Công ước 78 năm 1946 về kiểm tra y tế cho trẻ em và thiếu niên làm việc trong các công việc phi công nghiệp
Số hiệu: | 78 | Loại văn bản: | Điều ước quốc tế |
Nơi ban hành: | *** | Người ký: | *** |
Ngày ban hành: | 09/10/1946 | Ngày hiệu lực: | Đang cập nhật |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Lĩnh vực: | Ngoại giao, điều ước quốc tế, Công nghiệp, Dân số, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới, | Tình trạng: | Đang cập nhập |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
CÔNG ƯỚC SỐ 78
CÔNG ƯỚC
VỀ KIỂM TRA Y TẾ CHO TRẺ EM VÀ THIẾU NIÊN LÀM VIỆC TRONG CÁC CÔNG VIỆC PHI CÔNG NGHIỆP, 1946
Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Montreal ngày 19 tháng 9 năm 1946, trong kỳ họp thứ hai mươi chín, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận một số đề nghị về việc kiểm tra y tế cho trẻ em và thiếu niên làm việc trong các công việc phi công nghiệp, là vấn đề thuộc điểm thứ ba trong chương trình nghị sự kỳ họp, và
Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước quốc tế,
Thông qua ngày 9 tháng 10 năm 1946, Công ước dưới đây gọi là Công ước về Kiểm tra y tế cho trẻ em và thiếu niên (phi công nghiệp), 1946.
Phần I.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
1. Công ước này áp dụng cho những trẻ em và thiếu niên làm việc hưởng lương hoặc có thu nhập trực tiếp hay gián tiếp trong các công việc phi công nghiệp.
2. Trong Công ước này, thuật ngữ “các công việc phi công nghiệp” bao gồm tất cả mọi công việc khác với những công việc đã được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là các công việc công nghiệp, nông nghiệp và hàng hải.
3. Cơ quan có thẩm quyền phải xác định ranh giới, phạm vi giữa các công việc phi công nghiệp với các công việc công nghiệp, nông nghiệp và hàng hải.
4. Pháp luật hoặc quy định quốc gia có thể miễn giảm áp dụng Công ước này đối với việc sử dụng lao động trong những công việc được coi là không nguy hiểm cho sức khoẻ của trẻ em và thiếu niên trong các cơ sở của gia đình mà chỉ có cha mẹ, con đẻ hoặc con đỡ đầu của họ làm việc ở đó.
Điều 2
1. Trẻ em và thiếu niên dưới 18 tuổi không được phép làm công hay làm việc trong các công việc phi công nghiệp trừ phi được kiểm tra y tế một cách kỹ lưỡng và đã được chứng nhận là có đủ sức khoẻ để làm công việc đó.
2. Việc kiểm tra y tế để chứng nhận có đủ sức khoẻ để làm việc phải thực hiện do một thầy thuốc có bằng cấp được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận và phải được xác nhận bằng một giấy chứng nhận sức khoẻ, hoặc xác nhận vào giấy phép làm việc, hoặc được ghi trong sổ lao động.
3. Tài liệu chứng nhận sức khoẻ để làm việc có thể được cấp:
a) Với những điều kiện làm việc nhất định
b) Cho một công việc nhất định hay một loạt công việc hoặc nghề nghiệp có những rủi ro tương tự cho sức khoẻ đã được xếp cùng một loại bởi cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thi hành pháp luật và pháp quy về kiểm tra y tế để làm việc.
4. Pháp luật hoặc quy định quốc gia phải chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền phát hành tài liệu chứng nhận sức khoẻ để làm việc, và phải xác định những điều kiện cần được xem xét khi lập và phát hành các tài liệu đó.
Điều 3
1. Sức khoẻ của một trẻ em hoặc thiếu niên đối với việc họ đang làm phải phụ thuộc việc giám định y tế cho đến khi họ đủ 18 tuổi.
2. Việc tiếp tục sử dụng một trẻ em hay thiếu niên dưới 18 tuổi phải phụ thuộc việc kiểm tra y tế nhiều lần trong thời gian không quá một năm một lần.
3. Pháp luật hoặc quy định quốc gia phải:
a) Có những quy định đối với những trường hợp đặc biệt đòi hỏi phải kiểm tra lại sức khoẻ ngoài việc kiểm tra hàng năm, hoặc phải kiểm tra lại theo định kỳ ngắn hơn, nhằm bảo đảm giám định một cách có hiệu quả những rủi ro liên quan đến công việc và tình trạng sức khoẻ của trẻ em hoặc thiếu niên đã được phát hiện trong những kỳ kiểm tra trước;
b) Uỷ quyền cho cơ quan có thẩm quyền việc yêu cầu kiểm tra sức khoẻ trong những trường hợp đặc biệt.
Điều 4
1. Trong các nghề có tỷ lệ rủi ro cao về sức khoẻ, việc kiểm tra và kiểm tra lại sức khoẻ để làm việc phải được thực hiện ít nhất đến khi 21 tuổi.
2. Pháp luật hoặc quy định quốc gia phải xác định hoặc uỷ quyền cho một cơ quan thích hợp để xác định những công việc hay loạt công việc, trong đó việc kiểm tra và kiểm tra lại sức khoẻ để làm việc phải được thực hiện ít nhất đến khi 21 tuổi.
