Nghị quyết 03/2016/NQ-HĐND về đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng
Số hiệu: 03/2016/NQ-HĐND Loại văn bản: Nghị quyết
Nơi ban hành: Thành phố Cần Thơ Người ký: Phạm Văn Hiểu
Ngày ban hành: 22/07/2016 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Lĩnh vực: Văn hóa , thể thao, du lịch, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 03/2016/NQ-HĐND

Cần Thơ, ngày 22 tháng 7 năm 2016

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN ĐƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
KHÓA IX, KỲ HỌP THỨ HAI

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ;

Xét Tờ trình số 47/TTr-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2016 của Ủy ban nhân dân thành phố về đặt tên, đổi tên đường và công trình công cộng; Báo cáo thẩm tra của Ban văn hóa - xã hội; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thống nhất đặt tên 08 tuyến đường, đổi tên 01 tuyến đường và 01 công trình công cộng trên địa bàn thành phố Cần Thơ, cụ thể:

1. Đặt tên 08 tuyến đường trên địa bàn 05 quận, huyện

a) Quận Ninh Kiều (03 tuyến đường): Lê Chân, Ngô Sĩ Liên, Lý Chính Thắng

b) Quận Cái Răng (01 tuyến đường): Bùi Quang Trinh

c) Quận Bình Thủy (02 tuyến đường): Nguyễn Thị Tạo, Đinh Công Chánh

d) Quận Ô Môn (01 tuyến đường): Trần Ngọc Hoằng

đ) Huyện Vĩnh Thạnh (01 tuyến đường): Phù Đổng Thiên Vương

2. Đổi tên đường, tên công trình công cộng trên địa bàn 02 quận, huyện

a) Quận Bình Thủy: 01 tuyến đường

Đường Hồ Trung Thành (tên cũ: Đường Công Binh)

b) Huyện Phong Điền: 01 công trình công cộng

Cầu Tây Đô (tên cũ: Cầu Phong Điền)

Kèm theo:

- Phụ lục I: Thuyết minh vị trí các tuyến đường và công trình công cộng;

- Phụ lục II: Tóm tắt tiểu sử danh nhân và ý nghĩa địa danh.

Điều 2. Giao Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức triển khai và thực hiện việc gắn biển tên đường và công trình công cộng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành.

Giao Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân thành phố và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết này.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ khóa IX, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 22 tháng 7 năm 2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2016./.

 

 

CHỦ TỊCH




Phạm Văn Hiểu

 

PHỤ LỤC I

THUYẾT MINH QUY MÔ, VỊ TRÍ CÁC TUYẾN ĐƯỜNG VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
(Kèm theo Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐND ngày 22 tháng 7 năm 2016 của Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ)

A. ĐƯỜNG (09 tuyến)

STT

TÊN ĐƯỜNG

CHIỀU DÀI (m)

LÒNG ĐƯỜNG (m)

LỘ GIỚI (m)

SỐ LÀN XE

PHÂN NHÓM

GIỚI HẠN (Điểm đầu - điểm cuối)

TÊN TẠM GỌI HIỆN NAY

GHI CHÚ

I

QUẬN NINH KIỀU (03 tuyến)

1

Lê Chân

460

9

20

2

IV

Đường số 39 - Đường số 23, khu dân cư 91B

Đường A2, khu dân cư 91B

 

2

Ngô Sĩ Liên

380

9

20

2

IV

Đường Nguyễn Văn Linh - Đường số 3, khu dân cư Metro

Đường số 1, khu dân cư Metro

 

3

Lý Chính Thắng

355

4 - 7

4 - 19

2

IV

Đường 3 tháng 2 - Đường Nguyễn Văn Linh

Đường nội bộ khu dân cư 178, đường 3 tháng 2

 

II

QUẬN CÁI RĂNG (01 tuyến)

1

Bùi Quang Trinh

500

8 x 2

28

4

IV

Đường Võ Nguyên Giáp (đấu nối với đường Bùi Quang Trinh hiện hữu) - Đường A5, khu đô thị Phú An

Đường A2, khu đô thị Phú An

Đường Bùi Quang Trinh (mới) có chiều dài toàn tuyến 1.439 m

III

QUẬN BÌNH THỦY (03 tuyến)

