạn miệt vườn (ven sông Đa Độ, sông Giá, sông Lạch Tray...).

b. Sản phẩm du lịch chủ yếu:

Sở Du lịch hướng dẫn các doanh nghiệp du lịch xây dựng sản phẩm du lịch:

- Các tour du lịch theo các tuyến: Nội thành - Cát Bà - vịnh Hạ Long, nội thành - Kiến Thụy - Đồ Sơn, nội thành - Kiến An - An Lão (núi Voi) - Vĩnh Bảo (Đền Trạng) - Tiên Lãng (suối khoáng); các điểm vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, thể thao... các trọng điểm du lịch. Đặc biệt là xây dựng chọi trâu trở thành một loại hình dịch vụ du lịch đặc sắc phục vụ du khách;

- Thi chế tác sản phẩm lưu niệm mang đặc thù bản sắc văn hóa Hải Phòng.

c. Các tuyến, điểm du lịch:

+ Nâng cấp, phát triển các khu, điểm du lịch:

- Tại Cát Bà: Đẩy mạnh phát triển loại hình tham quan vịnh, vụng, hệ thống hang động. Tham quan, nghiên cứu các giá trị về sinh thái, sinh học và cảnh quan Khu dự trữ sinh quyển kết hợp với vịnh Hạ Long, đầu tư xây dựng và khai thác các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, thể thao...

- Tại Đồ Sơn: Đẩy mạnh phát triển loại hình du lịch sinh thái rừng - biển, du lịch nghỉ dưỡng và tham dự các lễ hội vùng biển độc đáo như: Lễ hội chọi trâu, lễ hội đảo Dáu. Du lịch tham quan, thể thao, văn hóa, hội nghị - hội thảo... nối tuyến Đồ Sơn - Tiên Lãng, Đồ Sơn - Cát Bà - Bạch Long Vỹ.

- Tại Kiến Thụy, Thủy Nguyên và Vĩnh Bảo: Tập trung phát triển loại hình du lịch nông thôn, du lịch điền dã và du lịch văn hóa.

- Khu vực nội thành và một số vùng lân cận: Chú trọng loại hình du lịch tham quan các công trình văn hóa, kiến trúc cổ, đình, đền, chùa, làng nghề và tham gia các lễ hội truyền thống...

+ Xây dựng các tuyến du lịch:

- Tuyến nội thành Hải Phòng: Xây dựng chi tiết đề án tour du lịch trong ngày đi thăm các công trình văn hóa, các di tích lịch sử, cơ sở sản xuất mây tre đan, tạc tượng, điêu khắc... phục vụ đối tượng khách như: Thủy thủ tàu biển, khách thương mại và khách vãng lai tại Hải Phòng.

- Tuyến du lịch phía Nam thành phố bao gồm: Nội thành, quận Kiến An và các huyện: An Lão, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng.

Đối với tuyến du lịch này trước mắt cần phải nâng cấp tour du lịch ‘Du khảo đồng quê’, chú trọng chất lượng dịch vụ, điều kiện cơ sở vật chất: Vệ sinh công cộng, bãi để xe, ki ốt bán hàng thủ công mỹ nghệ, đặc sản nông nghiệp của địa phương; nơi ăn, nghỉ và các dịch vụ nơi du khách dừng chân.

- Tuyến du lịch phía Đông Nam bao gồm: Khu vực nội thành, huyện Kiến Thuỵ và thị xã Đồ Sơn.

Đây là tuyến du lịch tiềm năng, đang được khai thác một cách hiệu quả. Trước mắt cần xây dựng và quảng bá tour du lịch đi bằng xe đạp qua các di tích lịch sử, nơi phát tích của 1 triều đại phong kiến Việt Nam thế kỷ thứ XV (Dương Kinh nhà Mạc) và khu du lịch Đồ Sơn.

- Tuyến Du lịch phía Đông bao gồm: Nội thành, đường xuyên đảo - thị trấn Cát Bà - vịnh Lan Hạ - vịnh Hạ Long.