Điều 5
Việc kiểm tra sức khoẻ đã được quy định ở các điều trên đây không được dẫn đến bất cứ khoản phí tổn nào đối với trẻ em hoặc thiếu niên hay cha mẹ của họ.
Điều 6
1. Cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành những biện pháp thích hợp để hướng nghiệp và tái thích ứng thể chất và nghề nghiệp cho trẻ em và thiếu niên mà việc kiểm tra sức khoẻ cho thấy họ không phù hợp với một loại công việc nào đó, hoặc bị tàn tật hay có khuyết tật về thể chất.
2. Tính chất và phạm vi của những biện pháp này phải được cơ quan có thẩm quyền xác định. Vì mục đích này, phải thiết lập sự hợp tác giữa các cơ quan lao động, y tế, giáo dục và xã hội có liên quan, phải duy trì mối liên hệ giữa các cơ quan này một cách có hiệu quả để thực hiện các biện pháp đó.
3. Đối với trẻ em và thiếu niên mà sức khoẻ để làm việc chưa được xác định rõ ràng, thì pháp luật hoặc quy định quốc gia có thể quy định:
a) Giấy phép làm việc, hoặc giấy chứng nhận sức khoẻ tạm thời có giá trị trong một thời hạn xác định, khi hết thời hạn này thì những trẻ em và thiếu niên này phải được kiểm tra lại sức khoẻ;
b) Giấy phép hoặc giấy chứng nhận yêu cầu phải có những điều kiện làm việc đặc biệt.
Điều 7
1. Người sử dụng lao động phải lưu giữ và sẵn sàng cung cấp cho các thanh tra viên lao động, giấy chứng nhận sức khoẻ để làm việc, hoặc giấy phép làm việc, hoặc sổ lao động, để chứng minh rằng không có lý do y tế ngăn cản làm việc theo quy định của pháp luật hoặc quy định quốc gia.
2. Pháp luật hoặc quy định quốc gia phải xác định:
a) Những biện pháp xác nhận căn cước cần áp dụng nhằm bảo đảm có hệ thống kiểm tra sức khoẻ để làm việc cho các trẻ em và thiếu niên đang làm cho riêng họ hoặc bố mẹ họ, những công việc buôn bán lưu động hay bất kỳ công việc nào được tiến hành trên đường phố hay nơi công cộng;
b) Những biện pháp kiểm tra khác cần áp dụng để bảo đảm thi hành nghiêm túc Công ước này.
Phần II.
NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI MỘT SỐ NƯỚC
Điều 8
1. Trong trường hợp lãnh thổ của một Nước thành viên bao gồm những vùng rộng lớn, và do tính chất thưa thớt của dân cư hay trình độ phát triển của các vùng đó mà cơ quan có thẩm quyền cho là không tiện áp dụng các quy định của Công ước này, thì cơ quan có thẩm quyền có thể miễn cho các vùng đó việc áp dụng Công ước này nói chung, hoặc với những ngoại lệ xét thấy thích hợp với một số cơ sở hoặc một số công việc.
2. Trong các báo cáo hàng năm đầu tiên về áp dụng Công ước này theo Điều 22 của Điều lệ Tổ chức Lao động quốc tế, các Nước thành viên phải chỉ rõ những vùng nào mà Nước đó dự định sẽ áp dụng những quy định của Điều này và nêu lý do vì sao phải áp dụng như vậy. Sau đó, không một Nước thành viên nào được áp dụng các quy định của Điều này nữa, trừ những vùng đã được xác định như trên.
3. Trong báo cáo hàng năm tiếp theo, Nước thành viên nào đã áp dụng những quy định của Điều này thì phải chỉ rõ những vùng nào không được áp dụng những quy định trên.
Điều 9
1. Nếu một nước thành viên, trước ngày ban hành pháp luật hoặc quy định cho phép phê chuẩn Công ước này, không có văn bản pháp luật hoặc quy định nào về việc kiểm tra sức khoẻ để làm việc cho thiếu niên trong các công việc phi công nghiệp, thì bằng một bản tuyên bố kèm theo văn bản phê chuẩn, có thể thay đổi độ tuổi xuống dưới 18 đối với trường hợp đã được quy định ở Điều 2 và 3, nhưng trong mọi trường hợp không được dưới 16 tuổi, có thể thay đổi độ tuổi xuống dưới 21 đối với các trường hợp đã được quy định ở Điều 4, nhưng mọi trường hợp không được dưới 19 tuổi.
2. Nước thành viên đã có một bản tuyên bố như vậy thì bất cứ lúc nào cũng có quyền huỷ bỏ tuyên bố này bằng một bản tuyên bố sau đó.
3. Mọi Nước thành viên có bản tuyên bố theo quy định tại Đoạn 1 Điều này mà đang có hiệu lực, thì trong bản báo cáo hàng năm, phải chỉ rõ những tiến bộ đã đạt được để nhằm áp dụng đầy đủ các quy định của Công ước này.
Phần III.
NHỮNG QUY ĐỊNH CUỐI CÙNG
Điều 10
Công ước này không làm ảnh hưởng tới bất cứ đạo luật, quyết định, tập quán hay thoả thuận nào giữa người sử dụng lao động với người lao động, nếu những đạo luật, quyết định, tập quán hay thoả thuận đó bảo đảm có những điều kiện thuận lợi hơn so với những quy định của Công ước này.
Điều 11
Những quy định cuối cùng mẫu.