1

Hồ Trung Thành

1.200

8

16

2

IV

Đường Lê Hồng Phong - Đường Huỳnh Phan Hộ

Đường Công Binh

Đổi tên đường

2

Nguyễn Thị Tạo

1.192

4

4

1

IV

Nối tiếp đường Nguyễn Thị Tạo hiện hữu - Đường Võ Văn Kiệt

Đoạn đường Nguyễn Thị Tạo - Võ Văn Kiệt

Đường Nguyễn Thị Tạo (mới) có chiều dài toàn tuyến là 2.392 m

3

Đinh Công Chánh

1.465

4

4

1

IV

Nối tiếp đường Đinh Công Chánh hiện hữu - Đường Võ Văn Kiệt

Đoạn đường Đinh Công Chánh - Đường Võ Văn Kiệt

Đường Đinh Công Chánh (mới) có chiều dài toàn tuyến là 5.365 m

IV

QUẬN Ô MÔN (01 tuyến)

1

Trần Ngọc Hoằng

1.000

5

6

2

IV

Quốc lộ 91 - Giáp ranh xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ

Đoạn đường vào Nông trường Sông Hậu

 

V

 HUYỆN VĨNH THẠNH (01 tuyến)

1

Phù Đổng Thiên Vương

3.083

12

42

2

II

Quốc lộ 80 - Cầu Láng Chim

Đoạn đường Bốn Tổng - Một Ngàn

 

B. CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG (01 công trình)

STT

TÊN CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG

ĐỊA CHỈ

QUY MÔ
(Thông số mô tả quy mô theo quy định chuyên môn đối với từng loại công trình cụ thể)

PHÂN NHÓM

TÊN TẠM GỌI HIỆN NAY

GHI CHÚ

I

HUYỆN PHONG ĐIỀN (01 công trình)

1

Cầu Tây Đô

Thị trấn Phong Điền - Xã Nhơn Ái

Bê tông cốt thép, dài 85m, rộng 5m, tải trọng 13 tấn

IV

Cầu Phong Điền

Đổi tên cầu

 

PHỤ LỤC II

TÓM TẮT TIỂU SỬ DANH NHÂN VÀ Ý NGHĨA ĐỊA DANH
(Kèm theo Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐND ngày 22 tháng 7 năm 2016 của Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ)

A. ĐƯỜNG (09 tuyến)

I. QUẬN NINH KIỀU (03 tuyến)

1. Lê Chân (20 - 43)

Lê Chân là nữ tướng thời Trưng Vương, quê ở làng An Biên, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Thân phụ của Bà bị Thái thú Tô Định giết, vì quyết báo thù nhà nợ nước, Bà cùng các nữ tướng theo giúp Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Trong các trận đánh, Bà thường được cử đi tiên phong, dũng cảm có tiếng.

Đuổi được quân xâm lược, Trưng Nữ Vương rất trọng vọng Bà, giao cho Bà coi việc quốc phòng. Để nung chí chiến đấu của dân quân, Bà thường mở cuộc thi võ và diễn võ hai, ba ngày liên tiếp, tương truyền Bà là người nghĩ ra môn thể thao đánh phết còn lưu truyền đến ngày nay. Năm Tân Sửu 41, nhà Hán sai Mã Viện sang xâm chiếm nước ta, Bà quyết chiến với giặc nhiều trận ác liệt, cuối cùng Bà tử trận tại cánh đồng làng Mai Động. Về sau, dân làng lập đền thờ Bà, các triều vua đều có ban sắc, phong Bà là Thượng đẳng phúc thần công chúa. Hàng năm, Nhân dân vẫn mở hội tưởng niệm Bà vào các ngày 4, 5, 6 tháng Giêng.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế - Thành phố Hồ Chí Minh: Tổng hợp, 2006 - 1690 tr; 24 cm).

2. Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV)

Ngô Sĩ Liên là nhà Sử học lớn, quê ở làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Tây), đỗ Tiến sĩ năm 1442, làm quan ở Viện Hàn lâm, sau thăng Đô ngự sử, thọ 99 tuổi.

Vào thời Hồng Đức (1470 - 1497), Ông làm việc ở Viện Quốc sử, được giao biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư (15 quyển). Trong bộ sử, Ông đề cao tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, song cũng khẳng định tư tưởng phong kiến Nho giáo trong tiến trình phát triển lịch sử.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn....- H.: Giáo dục, 2006- 648 tr; 24 cm).

