Luật Hôn nhân và gia đình 1986
Số hiệu: 21-LCT/HĐNN7 Loại văn bản: Luật
Nơi ban hành: Quốc hội Người ký: Trường Chinh
Ngày ban hành: 29/12/1986 Ngày hiệu lực: Đang cập nhật
Ngày công báo: 15/01/1987 Số công báo: Số 1
Lĩnh vực: Dân số, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới, Tình trạng: Đang cập nhập
Ngày hết hiệu lực: Đang cập nhật

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 21-LCT/HĐNN7

Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 1986

 

LUẬT

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chống bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau tiến bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội.
Kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, để tiếp tục xây dựng và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phòng kiến, chống ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình tư sản ;
Căn cứ vào Điều 64 và Điều 65 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ;
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Nhà nước bảo đảm thực sự chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc, bền vững.

Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc các tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo được tôn trọng và bảo vệ.

Điều 2

Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.

Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội.

Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.

Điều 3

Nhà nước và xã hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.

Điều 4

Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi ; cấm cưỡng ép ly hôn.

Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.

Cấm ngược đãi, hành hạ cha, mẹ, vợ, chồng, con cái.

Chương 2:

KẾT HÔN

Điều 5

Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.

Điều 6

Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.

Điều 7

Cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây :

a) Đang có vợ hoặc có chồng ;

b) Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình ; đang mắc bệnh hoa liễu ;

c) Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời ;

d) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.

Điều 8

Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định.

Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở ngoài nước do cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận.

Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.

Điều 9

Việc kết hôn vi phạm một trong các Điều 5, 6, 7 của Luật này là trái pháp luật.

Một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữa Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án nhân dân huỷ việc kết hôn trái pháp luật.

Tài sản của những người mà hôn nhân bị huỷ được giải quyết theo nguyên tắc : tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người ấy ; tài sản chung được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên ; quyền lợi chính đáng của bên bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn được bảo vệ.

Quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn.

Chương 3:

NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA VỢ, CHỒNG

Điều 10

Vợ, chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình.

Điều 11

Vợ, chồng có nghĩa vụ chung thuỷ với nhau, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng nhau thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.

Chồng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho vợ thực hiện tốt chức năng của người mẹ.

Điều 12

Vợ, chồng có quyền tự do chọn nghề nghiệp chính đáng, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Điều 13

Chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán.

Điều 14

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung.

Điều 15

Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình.

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng.

Điều 16

Đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.

Điều 17

Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau.

Điều 18

Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này.

Chương 4:

NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN CỦA CHA MẸ VÀ CON

Điều 19

Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc hoặc tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ và đạo đức.

Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con.

Cha mẹ phải làm gương tốt cho con về mọi mặt, và phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.

Điều 20

Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình.

Điều 21

Các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình.

Con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ.

Điều 22

Con đã thành niên còn ở chung với cha mẹ có quyền lựa chọn nghề nghiệp, tham gia các công tác chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Điều 23

Con có quyền có tài sản riêng.

Con từ 16 tuổi trở lên còn ở chung với cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình, và nếu có thu nhập riêng thì phải đóng góp vào nhu cầu của gia đình.

Điều 24

Cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên trước pháp luật.

Cha mẹ quản lý tài sản của con chưa thành niên.

Điều 25

Cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con dưới 16 tuổi gây ra. Trong trường hợp cha mẹ không có khả năng mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường.

Con chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản riêng của mình đối với các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra. Nếu con không có tài sản riêng thì cha mẹ phải bồi thường.

Điều 26

Người cha, người mẹ nào bị xử phạt về một trong các tội xâm phạm thân thể, nhân phẩm của con chưa thành niên, ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ con chưa thành niên, thì có thể bị Toà án nhân dân quyết định không cho trông giữ, giáo dục con, quản lý tài sản của con hoặc đại diện cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm. Đối với người đã sửa chữa, Toà án nhân dân có thể rút ngắn thời hạn này.

Người cha, người mẹ nói trên vẫn có nghĩa vụ đóng góp phí tổn nuôi dạy con.

Điều 27

Ông, bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha mẹ. Cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông bà không còn con. Anh chị em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường hợp không còn cha mẹ.

Chương 5:

XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON

Điều 28

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.

Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác.

Điều 29

Người được khai là cha, là mẹ một đứa trẻ có thể xin xác định đứa trẻ đó không phải là con mình.

Người không được khai là cha, là mẹ một đứa trẻ có thể xin xác định đứa trẻ đó là con của mình.

Điều 30

Việc cha mẹ nhận con ngoài giá thú do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người con công nhận và ghi vào sổ khai sinh.

Điều 31

Con ngoài giá thú có quyền xin nhận cha, mẹ kể cả trong trường hợp cha. mẹ đã chết.

Người mẹ, người cha hoặc người đỡ đầu có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.

Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên.

Điều 32

Con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ có mọi quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú.

Điều 33

Các tranh chấp về nhận con, nhận cha, mẹ do Toà án nhân dân nơi thường trú của người con xét xử.

Chương 6:

NUÔI CON NUÔI

Điều 34

Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt.

Giữa người nuôi và con nuôi có những nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con quy định ở các Điều từ 19 đến 25 của Luật này.

Điều 35

Người từ 15 tuổi trở xuống mới được nhận làm con nuôi. Trong trường hợp con nuôi là thương binh, người tàn tật hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn thì con nuôi có thể trên 15 tuổi.

Người nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.

Điều 36

Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng người nuôi, của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi chưa thành niên. Nếu nhận nuôi người từ 9 tuổi trở lên thì còn phải được sự đồng ý của người đó.

Điều 37

Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.

Điều 38

Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi.

Con liệt sĩ được nhận làm con nuôi vẫn hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ.

Điều 39

Việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt khi người nuôi hoặc con nuôi hoặc cả hai người có hành vi nghiêm trọng xâm phạm thân thể, nhân phẩm của nhau hoặc những hành vi khác làm cho tình cảm giữa người nuôi và con nuôi không còn nữa.

Việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án nhân dân quyết định theo yêu cầu của con nuôi hoặc của người nuôi. Trong trường hợp người con nuôi chưa thành niên thì cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của con nuôi, Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.

Chương 7:

LY HÔN

Điều 40

Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải.

Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và nếu xét đúng là hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn.

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn.

Điều 41

Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm.

Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.

Điều 42

Khi ly hôn, việc chia tài sản do hai bên thoả thuận, và phải được Toà án nhân dân công nhận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định.

Việc chia tài sản khi ly hôn, về nguyên tắc, phải theo những quy định dưới đây:

a) Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy;

b) Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên;

c) Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình, căn cứ vào công sức của người được chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, cũng như vào đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

d) Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.

Điều 43

Khi ly hôn, nếu bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng do hai bên thoả thuận. Nếu hai bên không thoả thuận được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định.

Khi hoàn cảnh thay đổi, người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức hoặc thời gian cấp dưỡng. Nếu người cấp dưỡng kết hôn với người khác thì không được cấp dưỡng nữa.

Điều 44

Vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyền đối với con chung.

Điều 45

Khi ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ.

Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con.

Chương 8:

CHẾ ĐỘ ĐỠ ĐẦU

Điều 46

Việc đỡ đầu được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết, hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không có điều kiện để làm những nhiệm vụ đó.

Điều 47

Cha mẹ có thể cử người đỡ đầu cho con chưa thành niên. Nếu cha mẹ không cử được thì những người thân thích có thể cử người đỡ đầu cho người đó. Việc cử người đỡ đầu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn công nhận.

Trong trường hợp cha mẹ hoặc những người thân thích không cử được người đỡ đầu thì cơ quan Nhà nước có chức năng hoặc tổ chức xã hội đảm nhiệm việc đỡ đầu người con chưa thành niên.

Điều 48

Công dân làm người đỡ đầu phải là người từ 21 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt và có điều kiện thực tế để làm người đỡ đầu.

Điều 49

Công dân hoặc tổ chức làm người đỡ đầu có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây :

a) Chăm sóc, giáo dục người được đỡ đầu;

b) Quản lý tài sản của người được đỡ đầu;

c) Đại diện cho người được đỡ đầu trước pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người đó.

Điều 50

Công dân làm người đỡ đầu chịu sự giám sát của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về công việc đỡ đầu.

Người thân thích của người được đỡ đầu, Viện kiểm sát nhân dân,

Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thay người đỡ đầu, nếu người này không làm tròn nhiệm vụ, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của người đỡ đầu.

Công dân làm người đỡ đầu có thể yêu cầu cử người thay, nếu thấy mình không còn đủ điều kiện làm người đỡ đầu.

Điều 51

Việc đỡ đầu chấm dứt khi người chưa thành niên được giao lại cho cha mẹ, được nhận làm con nuôi, hoặc đủ 18 tuổi.

Chương 9:

QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÔNG DÂN VIỆTNAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Điều 52

Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên tuân theo những quy định của pháp luật nước mình về kết hôn.

Nếu việc kết hôn giữa công dân ViệtNam với người nước ngoài tiến hành ở ViệtNam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định ở Điều 5, Điều 6, Điều 7 của Luật này. Thủ tục kết hôn do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Điều 53

Những vấn đề về quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do Hội đồng Nhà nước quy định.

Điều 54

Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì tuân theo những quy định của các hiệp định đó.

Chương 10:

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 55

Đối với dân tộc thiểu số, Hội đồng Nhà nước căn cứ Luật này và tình hình cụ thể mà có những quy định thích hợp.

Điều 56

Hội đồng bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Luật này.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam giáo dục, vận động nhân dân thi hành nghiêm chỉnh Luật này.

Điều 57

Luật này thay thế Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 12, thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1986.

 

 

Trường Chinh

(Đã ký)

 

- Trường hợp kết hôn vi phạm Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 2 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
2. Trường hợp kết hôn vi phạm Điều 8

Điều 8 quy định: "Việc kết hôn do UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn ghi nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định..."

Trong thực tế vẫn có không ít trường hợp kết hôn không có đăng ký. Việc này tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái pháp luật, nếu việc kết hôn không trái với các điều 5, 6, 7. Trong những trường hợp này, nếu có một hoặc hai bên xin ly hôn, Toà án không huỷ việc kết hôn theo Điều 9 mà xử như việc xin ly hôn theo Điều 40.

Xem nội dung VB
- Huỷ việc kết hôn trái pháp luật được hướng dẫn bởi Khoản 1 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:

1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật (Điều 9).

Theo điều 9, Toà án nhân dân có quyền huỷ những việc kết hôn vi phạm các điều 5, 6, 7 Luật Hôn nhân và gia đình khi có yêu cầu của "một hoặc hai bên đã kết hôn trái pháp luật, vợ, chồng hoặc con của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam".

Huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhằm bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng có hậu quả rất lớn đối với cuộc sống của hai người và con cái của họ. Do đó, Toà án phải điều tra về nguyên nhân, hoàn cảnh việc kết hôn trái pháp luật, cuộc sống chung từ khi xin kết hôn đến khi xin huỷ việc kết hôn v.v... và phải cân nhắc rất thận trọng. Phương hưởng xử lý như sau:

a. Đối với những trường hợp chưa đủ tuổi kết hôn vi phạm Điều 5.

Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.

Nếu kết hôn chưa đủ tuổi như quy định của Điều 5 mà có yêu cầu của những người quy định trong Điều 9 thì Toà án xử huỷ việc kết hôn.

Nếu do kết hôn chưa đủ tuổi mà cuộc sống của hai bên không có hạnh phúc, đến khi họ đã đủ tuổi kết hôn mới có yêu cầu chấm dứt hôn nhân thì Toà án cũng huỷ việc kết hôn. Trái lại, nếu hai bên đã chung sống bình thường, đã có con và tài sản chung, sau đó mới phát sinh mâu thuẫn thì không máy móc xử huỷ việc kết hôn mà áp dụng Điều 40 (ly hôn) để xét xử.

b. Đối với những trường hợp bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn vi phạm Điều 6.

Bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối khi kết hôn đều là trái với nguyên tắc tự nguyện kết hôn. Vì vậy, Toà án xử huỷ việc kết hôn. Tuy nhiên, nếu khi kết hôn có bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối, nhưng sau đó vợ chồng đã thông cảm với nhau, chung sống hoà thuận thì một bên hoặc hai bên có nhu cầu chấm dứt hôn nhân, Toà án áp dụng Điều 40 (ly hôn) để xét xử chứ không huỷ việc kết hôn, trừ trường hợp người đang có vợ hoặc có chồng nhưng đã nói dối là chưa có để kết hôn với người khác thì phải huỷ việc kết hôn đó.

c. Đối với những trường hợp vi phạm Điều 7

Điều 7 cấm kết hôn trong những trường hợp sau đây:

- Đang có vợ hoặc có chồng;

- Đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức hành vi của mình, đang mắc bệnh da diễu;

- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, hoặc cùng cha khác mẹ; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời;

- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.

(Cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ với con cái; ông bà với cháu nội, cháu ngoại; có họ trong phạm vi ba đời tính như sau: đối với người cùng một gốc sinh ra thì cha mẹ là đời thứ nhất; anh em là đời thứ hai; con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì, con già đời thứ ba).

Đối với hôn nhân vi phạm một trong các trường hợp của Điều 7 mà có người yêu cầu huỷ việc kết hôn thì nói chung Toà án phải xử huỷ việc kết hôn. Riêng đối với trường hợp đang có vợ, có chồng mà lấy người khác thì cần chú ý:

- Đối với những cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư của Toà án nhân dân tối cao số 60/TATC ngày 22-2-1978 hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác.

- Cá biệt nếu có trường hợp vợ chồng chưa ly hôn xong nhưng một bên đã đi lấy người khác. Nếu xét thấy hôn nhân trước trong thực tế đã không còn tồn tại, hai bên không thể đoàn tụ được nữa mà một bên hoặc hai bên đã xin ly hôn thì mặc dầu hôn nhân sau là không hợp pháp, nhưng không máy móc huỷ việc kết hôn sau mà có thể chỉ xử ly hôn đối với hôn nhân trước.

Hậu quả của việc huỷ kết hôn trái pháp luật là hai bên không được duy trì quan hệ vợ chồng nữa, tài sản riêng của ai thì người đó lấy về và tài sản chung được chia theo sự đóng góp của mỗi bên. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật là do một bên bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối thì người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối có thể yêu cầu Toà án giải quyết quyền lợi của họ (chia tài sản chung, cấp dưỡng...) như khi ly hôn.

d. Xử lý về hình sự những trường hợp kết hôn trái pháp luật.

Bộ luật hình sự đã quy định tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 141) và tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn (Điều 145). Vì vậy, trong những trường hợp đã cấu thành những tội này, Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố hoặc Toà án nhân dân có thể chuyển hồ sơ để yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Khi Toà án xét xử về hình sự thì ngoài việc quyết định hình phạt đối với bị cáo, cần phải tuyên rõ trong bản án là huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Nếu sau đó hai bên còn tranh chấp về con cái hoặc tài sản thì Toà án sẽ giải quyết những vấn đề này theo thủ tục về dân sự.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).

a. Tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.

Điều 14 và Điều 15 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng và Điều 16 quy định về tài sản riêng của mỗi bên.

Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản thu nhập như sau:

- Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, tiền thu nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt mức thu nhập của mỗi bên;

- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên;

- Tài sản mà vợ chồng được cho hoặc được thừa kế chung.

Tài sản được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu trong gia đình, do đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản đó. Vợ hoặc chồng sử dụng tài sản chung của gia đình được đương nhiên coi là sự thoả thuận của hai vợ chồng. Nhưng việc mua, bán, cho hoặc vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn (như: nhà ở, gia súc chăn nuôi như trâu, bò, tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn như máy thu hình, tủ lạnh, xe máy v.v...) thì phải có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chồng đều phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có sự uỷ nhiệm của vợ, chồng cho mình ký thay.

Tài sản riêng của vợ chồng (nếu có) bao gồm:

- Tài sản có trước khi kết hôn;

- Tài sản được cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Những món nợ của vợ chồng vay trước khi kết hôn hoặc vay trong thời kỳ hôn nhân mà không phải vì nhu cầu của gia đình thì vợ, chồng thanh toán bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng không đủ thì thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong tài sản chung hoặc vợ chồng có thể thoả thuận thanh toán bằng tài sản chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).

a. Tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.

Điều 14 và Điều 15 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng và Điều 16 quy định về tài sản riêng của mỗi bên.

Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản thu nhập như sau:

- Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, tiền thu nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt mức thu nhập của mỗi bên;

- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên;

- Tài sản mà vợ chồng được cho hoặc được thừa kế chung.

Tài sản được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu trong gia đình, do đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản đó. Vợ hoặc chồng sử dụng tài sản chung của gia đình được đương nhiên coi là sự thoả thuận của hai vợ chồng. Nhưng việc mua, bán, cho hoặc vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn (như: nhà ở, gia súc chăn nuôi như trâu, bò, tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn như máy thu hình, tủ lạnh, xe máy v.v...) thì phải có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chồng đều phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có sự uỷ nhiệm của vợ, chồng cho mình ký thay.

Tài sản riêng của vợ chồng (nếu có) bao gồm:

- Tài sản có trước khi kết hôn;

- Tài sản được cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Những món nợ của vợ chồng vay trước khi kết hôn hoặc vay trong thời kỳ hôn nhân mà không phải vì nhu cầu của gia đình thì vợ, chồng thanh toán bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng không đủ thì thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong tài sản chung hoặc vợ chồng có thể thoả thuận thanh toán bằng tài sản chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).

a. Tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng.

Điều 14 và Điều 15 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng và Điều 16 quy định về tài sản riêng của mỗi bên.

Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản thu nhập như sau:

- Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, tiền thu nhập về sản xuất ở gia đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt mức thu nhập của mỗi bên;

- Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên;

- Tài sản mà vợ chồng được cho hoặc được thừa kế chung.

Tài sản được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu trong gia đình, do đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản đó. Vợ hoặc chồng sử dụng tài sản chung của gia đình được đương nhiên coi là sự thoả thuận của hai vợ chồng. Nhưng việc mua, bán, cho hoặc vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản có giá trị lớn (như: nhà ở, gia súc chăn nuôi như trâu, bò, tư liệu sinh hoạt có giá trị lớn như máy thu hình, tủ lạnh, xe máy v.v...) thì phải có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua, bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết (như việc mua, bán nhà) thì vợ và chồng đều phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có sự uỷ nhiệm của vợ, chồng cho mình ký thay.