Đây là tuyến du lịch hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế. Tuyến du lịch này có lợi thế về tài nguyên du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái rừng, biển, đảo. Có khả năng tổ chức và kết hợp nhiều loại hình du lịch khác nhau, thu hút nhiều đối tượng du khách; khai thác ưu thế của di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả tour du lịch này và tránh được tình trạng du lịch mùa vụ, cần phải xây dựng thêm các loại hình du lịch mới, hấp dẫn và độc đáo dựa trên các điều kiện tự nhiên sẵn có như: Tour du lịch đi bằng xe đạp địa hình Hải Phòng - Cát Bà theo đường xuyên đảo, các tour du lịch có tính mạo hiểm, khám phá nét hoang sơ của quần đảo Cát Bà (Du lịch điền dã)...

- Tuyến du lịch phía Đông Bắc bao gồm: Nội thành Hải Phòng và huyện Thủy Nguyên.

Đây là tuyến du lịch tập hợp nhiều điểm tham quan liền mạch, có giá trị văn hóa và lịch sử sâu sắc: Điểm xuất phát bắt đầu từ nội thành Hải Phòng - cầu Bính - chùa Lâm Động - hồ sông Giá - chùa Mỹ Cụ - khu di tích thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc - làng cau Cao Nhân - làng đúc Mỹ Đồng - đình Kiến Bái - cầu Kiền - nội thành Hải Phòng.

1.4. Nâng cao chất lượng lao động du lịch:

Trong thời gian qua, chất lượng lao động du lịch Hải Phòng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trong lộ trình gia nhập AFTA, WTO, du lịch Hải Phòng phải vươn lên đáp ứng yêu cầu mới. Lao động du lịch và dịch vụ du lịch cần được đào tạo chuyên nghiệp, đồng bộ, nâng cao kiến thức ngoại ngữ và trình độ nghiệp vụ, chú trọng lao động quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh từ cơ sở đến doanh nghiệp, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.

Thực hiện mục tiêu cụ thể phát triển du lịch Hải Phòng đến năm 2010 là 5,63 triệu lượt khách, trong đó 1,3 triệu lượt khách quốc tế, số lao động du lịch cần có sẽ là 32.000 người, trong đó có 28.000 lao động trực tiếp.

1.5. Xây dựng thương hiệu du lịch Hải Phòng:

Trước những đòi hỏi mới của phát triển và hội nhập, du lịch Hải Phòng cần xây dựng những thương hiệu mạnh, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và hội nhập quốc tế. Trước hết là Khu Dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà và các doanh nghiệp lữ hành quốc tế, các siêu thị hiện đại với quy mô lớn, các khách sạn cao cấp, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng đẳng cấp quốc tế, có nhiều loại hình dịch vụ tiện lợi và hấp dẫn, góp phần làm tăng thời gian lưu trú và nâng cao mức tiêu của du khách.

2. Những giải pháp chủ yếu:

2.1. Tuyên truyền, giáo dục nhận thức về du lịch:

- Mở lớp tập huấn về Luật Du lịch và các văn bản dưới luật, các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan (quy định về quảng cáo; an ninh trật tự, phòng và chống tệ nạn xã hội; vệ sinh an toàn thực phẩm; bảo vệ tài nguyên - môi trường; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc) cho các đối tượng là giám đốc doanh nghiệp, người quản lý cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch.

- Chỉ đạo Sở Du lịch xây dựng chương trình, kế hoạch cùng với Đài Phát thanh và Truyền hình, các đài, báo địa phương và Trung ương thường trú tại Hải Phòng, chính quyền và các tổ chức xã hội tại địa bàn trọng điểm du lịch, phối hợp tuyên truyền thường xuyên và có trọng điểm chủ trương của Trung ương và địa phương về phát triển du lịch thành phố, tạo chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cộng đồng xã hội về vai trò, vị trí của kinh tế du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

2.2. Về thị trường khách:

Trong những năm qua khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng chủ yếu là khách Trung Quốc (chiếm gần 70% tổng số khách quốc tế), phần lớn đi bằng giấy thông hành qua các cửa khẩu vùng biên như: Móng Cái, Hữu Nghị, Lào Cai... lượng khách lớn nhưng mức chi tiêu thấp nên doanh thu không nhiều. Trong thời gian tới, Trung Quốc vẫn là thị trường khách quốc tế quan trọng đối với du lịch Hải Phòng. Các thị trường du lịch tiềm năng là khu vực: Đông Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ; thị trường truyền thống là: ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc. Phấn đấu đến năm 2008 sẽ vươn tới các thị trường: Nga, Đông Âu, Bắc Âu, Úc, New Zealand...