3. Lý Chính Thắng (1917 - 1946)

Lý Chính Thắng tên thật là Nguyễn Đức Huỳnh, quê ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có thời gian theo học Trường Trung học tỉnh Thanh Hóa, sau vào hoạt động trong Nam, tham gia Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và gây cơ sở Đảng ở khu vực Đa Kao (Đất Hộ).

Tháng 3/1945, Ông được phái ra Bắc để bắt liên lạc với Trung ương, sau đó lên đường vào Nam đem theo quyết định khởi nghĩa vũ trang cho Xứ ủy Nam Kỳ. Cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông hoạt động trong ngành giao thông liên lạc tại vùng Sài Gòn bị giặc chiếm. Bị giặc Pháp bắt và tra tấn dã man, ông mất tại Bệnh viện Chợ Rẫy ngày 30/9/1946.

Ông đã được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn....- Hương.- H.: Giáo dục, 2006- 648 tr; 24 cm).

II. QUẬN CÁI RĂNG (01 tuyến)

1. Bùi Quang Trinh (1923 - 1945)

Liệt sỹ Bùi Quang Trinh quê gốc ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Năm 1940 gia đình anh về sống ở Cần Thơ. Cụ thân sinh là người lao động giỏi, biết nhiều nghề. Anh được đồng chí Ung Văn Khiêm - một trong những đồng chí lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng giác ngộ cách mạng.

Anh là con lớn nhất trong gia đình gồm 10 anh em. Sau khi đỗ bằng Thành Chung ở Cần Thơ, Anh lên Sài Gòn học hội họa ở Trường Mỹ thuật Gia Định, đồng cảm với nỗi khổ của người dân, có ý thức phản kháng cường quyền, bất công xã hội và trước thái độ cửa quyền, hách dịch, hà khắc của viên Bố Chánh, Anh quyết định bỏ việc khi đang làm “Quan phán” ở tòa Bố chánh Hà Tiên.

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, anh về Cần Thơ tham gia cướp chính quyền. Sau đó gia nhập lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của Công an Nam bộ). Ít ngày sau khi tái chiếm thị xã Cần Thơ, giặc Pháp đổ quân về Cái Răng, âm mưu từ “bàn đạp” này để có thể “nống” ra đánh phá các cơ sở kháng chiến, các cơ quan đầu não của Cần Thơ. “Nhà việc” của xã Thường Thạnh được chúng chọn làm trụ sở của Ban chỉ huy quân sự Pháp do tên quan ba Ru-ăng làm chỉ huy trưởng.

Ngày 12 tháng 11 năm 1945, Anh là Phó chỉ huy trưởng chỉ huy trận đánh Cái Răng, là một trong 5 chiến sĩ của “Đội cảm tử Quốc gia tự vệ cuộc” do đồng chí Lê Bình chỉ huy đã “Hóa trang kỳ tập” vào Ban Chỉ huy cánh quân Pháp đặt tại Cái Răng, giết hơn 20 tên giặc. Đây là trận đánh có tiếng vang lớn rất đáng ghi nhớ của quân dân Cần Thơ kể từ khi quân Pháp tái chiếm Cần Thơ được ít ngày. Anh đã anh dũng hy sinh trong trận đánh này.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Bình Minh - Tiếng súng Cái Răng: Ký sự - Lịch sử/Phương Hạnh - Cần Thơ, 1992 - 35tr).

III. QUẬN BÌNH THỦY (03 tuyến)

1. Hồ Trung Thành (1952 - 1978)

Hồ Trung Thành là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, còn được gọi là Hồ Thành Lân, quê ở xã Phú Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Ông nhập ngũ năm 1970, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1972. Từ năm 1970 - 1972, Ông là chiến sĩ đặc công Quân khu 9, tham gia đánh 10 trận, diệt nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Trong hai trận đánh sân bay Trà Nóc (Cần Thơ) đêm 16/5/1972 và đêm 11/9/1972, Ông điều tra nghiên cứu và chỉ huy tổ đặc công phá hủy 15 máy bay; trong đó, Ông trực tiếp phá hủy 09 máy bay. Còn trong hai trận đánh kho Vị Thanh và Rạch Giá đêm 15/10/1972 và đêm 14/11/1972, Hồ Trung Thành sử dụng mìn hẹn giờ phá hủy 27 xe quân sự, 03 kho đạn (15.000 tấn), 01 kho xăng (1.000 tấn), diệt 47 tên địch.