Tài sản riêng của vợ chồng (nếu có) bao gồm:

- Tài sản có trước khi kết hôn;

- Tài sản được cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Những món nợ của vợ chồng vay trước khi kết hôn hoặc vay trong thời kỳ hôn nhân mà không phải vì nhu cầu của gia đình thì vợ, chồng thanh toán bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng không đủ thì thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong tài sản chung hoặc vợ chồng có thể thoả thuận thanh toán bằng tài sản chung.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).
...
b. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, khi một bên chết hoặc một bên yêu cầu chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại

Chia tài sản khi ly hôn (Điều 42):

Khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung được chia đôi nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình hình cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên. Do đó, cần chú ý các trường hợp dưới đây:

- Đồ trang sức mà người vợ hoặc người chồng được cha mẹ vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài sản chung thì chia cho người đang sử dụng;

- Trong trường hợp vợ chồng còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ chồng được chia một phần trong khối tài sản của gia đình, căn cứ vào công sức mà người đó đã đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

- Con cái đã thành niên, có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong tài sản của cha mẹ khi cha mẹ ly hôn;

- Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của con cái chưa thành niên, đồng thời phải bảo vệ lợi ích của sản xuất và lợi ích về nghề nghiệp của mỗi bên.

Tài sản riêng của ai thì người đó được lấy về, nhưng người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, bằng các giấy tờ (văn tự, di chúc...) và bằng các chứng cứ khác. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung.

Tài sản chung và tài sản riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải thanh toán.

Chia tài sản khi có một bên chết (Điều 17):

Trong trường hợp một bên chết trước mà để lại di chúc chia di sản cho người thừa kế hoặc những người thừa kế theo luật của người đó yêu cầu chia di sản ngay thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Phần của người chết được chia theo pháp luật về thừa kế. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Trong trường hợp không cần chia thừa kế ngay thì người vợ hoặc chồng còn sống quản lý tài sản của người chết để lại.

Chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại (Điều 18):

Trong khi hôn nhân còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn).

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).
...
b. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, khi một bên chết hoặc một bên yêu cầu chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại

Chia tài sản khi ly hôn (Điều 42):

Khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung được chia đôi nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình hình cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên. Do đó, cần chú ý các trường hợp dưới đây:

- Đồ trang sức mà người vợ hoặc người chồng được cha mẹ vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài sản chung thì chia cho người đang sử dụng;

- Trong trường hợp vợ chồng còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ chồng được chia một phần trong khối tài sản của gia đình, căn cứ vào công sức mà người đó đã đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

- Con cái đã thành niên, có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong tài sản của cha mẹ khi cha mẹ ly hôn;

- Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của con cái chưa thành niên, đồng thời phải bảo vệ lợi ích của sản xuất và lợi ích về nghề nghiệp của mỗi bên.

Tài sản riêng của ai thì người đó được lấy về, nhưng người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, bằng các giấy tờ (văn tự, di chúc...) và bằng các chứng cứ khác. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung.

Tài sản chung và tài sản riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải thanh toán.

Chia tài sản khi có một bên chết (Điều 17):

Trong trường hợp một bên chết trước mà để lại di chúc chia di sản cho người thừa kế hoặc những người thừa kế theo luật của người đó yêu cầu chia di sản ngay thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Phần của người chết được chia theo pháp luật về thừa kế. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Trong trường hợp không cần chia thừa kế ngay thì người vợ hoặc chồng còn sống quản lý tài sản của người chết để lại.

Chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại (Điều 18):

Trong khi hôn nhân còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn).

Xem nội dung VB
- Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với tài sản của con được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con cái (các Điều 23, 24, 25, 26).

a. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với tài sản của con (các Điều 23 và 24).

Con chưa thành niên có quyền có tài sản riêng như: tài sản được thừa kế, thu nhập bằng lao động hoặc thu nhập hợp pháp khác v.v... Người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi thực hiện những quyền và nghĩa vụ về tài sản, cho nên cha mẹ là người đại diện cho con trước pháp luật và quản lý tài sản của con.

Trong việc quản lý tài sản của con, cha mẹ có nghĩa vụ giữ gìn và sử dụng hợp lý tài sản của con. Những việc mua, bán, cầm cố... tài sản của con phải vì lợi ích của con. Tuy nhiên, nếu con đã từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải có sự đồng ý của con, cha mẹ mới được mua, bán, cầm cố tài sản của con do mình quản lý.

Xem nội dung VB
- Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với tài sản của con được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con cái (các Điều 23, 24, 25, 26).

a. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với tài sản của con (các Điều 23 và 24).

Con chưa thành niên có quyền có tài sản riêng như: tài sản được thừa kế, thu nhập bằng lao động hoặc thu nhập hợp pháp khác v.v... Người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi thực hiện những quyền và nghĩa vụ về tài sản, cho nên cha mẹ là người đại diện cho con trước pháp luật và quản lý tài sản của con.

Trong việc quản lý tài sản của con, cha mẹ có nghĩa vụ giữ gìn và sử dụng hợp lý tài sản của con. Những việc mua, bán, cầm cố... tài sản của con phải vì lợi ích của con. Tuy nhiên, nếu con đã từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải có sự đồng ý của con, cha mẹ mới được mua, bán, cầm cố tài sản của con do mình quản lý.

Xem nội dung VB
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con chưa thành niên gây ra được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con cái (các Điều 23, 24, 25, 26).
...
b. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con chưa thành niên gây ra (Điều 25).

Xuất phát từ yêu cầu là phải bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại và trách nhiệm của cha mẹ là phải giáo dục, quản lý con chưa thành niên, nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con chưa thành niên gây ra như sau:

- Về nguyên tắc, cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con dưới 16 tuổi gây ra. Tuy nhiên, nếu con có tài sản riêng mà cha mẹ không có khả năng bồi thường đầy đủ hoặc không có khả năng bồi thường thì lấy tài sản của con để bồi thường cho đủ.

- Con chưa thành niên từ 16 đến 18 tuổi mà có tài sản riêng thì phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng của con không đủ để bồi thường hoặc không có tài sản riêng thì cha mẹ phải bồi thường cho đủ.