2.3. Huy động vốn và xây dựng cơ chế khuyến khích phát triển du lịch:

- Huy động vốn từ nhiều nguồn đầu tư phát triển du lịch. Hàng năm, thành phố xây dựng kế hoạch vốn ngân sách địa phương và khai thác nguồn vốn Trung ương đầu tư hạ tầng cơ sở các vùng trọng điểm du lịch của thành phố. Thu hút các nguồn vốn khác đầu tư kinh doanh du lịch. Xây dựng cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư du lịch. Đẩy mạnh hợp tác liên doanh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển du lịch, đồng thời khuyến khích đầu tư hạ tầng tiến tới xã hội hóa đầu tư phát triển du lịch để huy động tối đa các nguồn vốn trong xã hội.

- Xây dựng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ đầu tư hạ tầng (đường, điện, cấp nước sạch, thoát nước thải) đến chân hàng rào dự án; bố trí đất xây dựng chung cư cho lao động của doanh nghiệp. Đặc biệt ưu tiên các dự án vui chơi giải trí (đầu tư lớn, thời gian hoàn vôn dài), dự án có quy mô lớn, thích ứng với yêu cầu cải tạo và bảo vệ tài nguyên, môi trường; các sản phẩm, hàng lưu niệm mang đặc thù bản sắc văn hóa Hải Phòng.

2.4. Tổ chức và thực hiện tốt đào tạo lao động du lịch:

Giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng lao động du lịch của thành phố là tổ chức và thực hiện tốt công tác đào tạo lao động du lịch. Thường xuyên nâng cao nhận thức về Luật Du lịch và các văn bản có liên quan, các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước cho giám đốc doanh nghiệp, người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch.

Hỗ trợ Trường Trung học nghiệp vụ du lịch Hải Phòng hoàn thiện chương trình đào tạo theo chuẩn quốc gia: Dạy nghề du lịch và các nghiệp vụ hỗ trợ (ngoại ngữ, tin học, kế toán, hướng dẫn du lịch, thuyết minh viên...), từ trình độ trung cấp tiến tới đào tạo cao đẳng, tương đương đại học và đại học. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, áp dụng công nghệ tiên tiến phục vụ tốt nhiệm vụ đào tạo. Phối hợp mở lớp đào tạo để Hải Phòng có đủ hướng dẫn viên, thuyết minh viên giỏi nghề, yêu nghiệp, hiểu biết sâu rộng về lịch sử, văn hóa, thiên nhiên và xã hội của địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế.

+ Đào tạo lực lượng nhân viên phục vụ:

Đây là lực lượng lao động quan trọng đối với chất lượng dịch vụ du lịch, người lao động cần phải qua đào tạo nghề đạt trình độ tối thiểu (chứng chỉ đào tạo 9 tháng, bổ túc nghiệp vụ 6 tháng hoặc cấp tốc từ 7 - 10 ngày). Ưu tiên đào tạo ngoại ngữ và có chế độ ưu đãi về quyền lợi (phụ cấp lương, vị trí công tác, các chế độ sinh hoạt...) cho lao động có kiến thức tốt về ngoại ngữ.

+ Đào tạo hướng dẫn viên du lịch:

Hướng dẫn viên phải giỏi nghề, yêu nghiệp, giỏi ứng xử, hiểu biết sâu rộng lịch sử, văn hóa, thiên nhiên, xã hội khu vực và lĩnh vực mình hành nghề. Ngoài ra, hướng dẫn viên cần nắm vững những kiến thức về môi trường, những tác động của hoạt động du lịch đến môi trường và các hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái... Từ đó có những tác động trực tiếp đến khách du lịch hoặc cộng đồng dân cư tại điểm tham quan du lịch trong việc nâng cao nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường.