Qua nhiều trận chiến đấu, Ông được tặng thưởng 01 Huy chương Chiến công hạng Nhì, 03 Huy chương Chiến công hạng Ba. Ông được phong quân hàm Thượng úy năm 1978. Khi được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Ông là Đại đội trưởng Đại đội đặc công 19, Đoàn 8, quân giải phóng miền Nam Việt Nam.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam/Bộ Quốc phòng.- H.: Quân đội nhân dân, 2004.- 1295 tr; 27 cm).

2. Nguyễn Thị Tạo (1916 - 1994)

Mẹ Nguyễn Thị Tạo quê ở Long Hòa, thành phố Cần Thơ, có 03 con là liệt sĩ. Bằng Luật 10/59, Mỹ - Diệm lê máy chém khắp miền Nam tàn sát đồng bào, căm thù quân cướp nước, Mẹ Nguyễn Thị Tạo hăng hái tham gia hoạt động cách mạng và lần lượt tiễn 03 người con lên đường nhập ngũ, các anh chiến đấu và hy sinh rất dũng cảm.

Ngày 20/4/1963, Mẹ chính thức đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Không ngại khó khăn, nguy hiểm, Mẹ tích cực bảo vệ, nuôi chứa và vận động quần chúng ủng hộ, giúp đỡ cán bộ, bộ đội. Mẹ còn lãnh đạo đội quân chính trị đấu tranh trực diện với địch tại thành phố Cần Thơ.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Mẹ tuy tuổi cao nhưng là tấm gương tiêu biểu, cùng với các đồng chí cán bộ trẻ ở địa phương lao vào công tác không mệt mỏi, giải quyết, khắc phục mọi hậu quả chiến tranh để lại. Mẹ đảm nhận Ban Cán sự Phụ nữ Khóm VI, phường Bình Thủy. Tháng 6/1976, Mẹ được Đảng, Nhà nước cho về hưu, cư ngụ ấp Bình Nhựt A, xã Long Hòa.

Với thành tích của Mẹ và sự hy sinh các con của Mẹ cho Tổ quốc, Chủ tịch nước đã khen tặng Mẹ Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì và danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Cần Thơ/Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy Cần Thơ.- 2008.- tr. 79 -Sách dày 693 trang khổ giấy 19,5 x 27,5 cm).

3. Đinh Công Chánh (1839 - 1899)

Đinh Công Chánh là con của ông Đinh Công Điển và bà Huỳnh Thị Hiệu. Lúc nhỏ, ông học tại gia, khi lên 7 tuổi, ông theo học trường chữ Nho ở xóm Bà Đồ do bà giáo Nguyễn Thị Nguyệt dạy, không lâu sau, bà giáo qua đời, ông trở về tiếp tục học tại gia.

Ông là người tham gia vào Tao đàn văn học đầu tiên của làng Bình Hưng (tên trước của làng Bình Thủy). Ông được Bùi Hữu Nghĩa dạy làm thơ, Bùi Hữu Sanh truyền dạy nghề thuốc Bắc, thuốc Nam và được vị lão sư Nguyễn Giác Nguyên tin yêu, hướng dẫn đi theo con đường của các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ. Ông tham gia phong trào vận động Đông Du (do Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo) tại làng Bình Thủy. Ông được Ban Tế tự Đình thần Bình Thủy giao việc trông coi Đình và cất miếu thờ Thần Nông, Sơn Quân và nhà Võ Ca (sân khấu). Ông đã hoàn thành tốt các công việc được giao và được nhân dân hết lòng khen ngợi.

Đương thời, ông được xem là nhà Nho, thường kêu gọi nhân dân làm điều lành, tránh làm điều dữ; đồng thời, ông cũng là một danh y, tu hành đức độ và giỏi về thiên văn, địa lý. Năm 1887, ông là Trưởng Ban Bảo tự chùa Long Quang. Sau đó, ông được bầu giữ chức Bồi Bái ở Đình thần Bình Thủy - Long Tuyền (chức việc này được xem như hộ vệ của thần).