Con đã thành niên mà có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì con phải bồi thường, cha mẹ không có trách nhiệm bồi thường cho con. Nếu con còn ở chung với cha mẹ có đóng góp vào tài sản chung của gia đình thì phần đóng góp đó được coi là tài sản của con, được trích ra để bồi thường. Tuy nhiên, nếu con đã thành niên nhưng không có năng lực hành vi như mắc bệnh tâm thần mà cha mẹ có trách nhiệm trông giữ thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con gây ra.

Người chưa thành niên dưới 16 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là bị đơn, nhưng Toà án có thể hỏi người chưa thành niên để điều tra.

Người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản riêng của mình thì họ là bị đơn, nhưng cha mẹ phải được tham gia tố tụng với tư cách là đại diện hợp pháp của bị đơn. Nếu tài sản của con không đủ để bồi thường thì cha mẹ là đồng bị đơn, nếu con không có tài sản thì cha mẹ là bị đơn.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm c Khoản 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con cái (các Điều 23, 24, 25, 26).
...
c. Những trường hợp không cho cha mẹ trông giữ, giáo dục, quản lý tài sản của con, đại diện cho con (Điều 26).

Toà án chỉ có quyết định về vấn đề này khi cha mẹ bị xử phạt về tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con chưa thành niên. Tội phạm thực hiện đối với người con nào thì chỉ tước những quyền này của cha mẹ đối với người con đó. Tuy nhiên đây không phải là biện pháp bắt buộc, do đó, việc áp dụng phải rất hạn chế và chỉ thực hiện khi cần phải ngăn chặn cha, mẹ tiếp tục xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con và người con chưa thành niên có thể được giao cho một người khác trong gia đình hoặc tổ chức xã hội trông nom, giáo dục. Nếu người con chưa thành niên đã có khả năng nhận thức (như đã 14-15 tuổi) thì Toà án cũng cần phải căn cứ vào cả ý kiến của con về việc có cần phải tước một số quyền của cha mẹ đối với con không.

Thời gian tước các quyền nói trên là từ 1 đến 5 năm, nhưng nếu người có lỗi đã sửa chữa thì Toà án có thể rút ngắn thời hạn đó.

Xem nội dung VB
- Xác định cha, mẹ cho con được hướng dẫn bởi Khoản 5 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
5. Xác định cha, mẹ cho con (các Điều 28, 29, 30, 31, 32, 33).

a. Trong những trường hợp cha hoặc mẹ xin nhận con hoặc không nhận con thì phải xác định ai là cha, là mẹ của đứa trẻ.

Trong thực tế có những trường hợp hai bên đã có quan hệ sinh lý trước khi kết hôn, cho nên không thể cho rằng chỉ có đứa trẻ sinh ra trong thời gian 180 ngày đến 300 ngày sau khi kết hôn mới là con của vợ chồng. Vì vậy, Điều 28 chỉ quy định: "con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác". (Thí dụ: người vợ công nhận là mình có thai với người khác trước khi kết hôn; người chồng chứng minh rằng mình đã đi công tác xa trong thời gian mà vợ có thể có thai đứa trẻ v.v...).

Trường hợp người phụ nữ chưa có chồng mà sinh con (còn ngoài giá thú) nhưng cha của đứa trẻ không nhận con, thì phải căn cứ vào những chứng cứ về người đó có thai với ai.

Trường hợp người mẹ sinh con ngoài giá thú đã bỏ con, người khác đã nhận đứa trẻ về nuôi, nhưng sau này người mẹ xin nhận con thì người mẹ phải chứng minh là mình đã đẻ ra đứa trẻ. Nếu có tranh chấp về việc nuôi đứa trẻ thì Toà án phải xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ và phải quan tâm đến quyền lợi của người đã nuôi đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục đứa trẻ tốt hơn. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được thì cần phải hỏi ý kiến của nó.

Con ngoài giá thú có quyền xin nhận cha, mẹ, kể cả trường hợp cha mẹ đã chết.

b. Đối với những quyền về nhân thân như: xin xác định cha, mẹ cho mình; xin huỷ việc làm con nuôi vì đã bị ngược đãi v.v..., thì người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình đứng nguyên đơn. Nếu dưới 16 tuổi thì phải có cha, mẹ là người đại diện hợp pháp của họ (trừ trường hợp cha mẹ là người mà người chưa thành niên yêu cầu xác định là cha, là mẹ của họ), hoặc phải có Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam khởi tố.

Người chưa thành niên từ 16 đến dưới 18 tuổi bị xác định là cha của một đứa trẻ thì họ là bị đơn. Cha mẹ của người chưa thành niên phải được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của con. Nếu Toà án xác định người chưa thành niên là cha của đứa trẻ thì cha mẹ của người chưa thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc làm nhiệm vụ cấp dưỡng cho đứa trẻ.

Khi tham gia tố tụng, người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên có những quyền và nghĩa vụ trong tố tụng như người mà mình đại diện.

Trong trường hợp xin xác định một người đã chết là cha, mẹ mình thì trong việc này chỉ có nguyên đơn mà không có bị đơn, nhưng vợ, chồng và con cái của người đã chết được tham gia tố tụng với tư cách người dự sự.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)

a. Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định.

Nếu đứa trẻ đã làm con nuôi người khác mà cha mẹ đòi lại con thì Toà án cần xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục và bồi dưỡng đứa trẻ thành công dân có ích cho xã hội. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được, thì cũng cần hỏi cả ý kiến của nó. Nếu hai bên chỉ vì xích mích mà phát sinh ra việc đòi con thì phải giải quyết xích mích đó.

b. Theo Điều 34 thì giữa người nuôi và con nuôi có những quyền và nghĩa vụ như con đẻ. Do đó, con nuôi được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi và cha mẹ nuôi được thừa kế tài sản của con nuôi. Đối với cha mẹ đẻ thì người con nuôi không còn thuộc hàng thừa kế theo luật của cha mẹ đẻ nữa, trừ trường hợp họ được thừa kế theo di chúc của cha mẹ đẻ hoặc được những người thừa kế theo luật bằng lòng cho họ hưởng một phần di sản của người chết.

c. Theo Điều 39 thì Toà án quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong những trường hợp sau đây:

+ Cha mẹ nuôi đã không thực hiện đúng mục đích, ý nghĩa xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động của con nuôi; cha mẹ nuôi dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa như trộm cắp, mãi dâm...; hoặc cha mẹ nuôi có những hành vi nghiêm trọng, xâm phạm thân thể, nhân phẩm của con nuôi như ngược đãi, hành hạ nghiêm trọng con nuôi...). Trong những trường hợp này Toà án quyết định huỷ việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của người con nuôi, nhưng nếu người con nuôi chưa thành niên thì cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc nuôi con nuôi.