Tăng cường đào tạo lực lượng thuyết minh viên điểm du lịch, người thông thạo địa lý, lịch sử, văn hóa (những câu truyện dân gian, truyền thuyết...), thuần phong mỹ tục của địa phương để tạo cảm hứng cho du khách.

Phối hợp với ngành Văn hóa Thông tin soạn thảo tài liệu, đào tạo tốt lực lượng thuyết minh viên điểm, trước mắt ưu tiên tuyển dụng các sinh viên đã tốt nghiệp đại học, khoa Văn hóa du lịch cho thuyết minh tại các điểm du lịch.

+ Đào tạo cán bộ quản!ý:

Cán bộ quản lý là những người giỏi điều hành, thạo nghiệp vụ, có khả năng quản trị nhân sự và tầm nhìn chiến lược về thị trường. Cán bộ quản lý là người có kiến thức tổng hợp luôn được nâng cao, cập nhật thông tin. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải là người được đào tạo cơ bản, có năng lực, sáng tạo và nhạy bén trong hội nhập.

+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, giảng viên:

Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ, ngành Du lịch cần phải tập trung đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo nhân lực, giảng viên giầu kiến thức ở trình độ cao, không những giỏi về lý thuyết mà phải thạo thực hành. Cần có chính sách đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ ở cấp sau đại học cho những cán bộ, giảng viên đã và đang tham gia công tác đào tạo nguồn nhân lực trong ngành Du lịch.

Xây dựng các cơ chế ưu đãi hấp dẫn nhằm tìm kiếm. thu hút nhân tài để phục vụ du lịch địa phương. Đặc biệt quan tâm đến các đối tượng đã qua đào tạo chuyên ngành du lịch tại các quốc gia có du lịch phát triển.

2.5. Triển khai thành lập khu du lịch:

Thành phố xây dựng đề án thành lập Khu Du lịch quốc gia Cát Bà - Đồ Sơn, đề xuất Tổng cục Du lịch trình Chính phủ phê duyệt. Căn cứ các tiêu chuẩn thành lập khu du lịch quốc gia trong Luật Du lịch, Cát Bà - Đồ Sơn hội tụ đủ các điều kiện để trở thành khu du lịch quốc gia:

- Đồ Sơn đã được biết đến với những bãi tắm nổi tiếng từ thời Pháp, phong cảnh đẹp, môi trường trong lành, di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội có giá trị du lịch cao. Diện tích khu du lịch Đồ Sơn là 3.123 ha, hàng năm đón trên 1 triệu lượt khách du lịch (năm 2005 đón 1.150.000 lượt khách). Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đáp ứng được các nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng của du khách.

- Quần đảo Cát Bà là khu dự trữ sinh quyển thế giới, với lợi thế về vị trí địa lý, được du khách biết đến với những phong cảnh đẹp; môi trường trong lành, những dãy núi đá vôi trùng điệp, xen kẽ những bãi cát vàng, bãi san hô, rừng nguyên sinh nhiệt đới đa dạng, nhiều thung lũng, hang động, di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội truyền thống có giá trị du lịch cao. Diện tích quần đảo Cát Bà rộng 26.527 ha (17.040 ha mặt đất, 9.100 ha mặt biển), với 366 đảo lớn nhỏ.

2.6. Tổ chức tốt công tác xúc tiến - quảng bá du lịch:

Nâng cao chất lượng các tuyến du lịch hiện có, mở thêm tuyến du lịch sinh thái biển Hải Phòng - Bạch Long Vỹ. Phối hợp với các tỉnh, thành phố bạn trong và ngoài nước, thực hiện nối tuyến du lịch địa phương với tuyến du lịch quốc gia và quốc tế: Chú trọng tuyến đường bộ Hải Phòng - Côn Minh, Hải Phòng - Nam Ninh (Trung Quốc), Hải Phòng - Nghệ An - Thái Lan; mở tuyến du lịch đường thủy từ Hải Phòng đi các cảng quốc tế trong khu vực. Tập trung kinh phí và nỗ lực xúc tiến mở các tuyến bay quốc tế mới từ Hải Phòng đến các sân bay quốc tế trong khu vực như: Nam Ninh, Hải Nam (Trung Quốc), Băng Cốc, Pattaya (Thái Lan), Busan (Hàn Quốc) làm cơ sở mở các tuyến du lịch Hải Phòng - Pattaya - Băng Cốc - Nam Ninh, Hải Phòng - Hải Nam, Hải Phòng - Busan; tăng cường xúc tiến thị trường khách trong nước tạo nguồn khách đối ứng nhằm nâng cao hiệu quả tuyến bay Macao - Hải Phòng.