Ông mất năm 1899, sau một tai nạn khi tham gia trùng hưng chùa Long Quang. Ông mất đi để lại niềm thương cảm vô hạn trong nhân dân làng cổ Bình Thủy - Long Tuyền, người ta thường nhắc đến ngày mất của ông bằng câu ca dao: Ngày ba, tháng tý, giờ thìn/Nhằm năm Kỷ Hợi, đế kinh triệu hồi.

(Theo nguồn dữ liệu Ngân hàng tên đường, Nguồn trích dẫn: Chuyện làng cổ Bình Thủy - Long Tuyền/Nguyễn Sương - Cần Thơ, Nxb Đại học Cần Thơ, năm 2011 - 150 trang).

IV. QUẬN Ô MÔN (01 tuyến)

1. Trần Ngọc Hoằng (1925 - 2000)

Trần Ngọc Hoằng là Anh hùng Lao động, sinh ngày 06/8/1925, tại phường An Hòa, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ.

Tham gia cách mạng tháng 7/1944, đến tháng 8/1945, tham gia cướp chính quyền tại thị xã Bạc Liêu. Ngày 02/9/1945, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong 09 năm kháng chiến chống Pháp kiên cường, Ông sống trong lòng địch. Năm 1954, Ông tập kết ra Bắc và được đi học tại Học viện Quân chính cấp cao khóa I tại Hà Nội. Năm 1963, Ông là Thượng úy, Bí thư Đảng ủy chính trị viên Tiểu Đoàn H27, vượt Trường Sơn vào Nam đánh Mỹ.

Năm 1975, Ông mang Quân hàm Thiếu tá, giữ chức Chính ủy Trường Quân chính quân khu 9. Năm 1976, Ông chuyển ngành về làm Phó Trưởng ty Nông nghiệp Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ). Tháng 4/1979, Ông tình nguyện xây dựng nông trường và làm Giám đốc Nông trường Sông Hậu, kiêm Giám đốc Nông trường 30 tháng 4, tỉnh Sóc Trăng. Nông trường Sông Hậu do Ông xây dựng từ vùng đất hoang hóa đã trở thành đơn vị 02 lần đạt Anh hùng Lao động (năm 1985 và 1999).

Với công lao to lớn, thành tích đặc biệt xuất sắc, ông Trần Ngọc Hoằng đã được khen thưởng: Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Anh hùng Lao động; Chiến sĩ thi đua toàn quốc; Chiến sĩ hai giỏi toàn quốc; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương chuyên ngành các loại.

Ông từ trần vào 19 giờ 20 phút, ngày 15/7/2000. Ghi nhận công lao to lớn của Ông với việc khai mở phát triển sự nghiệp giáo dục trong Nông trường Sông Hậu, Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ đã ký Quyết định số 885/QĐ-CTUB ngày 16/4/2001 đổi tên Trường THPT Nông trường Sông Hậu thành Trường THPT Trần Ngọc Hoằng.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu do Trường THPT Trần Ngọc Hoằng, huyện Cờ Đỏ cung cấp).

V. HUYỆN VĨNH THẠNH (01 tuyến)

1. Phù Đổng Thiên Vương

Phù Đổng Thiên Vương là người anh hùng nhỏ tuổi thời Hùng Vương, có tên Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, Thánh Gióng xuất thân từ một gia đình nghèo ở làng Gióng (Gia Lâm - Hà Nội), ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười. Bấy giờ, vào đời Vua Hùng Vương thứ 6, giặc Ân từ phương Bắc tràn xuống đánh phá nước Văn Lang, quân ta chống đỡ rất khó khăn. Vua Hùng lo lắng, cho người đi các nơi cầu người tài giỏi đánh giặc. Sứ của vua đến làng Gióng, rao lời cầu. Cậu bé Gióng ba tuổi bỗng biết nói, nhờ mẹ gọi sứ vào và nhờ sứ về đóng cho mình 01 con ngựa sắt, 01 cái nón sắt và 01 chiếc roi sắt để đi đánh giặc. Sứ về tâu vua, vua Hùng liền sai người rèn ngựa, nón, roi sắt chở đến làng. Cậu bé làng Gióng bỗng vươn mình đứng dậy thành người khổng lồ. Dân làng nấu cơm, cậu đã ăn liền một lúc hết "bảy nong cơm, ba nong cà - Uống một hớp nước, cạn đà khúc sông". Sau đó, cậu nhảy lên mình ngựa sắt, đội nón, cầm roi, thúc ngựa lên đường. Ngựa sắt bỗng hí vang, phun lửa cháy cả một vùng rồi phi nhanh về phía giặc. Cậu vung roi sắt quật chết nhiều tên giặc, chẳng may roi gãy, cậu bèn nhổ các bụi tre ngà ven đường để đánh. Thây giặc ngổn ngang, đất nước sạch bóng quân thù. Cậu quay ngựa, phi về núi Sóc ở quê nhà, cởi áo sắt treo trên cành cây rồi bay về trời.