+ Con nuôi đã có những hành vi nghiêm trọng xâm phạm thân thể, nhân phẩm của cha mẹ nuôi hoặc có những hành vi khác làm cho tình cảm giữa người nuôi và con nuôi không còn nữa. Thí dụ: đánh chửi người nuôi hoặc cha mẹ, ông bà của người nuôi. Tuy nhiên, khi xử lý cũng cần phải có sự phân biệt giữa người con nuôi đã thành niên và con nuôi chưa thành niên.

- Nếu người con nuôi đã thành niên mà có những hành vi nói trên đối với cha mẹ nuôi hoặc không chịu lao động mà chỉ ăn bám vào cha mẹ nuôi, làm cho cha mẹ nuôi không thể chịu đựng được, thì huỷ bỏ việc nuôi con nuôi;

- Nếu người con nuôi chưa thành niên thì nói chung phải giáo dục để người đó sửa chữa những lỗi lầm đối với cha mẹ nuôi. Chỉ huỷ việc nuôi con nuôi nếu người đó có người khác nuôi dưỡng (như cha mẹ đẻ, hoặc những người thân thuộc khác). Nếu họ không có người khác nuôi dưỡng thì cha mẹ nuôi phải giáo dục con nuôi, Toà án không huỷ việc nuôi con nuôi.

Khi việc nuôi con nuôi chấm dứt thì những quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng chấm dứt.

Bản án của Toà án về chấm dứt nuôi con nuôi phải được thông báo cho Uỷ ban nhân dân ở cơ sở để ghi vào sổ hộ tịch.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a và b Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐT năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)

a. Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định.

Nếu đứa trẻ đã làm con nuôi người khác mà cha mẹ đòi lại con thì Toà án cần xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục và bồi dưỡng đứa trẻ thành công dân có ích cho xã hội. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được, thì cũng cần hỏi cả ý kiến của nó. Nếu hai bên chỉ vì xích mích mà phát sinh ra việc đòi con thì phải giải quyết xích mích đó.

b. Theo Điều 34 thì giữa người nuôi và con nuôi có những quyền và nghĩa vụ như con đẻ. Do đó, con nuôi được thừa kế tài sản của cha mẹ nuôi và cha mẹ nuôi được thừa kế tài sản của con nuôi. Đối với cha mẹ đẻ thì người con nuôi không còn thuộc hàng thừa kế theo luật của cha mẹ đẻ nữa, trừ trường hợp họ được thừa kế theo di chúc của cha mẹ đẻ hoặc được những người thừa kế theo luật bằng lòng cho họ hưởng một phần di sản của người chết.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐT năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)

a. Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định.

Nếu đứa trẻ đã làm con nuôi người khác mà cha mẹ đòi lại con thì Toà án cần xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục và bồi dưỡng đứa trẻ thành công dân có ích cho xã hội. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được, thì cũng cần hỏi cả ý kiến của nó. Nếu hai bên chỉ vì xích mích mà phát sinh ra việc đòi con thì phải giải quyết xích mích đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐT năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)

a. Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định.

Nếu đứa trẻ đã làm con nuôi người khác mà cha mẹ đòi lại con thì Toà án cần xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục và bồi dưỡng đứa trẻ thành công dân có ích cho xã hội. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được, thì cũng cần hỏi cả ý kiến của nó. Nếu hai bên chỉ vì xích mích mà phát sinh ra việc đòi con thì phải giải quyết xích mích đó.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm a Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐT năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)

a. Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý do luật định.

Nếu đứa trẻ đã làm con nuôi người khác mà cha mẹ đòi lại con thì Toà án cần xuất phát từ lợi ích của đứa trẻ mà xem xét ai là người có điều kiện nuôi dưỡng, giáo dục và bồi dưỡng đứa trẻ thành công dân có ích cho xã hội. Nếu đứa trẻ đã nhận thức được, thì cũng cần hỏi cả ý kiến của nó. Nếu hai bên chỉ vì xích mích mà phát sinh ra việc đòi con thì phải giải quyết xích mích đó.

Xem nội dung VB
- Những trường hợp Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi được hướng dẫn bởi Điểm c Khoản 6 Nghị quyết số 01/NQ-HĐT năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
6. Nuôi con nuôi (các Điều 34, 35, 36, 37, 38, 39)
...
c. Theo Điều 39 thì Toà án quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong những trường hợp sau đây:

+ Cha mẹ nuôi đã không thực hiện đúng mục đích, ý nghĩa xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động của con nuôi; cha mẹ nuôi dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa như trộm cắp, mãi dâm...; hoặc cha mẹ nuôi có những hành vi nghiêm trọng, xâm phạm thân thể, nhân phẩm của con nuôi như ngược đãi, hành hạ nghiêm trọng con nuôi...). Trong những trường hợp này Toà án quyết định huỷ việc nuôi con nuôi theo yêu cầu của người con nuôi, nhưng nếu người con nuôi chưa thành niên thì cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi, Viện kiểm sát nhân dân, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc nuôi con nuôi.

+ Con nuôi đã có những hành vi nghiêm trọng xâm phạm thân thể, nhân phẩm của cha mẹ nuôi hoặc có những hành vi khác làm cho tình cảm giữa người nuôi và con nuôi không còn nữa. Thí dụ: đánh chửi người nuôi hoặc cha mẹ, ông bà của người nuôi. Tuy nhiên, khi xử lý cũng cần phải có sự phân biệt giữa người con nuôi đã thành niên và con nuôi chưa thành niên.