Xây dựng chương trình quảng bá, tiếp thị du lịch dài hạn, chất lượng cao, quy mô lớn, quảng bá hình ảnh Hải Phòng trên cả nước và các thị trường quốc tế chủ yếu (Trung Quốc), thị trường tiềm năng (Đông Á/Thái Bình Dương, Tây Âu, Bắc Mỹ) và thị trường truyền thống (ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc) của thành phố, phấn đấu vươn tới các thị trường: Nga, Đông Âu, Bắc Âu, Úc, New Zealand.

Bố trí kinh phí trong kế hoạch ngân sách hàng năm của địa phương để thực hiện quảng bá xúc tiến du lịch Hải Phòng.

2.7. Phát triển cơ sở lưu trú, các cơ sở dịch vụ du lịch:

Trước những nhu cầu lưu trú của thị trường khách du lịch hiện nay, số phòng khách quốc tế, đặc biệt là phòng cao cấp chưa đáp ứng được nhu cầu lưu trú của khách quốc tế, nhất là khách đi du lịch kết hợp đầu tư, kinh doanh, nghiên cứu thị trường. Do vậy, việc đầu tư xây dựng khách sạn trong những năm tới cần ưu tiên cấp phép đầu tư cho những dự án đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thực hiện phân loại và xếp hạng các cơ sở dịch vụ du lịch tại các trọng điểm du lịch; thực hiện triệt để việc niêm yết giá tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch.

Trong những năm tới, nhu cầu khách du lịch quốc tế mang theo xe ôtô sẽ tăng dần, thêm vào đó khách nội địa đến Hải Phòng bằng phương tiện ôtô cá nhân cũng tăng. Điều này đòi hỏi thiết kế khách sạn phải đủ diện tích để xe. Ngoài ra, lĩnh vực cần quan tâm nữa là các dự án đầu tư xây dựng công trình thể thao tổng hợp, khu hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo quốc tế, văn phòng cho thuê. Có cơ chế ưu đãi để hướng các chủ đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực này.

2.8. Bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch:

Đánh giá và phân loại các tài nguyên du lịch trên địa bàn thành phố có tính đa dạng sinh học cao như: Sinh thái biển, thảm san hô, rừng quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên, các di tích thiên nhiên đã được xếp hạng; khu vực cảnh quan giầu tiềm năng du lịch, vùng, khu, điểm văn hóa lịch sử... dễ bị ảnh hưởng do phát triển du lịch và các ngành kinh tế khác như: Phát triển cảng biển, khai thác nuôi trồng thủy sản, xây dựng. Phải bảo tồn, phát triển các hải sản quý hiếm, riêng có của vùng biển Hải Phòng nhằm đáp ứng, phục vụ các nhu cầu của du khách đến ăn nghỉ, tham quan du lịch tại Hải Phòng.

Tổ chức theo dõi thường xuyên những biến động để có giải pháp kịp thời khắc phục tình trạng xuống cấp về tài nguyên và môi trường du lịch; quản lý chặt chẽ những hoạt động du lịch và hoạt động kinh tế - xã hội khác để hạn chế ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái, tài nguyên, môi trường tự nhiên và xã hội.

Tăng cường biện pháp quản lý trong xây dựng và kinh doanh du lịch; chú trọng xử lý nước thải và chất thải ở các điểm du lịch, khu du lịch. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường.

Tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư tham gia công tác bảo vệ môi trường. Phấn đấu xã hội hóa việc bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch, từng bước đưa nội dung này vào chương trình giáo dục trong các trường học.

Chú trọng giữ gìn thành phố ‘xanh, sạch, đẹp’, đặc biệt ở nội thành và các trọng điểm du lịch, kiên quyết xóa bỏ tình trạng chèo kéo khách, tình trạng ăn xin...