Ghi nhớ công ơn người anh hùng nhỏ tuổi, quên mình vì nước, Nhân dân đã lập đền thờ cậu bé Gióng, tôn làm Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, ngày cậu bé Gióng ra đi, dân làng lại tổ chức Hội Gióng, diễn lại cuộc chiến ngày xưa, ghi nhắc chiến tích anh hùng của cậu bé Gióng.

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam/Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn....- H.: Giáo dục, 2006.- 648 tr; 24 cm).

B. CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG (01 công trình)

I. HUYỆN PHONG ĐIỀN (01 công trình)

1. Tây Đô

Tây Đô là tên gọi của Cần Thơ xưa. Trước nay chưa có một văn bản nhà nước nào chính thức gọi Cần Thơ là Tây đô (thủ đô miền Tây). Tuy nhiên, do vị trí địa lý thuận lợi về giao thông, thương mại, công kỹ nghệ và cả quân sự đều ở trung tâm khu vực châu thổ sông Cửu Long nên từ trước đến nay Cần Thơ được coi là vị trí trung tâm của vùng.

Từ tháng 02/1919, trên tạp chí Nam Phong đã đăng loạt bài du ký Một tháng ở Nam kỳ của ông Phạm Quỳnh. Đây là nhà văn, nhà báo đầu tiên ở miền Bắc vào viếng miền Nam. Bài báo có đoạn viết "Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phong quang, thật xứng tên làm tỉnh đầu miền Tây (La capitale de L'Ouest - Tây Đô). Đường phố thênh thang, nhà cửa san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn” (Theo bài báo “Cần Thơ xưa” của nhà nghiên cứu Sơn Nam đăng liên tiếp nhiều kỳ trên báo Cần Thơ năm 1994).

Chính hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, văn hóa, xã hội của Cần Thơ đã từng tồn tại, phát triển qua các thời kỳ, tạo cơ sở để trước nay không ai bảo ai mà nhiều người ở nhiều nơi vẫn thường gọi Cần Thơ là Tây Đô.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trọng tâm là giai đoạn cuối của chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ, nhu cầu tác chiến và quy mô tác chiến rất cao, tỉnh Cần Thơ cần phải có đơn vị tập trung cấp tiểu đoàn để tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Ngày 24/6/1964, giữa lúc cuộc chiến đấu của Nhân dân ta chống Mỹ xâm lược ngày một trở nên quyết liệt thì tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ tiểu đoàn bộ binh đầu tiên mang tên Tây Đô được thành lập. Tiểu đoàn Tây Đô, một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Cần Thơ đã đóng góp nhiều công lao, xương máu, lập nhiều chiến công tạo nên Vòng Cung rực lửa, Xà No dậy sóng, đánh thắng nhiều đơn vị sừng sỏ của Mỹ - ngụy. “Ra đi là chiến thắng, đánh là tiêu diệt” là truyền thống, là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, là niềm tin của Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ. Tiểu đoàn Tây Đô đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương hai lần danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 20/6/1995, tiểu đoàn Tây Đô chính thức đóng tại doanh trại thuộc xã Nhơn Ái (gần chợ Phong Điền), huyện Châu Thành A (nay là huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ).

(Cơ sở dữ liệu Ngân hàng tên đường và công trình công cộng thành phố Cần Thơ. Nguồn tư liệu: Địa chí Cần Thơ/Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ - Cần Thơ, 2002).