- Nếu người con nuôi đã thành niên mà có những hành vi nói trên đối với cha mẹ nuôi hoặc không chịu lao động mà chỉ ăn bám vào cha mẹ nuôi, làm cho cha mẹ nuôi không thể chịu đựng được, thì huỷ bỏ việc nuôi con nuôi;

- Nếu người con nuôi chưa thành niên thì nói chung phải giáo dục để người đó sửa chữa những lỗi lầm đối với cha mẹ nuôi. Chỉ huỷ việc nuôi con nuôi nếu người đó có người khác nuôi dưỡng (như cha mẹ đẻ, hoặc những người thân thuộc khác). Nếu họ không có người khác nuôi dưỡng thì cha mẹ nuôi phải giáo dục con nuôi, Toà án không huỷ việc nuôi con nuôi.

Khi việc nuôi con nuôi chấm dứt thì những quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng chấm dứt.

Bản án của Toà án về chấm dứt nuôi con nuôi phải được thông báo cho Uỷ ban nhân dân ở cơ sở để ghi vào sổ hộ tịch.

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP năm 1988 (VB hết hiệu lực: 10/01/2001)

Hướng dẫn các Toà án nhân dân áp dụng một số quy định mới của Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
...
3. Chế độ tài sản vợ chồng (các Điều 15, 16, 17, 18 và 42).
...
b. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, khi một bên chết hoặc một bên yêu cầu chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại

Chia tài sản khi ly hôn (Điều 42):

Khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung được chia đôi nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình hình cụ thể của gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên. Do đó, cần chú ý các trường hợp dưới đây:

- Đồ trang sức mà người vợ hoặc người chồng được cha mẹ vợ hoặc chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng, nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài sản chung thì chia cho người đang sử dụng;

- Trong trường hợp vợ chồng còn sống chung với gia đình mà tài sản của bản thân vợ chồng không xác định được thì vợ chồng được chia một phần trong khối tài sản của gia đình, căn cứ vào công sức mà người đó đã đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình. Lao động trong gia đình được coi như lao động sản xuất;

- Con cái đã thành niên, có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong tài sản của cha mẹ khi cha mẹ ly hôn;

- Khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của con cái chưa thành niên, đồng thời phải bảo vệ lợi ích của sản xuất và lợi ích về nghề nghiệp của mỗi bên.

Tài sản riêng của ai thì người đó được lấy về, nhưng người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, bằng các giấy tờ (văn tự, di chúc...) và bằng các chứng cứ khác. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng thì tài sản đó là tài sản chung.

Tài sản chung và tài sản riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa thì không phải thanh toán.

Chia tài sản khi có một bên chết (Điều 17):

Trong trường hợp một bên chết trước mà để lại di chúc chia di sản cho người thừa kế hoặc những người thừa kế theo luật của người đó yêu cầu chia di sản ngay thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Phần của người chết được chia theo pháp luật về thừa kế. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. Trong trường hợp không cần chia thừa kế ngay thì người vợ hoặc chồng còn sống quản lý tài sản của người chết để lại.

Chia tài sản khi hôn nhân còn tồn tại (Điều 18):

Trong khi hôn nhân còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng (như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được chia như khi xử về ly hôn).

Xem nội dung VB
- Điều này được hướng dẫn bởi Khoản 2 và Khoản 3 Mục III Công văn 24/1999/KHXX năm 1999

Tại Hội nghị công tác ngành Toà án năm 1998 (từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 2 năm 1999), Toà án nhân dân tối cao đã có bản giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng. Tuy nhiên, tại Hội nghị này một số Toà án có ý kiến đề nghị được giải đáp bổ sung một số vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn xét xử. Trong lời bế mặc Hội nghị, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thay mặt Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã giải đáp sơ bộ về những vấn đề đó. Để áp dụng đúng và thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, Toà án nhân dân tối cao giải đáp những vấn đề được nêu bổ sung tại Hội nghị như sau:
...
III. VỀ DÂN SỰ
...
2. Khi quyết định việc đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, thì Toà án căn cứ vào đâu và mức đóng góp phí tổn tối thiểu là bao nhiêu?

Trước hết phải khẳng định rằng việc quyết định người không nuôi giữ con phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con là căn cứ vào Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình "... Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó...". Trong trường hợp các bên không thoả thuận được với nhau về việc đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con, thì việc quyết định mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con phải tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Tuy nhiên, căn cứ vào mức sống của nhân dân ta trong hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, Toà án nhân dân tối cao tạm thời hướng dẫn là mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con.

3. Trong trường hợp Toà án đã xử cho vợ chồng ly hôn và giao con là người chưa thành niên cho vợ (hoặc chồng) trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục, nay người được nuôi dưỡng con đi xuất cảnh và muốn đưa con đi cùng, nhưng người không được nuôi giữ con không đồng ý nên xảy ra tranh chấp và đương sự yêu cầu Toà án giải quyết, thì cần giải quyết như thế nào?

Theo quy định tại Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình, thì "Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con"; do đó, trong trường hợp trên đây, nếu người không được nuôi giữ con đã có đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung; nếu họ chưa có đơn thì Toà án hướng dẫn cho họ làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con và khi họ đã có đơn, thì Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục chung. Khi xem xét yêu cầu thay đổi việc nuôi giữ con, thì Toà án cũng phải căn cứ vào tinh thần quy định tại Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình để quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cần thay đổi việc nuôi giữ con; cụ thể là: "... Việc giao con chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, về nguyên tắc, con còn bú được giao cho người mẹ nuôi giữ". Trong trường hợp họ không làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết thay đổi việc nuôi giữ con, mà chỉ yêu cầu người được nuôi giữ không được đưa con đi xuất cảnh với mục đích cản trở việc xuất cảnh của người được xuất cảnh, thì đây là loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Nghị định 184-CP năm 1994 (VB hết hiệu lực: 02/01/2003)

Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986;
...
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Nghị định này quy định thủ tục đăng ký việc kết hôn, công nhận việc kết hôn, công nhận việc cha, mẹ nhận con ngoài giá thú, đăng ký việc nuôi con nuôi, công nhận việc nuôi con nuôi và công nhận việc đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Điều 2. Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước trong việc kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
...
Điều 3. Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan trực thuộc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định này.