Mở rộng quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường du lịch, thông qua các hoạt động hợp tác với các tổ chức du lịch như: WTO, PATA, ASEANTA... hoặc các tổ chức quan tâm đến bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên như: GEF, IUCN, WWF... đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, nhanh chóng nâng cao chất lượng môi trường du lịch và sản phẩm du lịch.

2.9. Củng cố và tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch:

Tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch của thành phố, quan tâm địa phương có trọng điểm du lịch (Cát Bà và Đồ Sơn). Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tình hình mới. Giao Sở Du lịch cùng Sở Nội vụ và các ban, ngành liên quan nghiên cứu xây dựng đề án thành lập Trung tâm hướng dẫn, giải đáp và trợ giúp du lịch (đặt chi nhánh tại Cát Bà và Đồ Sơn; là đơn vị sự nghiệp có thu, hạch toán theo phương thức tự trang trải).

Xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội; tăng cường phối hợp các ngành thường xuyên kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm, nhanh chóng đưa hoạt động du lịch vào nền nếp.

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hiệp hội Du lịch Hải Phòng và các tổ chức xã hội nhằm nâng cao chất lượng quản lý Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh du lịch.

V. KẾ HOẠCH BỐ TRÍ KINH PHÍ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010:

1. Kinh phí quảng bá - xúc tiến du lịch:

Hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch là nghiệp vụ gắn liền với sự phát triển của ngành Du lịch, cần được Nhà nước quan tâm đầu tư. Hiện nay, nhận thức về công tác quảng bá, xúc tiến của các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn thành phố còn yếu, các doanh nghiệp chưa kết phối hợp với nhau, chưa hỗ trợ nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp, thiếu đầu tư chiến lược cho nghiệp vụ này. Trong những năm qua, thành phố chưa có nguồn kinh phí dành cho công tác quảng bá, xúc tiến như quảng bá tại thị trường nước ngoài, tổ chức các Liên hoan du lịch, Hội chợ du lịch quốc tế. Các thị trường du lịch nghèo thông tin và hình ảnh về văn hóa, du lịch Hải Phòng. Đề nghị Hội đồng nhân dân thành phố có kế hoạch cấp kinh phí từ ngân sách hàng năm cho hoạt động quảng bá - xúc tiến du lịch nhằm đẩy mạnh sự phát triển của ngành Du lịch Hải Phòng trong thời gian tới:

2. Dự kiến nguồn vốn đầu tư cho ngành du lịch:

Để đạt được các chỉ tiêu cơ bản trong định hướng phát triển của du lịch Hải Phòng giai đoạn 2006 - 2010, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành, các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, phương tiện vận chuyển khách, cơ sở sản xuất hàng lưu niệm, cơ sở đào tạo nghiệp vụ du lịch... giữ vai trò hết sức quan trọng. Đầu tư ít, dàn trải hoặc đầu tư không đồng bộ thì việc thực hiện kế hoạch sẽ gặp nhiều khó khăn.

Số liệu về đầu tư du lịch trong và ngoài nước giai đoạn 1996 - 2005:

- Vốn ngân sách:                                                                 297,31 tỷ đồng.

- Vốn ngoài ngân sách:                                                     3.803,22 tỷ đồng.

- Vốn đầu tư nước ngoài:                                                   50,52 triệu USD.

Dự kiến nguồn vốn đầu tư phục vụ phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010:

- Vốn ngân sách:                                                              1.015,00 tỷ đồng.

- Vốn ngoài ngân sách:                                                     1.080,43 tỷ đồng.

Phần III

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Trong thời gian qua, nhận thức của các ngành, các cấp và của nhân dân về vai trò phát triển du lịch đã có những chuyển biến rõ rệt. Ngành Du lịch đã có nhiều cố gắng phối hợp với các ngành: Văn hóa Thông tin, Thương mại, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giao thông Công chính... trong công tác quản lý du lịch. Song vẫn còn hạn chế, những yêu cầu phát triển du lịch phần nhiều vẫn chỉ được thể hiện trong nghị quyết của cấp ủy Đảng, chính quyền, việc phối hợp chỉ đạo tổ chức thực hiện trong thực tiễn còn kém hiệu quả. Trong thời gian tới, để du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp ngày càng lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố giao Sở Du lịch cùng các ngành, các cấp liên quan thực hiện, cụ thể như sau:

1. Sở Du lịch: Thực hiện tốt vai trò tham mưu cho Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố, xây dựng các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch. Chủ động phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức thực hiện chương trình công tác của Ủy ban nhân dân thành phố về du lịch. Hàng năm, thay mặt Ban Chỉ đạo thành phố về du lịch xây dựng báo cáo tổng kết đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Thành ủy và Hội đồng nhân dân thành phố trong năm kế hoạch, đồng thời đề xuất, bổ sung giải pháp thực hiện cho năm tiếp theo.

2. Sở Kế hoạch và Đầu tư: Phối hợp với Sở Du lịch tổ chức triển khai các dự án ưu tiên đầu tư gắn với quy hoạch phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010. Đẩy mạnh công tác hậu kiểm các dự án đầu tư phát triển du lịch đã được phê duyệt và các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh du lịch; hướng dẫn và phối hợp với Sở Du lịch tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư du lịch; vận động, tranh thủ các nguồn vốn đầu tư hạ tầng phát triển du lịch gắn với phát triển dân sinh, xóa đói giảm nghèo. Bố trí một phần kinh phí hội nhập cho hoạt động xúc tiến du lịch.

3. Sở Tài chính: Phối hợp cùng Sở Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư xây dựng kế hoạch và phương án tài chính nhằm thực hiện chương trình phát triển du lịch của thành phố cũng như bố trí nguồn vốn ngân sách đầu tư cho du lịch. Đặc biệt quan tâm bố trí kinh phí quảng bá - xúc tiến du lịch cho giai đoạn 2006 - 2010.

4. Sở Tài nguyên và Môi trường: Phối hợp với Sở Du lịch thực hiện nghiêm quy chế bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch (Quy định số 02/2004/BTN&MT) cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác về tài nguyên và môi trường liên quan đến hoạt động du lịch; quan tâm thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng để triển khai đủ tốt các dự án.

Phối hợp với Sở Du lịch, Sở Tài chính trong việc thu phí khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch, đồng thời xây dựng kế hoạch bố trí kinh phí để bảo vệ môi trường du lịch.

5. Công an thành phố: Hướng dẫn các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch ở địa phương, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành... xây dựng các tuyến du lịch ngắn ngày, đảm bảo an toàn cho du khách và an ninh trật tự xã hội.

6. Sở Văn hóa Thông tin: Phối hợp với Sở Du lịch lập đề án đầu tư bảo tồn các di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng gắn với đầu tư hạ tầng du lịch vào các điểm tham quan du lịch, các di tích lịch sử - văn hóa; hướng dẫn các địa phương xác định các sản phẩm đặc thù về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể để lập kế hoạch bảo tồn, tôn tạo và khai thác phục vụ du lịch văn hóa.

7. Sở Giao thông Công chính: Có giải pháp tối ưu hỗ trợ các phương tiện giao thông hoạt động trên các tuyến du lịch trong và ngoài thành phố. Phối hợp với Sở Du lịch xây dựng các điểm dừng chân cho du khách trên quốc lộ có cung đường dài, lưu lượng khách du lịch lớn và thường xuyên nâng cấp, cải tạo các điều kiện cơ sở hạ tầng đến các khu, điểm du lịch để khách du lịch đi lại dễ dàng, thuận tiện.

8. Sở Xây dựng và Viện Quy hoạch: Phối hợp với Sở Du lịch và các địa phương hoàn thành nhanh các quy hoạch phát triển du lịch: Cát Bà, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Vĩnh Bảo. Tiến hành khảo sát một số khu vực, điểm có tiềm năng phát triển lịch như: Lưu vực các sông Đa Độ, quận Kiến An, khu núi Voi, sông Giá, rừng ngập mặn Vinh Quang, làng hoa Đằng Hải... để quy hoạch tiếp theo./.