Điều 4.
...
Điều 5
...
Điều 6.
...
Chương 2: THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN VÀ CÔNG NHẬN VIỆC KẾT HÔN

Điều 7.
...
Điều 8. Giấy tờ quy định tại Điều 7 Nghị định này phải được lập thành 2 bộ hồ sơ và nộp cho Sở Tư pháp, nếu việc kết hôn được tiến hành tại Việt Nam; hoặc nộp cho Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự, nếu việc kết hôn được tiến hành ở nước ngoài.

Điều 9.
...
Điều 10. Trình tự đăng ký kết hôn tại Việt Nam được tiến hành như sau:
...
Điều 11. Trình tự đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự được tiến hành như sau:
...
Điều 12.
...
Chương 3: THỦ TỤC CÔNG NHẬN VIỆC CHA, MẸ NHẬN CON NUÔI NGOÀI GIÁ THÚ

Điều 13.
...
Điều 14.
...
Điều 15.
...
Chương 4: THỦ TỤC ĐĂNG KÝ NUÔI CON NUÔI VÀ CÔNG NHẬN VIỆC NUÔI CON NUÔI

Điều 16.
...
Điều 17.
...
Điều 18.
...
Điều 19.Trình tự giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam tại Việt Nam làm con nuôi được thực hiện như sau:
...
Điều 20.
...
Điều 21.
...
Điều 22. Trình tự giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam ở nước ngoài làm con nuôi được tiến hành như sau:
...
Điều 23.
...
Điều 24.
...
Điều 25.
...
Chương 5: THỦ TỤC CÔNG NHẬN VIỆC ĐỠ ĐẦU

Điều 26.
...
Điều 27.
...
Điều 28.
...
Điều 29.
...
Điều 30.
...
Điều 31.
...
Chương 6: GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ XỬ LÝ VI PHẠM

Điều 32.
...
Điều 33
...
Điều 34.
...
Điều 35.
...
Chương 7: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 36.
...
Điều 37. Giấy xác nhận quy định tại điểm b Khoản 1, Khoản 2 Điều 7, điểm b Khoản 2 Điều 16, điểm b khoản 2 Điều 23 và Khoản 1 Điều 30 của Nghị định này được áp dụng đối với người không quốc tịch, người có hai hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài như sau:
...
Điều 38.
...
Điều 39.
...
Điều 40.
...
Điều 41.

Xem nội dung VB
- Chương này được hướng dẫn bởi Pháp lệnh 28-L/CTN năm 1993 (VB hết hiệu lực: 01/01/2001)

Căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình;
...
Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1
...
Điều 2
...
Điều 3
...
Điều 4
...
Điều 5
...
Chương 2: QUAN HỆ HÔN NHÂN

Mục 1: KẾT HÔN

Điều 6
...
Điều 7
...
Mục 2: HUỶ BỎ VIỆC KẾT HÔN

Điều 8
...
Điều 9
...
Mục 3: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG

Điều 10
...
Điều 11
...
Mục 4: LY HÔN

Điều 12
...
Điều 13
...
Chương 3: QUAN HỆ GIA ĐÌNH

Mục 1: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ VÀ CON; XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON

Điều 14
...
Điều 15
...
Mục 2: NUÔI CON NUÔI

Điều 16
...
Điều 17
...
Mục 3: ĐỠ ĐẦU

Điều 18
...
Điều 19
...
Chương 4: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 20
...
Điều 21
...
Điều 22
...
Điều 23
...
Điều 24

Xem nội dung VB
- Thủ tục đăng ký kết hôn được hướng dẫn bởi Chương 2 Nghị định 184-CP năm 1994 (VB hết hiệu lực: 02/01/2003)

Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
...
Chương 2: THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN VÀ CÔNG NHẬN VIỆC KẾT HÔN

Điều 7.
...
Điều 8. Giấy tờ quy định tại Điều 7 Nghị định này phải được lập thành 2 bộ hồ sơ và nộp cho Sở Tư pháp, nếu việc kết hôn được tiến hành tại Việt Nam; hoặc nộp cho Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự, nếu việc kết hôn được tiến hành ở nước ngoài.

Điều 9.
...
Điều 10. Trình tự đăng ký kết hôn tại Việt Nam được tiến hành như sau:
...
Điều 11. Trình tự đăng ký kết hôn tại Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự được tiến hành như sau:
...
Điều 12.

Xem nội dung VB
- Thủ tục đăng ký kết hôn được hướng dẫn bởi Nghị định 12-HĐBT năm 1989 (VB hết hiệu lực: 30/11/1994)

Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình ngày 29-12-1986;
...
Chương 1: QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. - Người nước ngoài nói trong Nghị định này là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch.

Điều 2. - Người nước ngoài có đủ những điều kiện kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc theo pháp luật của nước mà người đó thường trú vào thời điểm xin đăng ký kết hôn (đối với người không quốc tịch) và theo những quy định ở các điểm 5, 6 và 7 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, thì có thể được đăng ký kết hôn với công dân Việt Nam.
...
Điều 3. - Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương nơi thường trú của bên công dân Việt Nam.
...
Chương 2: THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Điều 4.
...
Điều 5.
...
Điều 6. - Việc đăng ký kết hôn tiến hành trên cơ sở những quy định chung của Nhà nước Việt Nam, tại trụ sở cơ quan Nhà nước đã giải quyết việc kết hôn đó. Cơ quan Nhà nước đăng ký việc kết hôn bằng cách cấp giấy chứng nhận kết hôn cho các đương sự và ghi sổ kết hôn theo mẫu quy định chung của Nhà nước.

Chương 3: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 7. - Nghị định này không áp dụng đối với những trường hợp công dân Việt Nam là người dân tộc thiểu số thường trú ở các khu vực biên giới và không thuộc những đối tượng quy định ở điều 4, khoản 2 Nghị định này, kết hôn với người cùng dân tộc thuộc quốc tịch của nước láng giềng. Thủ tục đăng ký kết hôn cho những trường hợp này tuân theo những quy định chung của Nhà nước về đăng ký hộ tịch.

Điều 8. - Nghị định này có hiệu lực từ ngày ban hành. Những quy định trước đây của Hội đồng Bộ trưởng trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Điều 9. - Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định này.

Điều 10. - Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này

Xem nội dung VB




Hiện tại không có văn bản nào liên quan.